Tải bản đầy đủ (.doc) (196 trang)

những giải pháp xây dựng đội ngũ bí thư, chủ tịch huyện vùng đồng bằng sông cửu long trong thời kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.43 KB, 196 trang )

Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền thực hiện công cuộc đổi mới
trong hơn mời năm qua, đã thu đợc những thành tựu to lớn, đa đất nớc ta ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Cách mạng nớc ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất n-
ớc. Đất nớc ta đang đứng trớc thời cơ, vận hội mới và những thách thức to
lớn. Từ nay đến năm 2020, toàn dân tộc ta phải ra sức phấn đấu đa đất nớc
cơ bản trở thành một nớc công nghiệp, đó là qui luật, là yêu cầu của lịch sử,
là vấn đề sống còn của dân tộc trong cuộc chạy đua kinh tế đối với khu vực
châu á và toàn cầu hiện nay.
ĐBSCL có 12 tỉnh, diện tích 39 nghìn km
2
, có 16,623.233 triệu dân,
2,4 triệu ha đất đang sử dụng để phát triển nông nghiệp và thủy sản, chiếm
50% sản lợng nông nghiệp cả nớc, là vùng đất đai trù phú của Nam bộ, có
nhiều tiềm năng kinh tế, nhân dân có truyền thống yêu nớc, đã sớm tiếp cận
với sản xuất hàng hóa, là vùng có tầm quan trọng lớn lao về mọi mặt đối với
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc.
Cùng cả nớc ĐBSCL tiến hành đẩy mạnh CNH, HĐH trong tình
hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, chứa đựng những yếu tố khó
lờng. Xuất phát từ vị trí, vai trò của cán bộ là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng, để chủ động nắm thời cơ, phát triển nhanh, vững chắc,
tạo ra thế và lực mới trong khu vực và thế giới, chiến thắng mọi thách thức,
cất cánh đầu thế kỷ XXI, tất yếu đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng đợc một đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt đồng bộ ở các cấp trong vùng
ĐBSCL, mà cấp thiết là đội ngũ Bí th, Chủ tịch huyện có đầy đủ tiêu chuẩn
về phẩm chất và năng lực, ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới để lãnh đạo
phát huy quyền làm chủ, khơi dậy mọi tiềm năng, sức sáng tạo to lớn của
1
nhân dân trong vùng, tiến hành đẩy mạnh CNH, HĐH trong khu vực theo


đúng định hớng xã hội chủ nghĩa, góp phần cùng với cả nớc thực hiện mục
tiêu: dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Cấp huyện ĐBSCL có vị trí quan trọng trong hệ thống tổ chức của
xã hội Việt Nam, là cấp trực tiếp lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Cấp huyện, đội ngũ cán bộ huyện, có thật sự
vững mạnh toàn diện, mà bức thiết nhất là đội ngũ Bí th, Chủ tịch huyện,
ngời giữ vai trò hạt nhân, chủ chốt nhất, là "linh hồn" của huyện Đảng bộ;
ngời đứng đầu cơ quan chính quyền cấp huyện, là trung tâm lãnh đạo, điều
hành mọi hoạt động của UBND huyện thì mới lãnh đạo, quản lý, xây dựng
đợc cấp cơ sở về mặt Đảng, Nhà nớc, thật sự trong sạch, vững mạnh toàn
diện, từ đó cấp cơ sở mới hoàn thành đợc nhiệm vụ cách mạng, nhất là
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc. Công cuộc đẩy mạnh CNH,
HĐH khu vực ĐBSCL đòi hỏi đội ngũ Bí th, Chủ tịch huyện phải luôn
ngang tầm nhiệm vụ cách mạng. Trong khi đó, thực trạng đội ngũ Bí th,
Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL có phẩm chất chính trị, phẩm chất cá nhân tốt,
do đợc rèn luyện trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc, thử thách
trong thực tiễn chặng đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhng tuổi đời đa số
lớn, khi đi vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc thì biểu hiện nhiều
mặt bất cập nh hạn chế tầm nhìn, năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo,
quản lý, hiệu quả công tác, cha ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới, do bị
hạn chế về trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn,
trình độ ngoại ngữ, tin học. Tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng nớc
ta đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng đợc một đội ngũ cán bộ có chất lợng cao,
đồng bộ, trớc hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp,
trong đó có đội ngũ Bí th, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL luôn ngang tầm
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới là một đòi hỏi khách quan và cấp
bách. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định:
"Toàn Đảng phải hết sức chăm lo xây dựng thật tốt đội ngũ cán bộ, chú
2
trọng đội ngũ cán bộ kế cận vững vàng, đủ bản lĩnh về các mặt" [ ].

Trên tinh thần đó, ngày 18 tháng 6 năm 1997, Đảng ta đã ra Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ơng Đảng, khóa VIII: "Về chiến lợc
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc", đã xác định tiêu chuẩn
chung, tiêu chuẩn riêng cho từng loại cán bộ trong thời kỳ mới.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề cán bộ có vai trò hết sức quan trọng, là vấn đề then chốt của
Xây dựng Đảng, là mắt xích trung tâm trong công cuộc đổi mới, là nhân tố
quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng, sự tồn vong của đất
nớc, chế độ. Chính vì vậy, từ trớc Các Mác, Ph-drích Ăng ghen, V.I. Lênin,
Hồ Chí Minh, đã từng nghiên cứu dới những góc độ khác nhau, đã để lại
cho mai sau những lời chỉ dẫn, những tổng kết quý báu về cán bộ. Các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nớc ta, rất quan tâm đến vấn đề cán bộ, nên đã có
nhiều tác phẩm, nhiều bài phát biểu đề cập đến vấn đề này. Các nhà nghiên
cứu khoa học đã có những công trình nghiên cứu tập thể, cá nhân, các cuộc
hội thảo khoa học, bài viết, đề cập đến vấn đề cán bộ, nhất là từ Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay với các công trình nghiên cứu khoa học
cấp bộ: "Mẫu hình ngời cán bộ lãnh đạo" của Giáo s Đậu Thế Biểu và Phó
Giáo s Lê Quang Vịnh: "Mẫu hình và con đờng hình thành ngời cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở" của Giáo s, Tiến sĩ Đỗ Nguyên Phơng; "Xây
dựng đội ngũ cán bộ quản lý ở nớc ta trong quá trình đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế" của Giáo s Đào Xuân Sâm; "Tổ chức thực tiễn và hình thành ng-
ời cán bộ lãnh đạo quản lý ở cơ sở, có đủ phẩm chất năng lực thực hiện
thắng lợi chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội" của Giáo s, Tiến
sĩ Đỗ Nguyên Phơng; các đề tài nghiên cứu cá nhân: "Đặc điểm tình hình
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị cấp chiến lợc trong công cuộc đổi mới
hiện nay" của Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung; "Xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay" của Tiến
sĩ Nguyễn Mậu Dung; "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình xây
3
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở từ năm

1975 đến 1993 (Qua thực tế một số tỉnh Nam Trung bộ)" của tiến sĩ Bùi Thị
Hồng Tiến và một số đề tài tiến sĩ, thạc sĩ khác.
Tuy nhiên, vấn đề "Xây dựng đội ngũ Bí th, Chủ tịch huyện vùng
ĐBSCL ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc (1996
- 2020)" cha đợc nghiên cứu. Đây là một đề tài đáp ứng theo yêu cầu đặt ra
của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, phù hợp với Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ơng Đảng (khóa VIII) "Về chiến lợc
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc", nghiên cứu hai chức danh
cụ thể trong một vùng cụ thể, ở thời kỳ mới, còn nhiều vấn đề cần đợc khai
thác.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Mục đích của đề tài là góp phần xây dựng đội ngũ Bí th, Chủ tịch
huyện vùng ĐBSCL luôn ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới - thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nớc.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài:
Nhiệm vụ của đề tài là phân tích làm rõ:
- Những đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng của cấp huyện ở ĐBSCL
và những vấn đề đang đặt ra đối với cấp huyện, trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH vùng ĐBSCL.
- Thực trạng đội ngũ Bí th, Chủ tịch huyện, công tác cán bộ ở
ĐBSCL và những yêu cầu bức thiết của thời kỳ mới.
- Tiêu chuẩn, con đờng hình thành và những giải pháp xây dựng đội
ngũ Bí th, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL ngang tầm đòi hỏi của thời
kỳ mới.
4
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là qua thực trạng đội ngũ Bí th, Chủ
tịch huyện ở vùng ĐBSCL trong hơn mời năm đổi mới và hớng tới năm
2020 nhằm xây dựng đội ngũ đó luôn ngang tầm với những đòi hỏi của sự

nghiệp CNH, HĐH đất nớc.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn, phơng pháp nghiên cứu của đề tài
4.1. Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của đề tài là học thuyết Mác - Lênin về chính Đảng
cách mạng của giai cấp công nhân, t tởng Hồ Chí Minh, những quan điểm
lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội III đến Đại hội VIII, các
Nghị quyết của Trung ơng về vấn đề cán bộ.
4.2. Cơ sở thực tiễn:
- Chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL giai đoạn từ nay
đến năm 2010 và định hớng đến năm 2020.
- Thực trạng đội ngũ Bí th, Chủ tịch huyện đơng nhiệm, kế cận, dự
bị, dự nguồn ở vùng ĐBSCL cùng với thực tiễn vận động không ngừng của
đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng của cấp huyện; vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ đội ngũ Bí th, Chủ tịch huyện trong quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH khu vực.
4.3. Phơng pháp nghiên cứu của đề tài:
Phơng pháp nghiên cứu của đề tài là phơng pháp nghiên cứu của chủ
nghĩa Mác - Lênin, kết hợp chặt chẽ phơng pháp lôgic và lịch sử, lý luận với
thực tiễn, phân tích và tổng hợp, đồng thời coi trọng phơng pháp khảo sát,
thống kê, so sánh, đối chiếu, tổng kết thực tiễn
5- Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Xác định một bớc cơ bản tiêu chuẩn cụ thể của chức danh Bí th,
Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nớc.
5
- Nêu lên con đờng hình thành đội ngũ Bí th, Chủ tịch huyện vùng
ĐBSCL trong thời kỳ mới.
- Đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ này luôn đáp ứng
đợc yêu cầu về số lợng và chất lợng.
6. ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Đề tài góp phần làm cơ sở cho việc đánh giá, lực chọn, quy hoạch,

đào tạo, rèn luyện, bố trí, sử dụng, đề bạt đội ngũ Bí th, Chủ tịch huyện
vùng ĐBSCL trong giai đoạn mới.
- Đồng thời đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu
giảng dạy môn Xây dựng Đảng trong hệ thống các Trờng Chính trị, nhất là
ở vùng ĐBSCL.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, danh mục các tài liệu
tham khảo, luận án gồm 3 chơng, 8 tiết.
6
Chơng 1
CấP HUYệN ở ĐồNG BằNG SÔNG CửU LONG - ĐặC ĐIểM,
Vị TRí, VAI TRò, CHứC NĂNG, NHIệM Vụ Và NHữNG VấN Đề
ĐặT RA TRONG THờI Kỳ MớI
1.1. Đặc điểm của cấp huyện ở đồng bằng sông Cửu Long
1.1.1. Đặc điểm địa lý
Về mặt địa lý tự nhiên, ĐBSCL là vùng đất nằm ở phía Tây Nam bộ,
cực Nam của Tổ quốc ta, đợc hình thành cách đây chừng ba thế kỷ, do phù
sa của con sông Cửu Long bồi đắp. ĐBSCL là một trong những đồng bằng
rộng, phì nhiêu ở Đông Nam á và thế giới, "có bờ biển dài 700km, với
khoảng 360.000 km
2
vùng kinh tế đặc quyền, giáp biển Đông và vịnh Thái
Lan rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển" [ ]; nằm kề vùng kinh tế
trọng điểm năng động nhất Việt Nam (thành phố Hồ Chí Minh) cạnh các n-
ớc Đông Nam á, có nhiều đối tác đầu t quan trọng; giáp Campuchia, gần
Tây Nguyên có nhiều khoáng sản, rừng phong phú, thuận lợi cho phát triển
giao lu; hợp tác quốc tế; nằm trong khu vực đờng hàng không, hàng hải
quốc tế quan trọng giữa Nam á, Đông á, Châu úc các quần đảo Thái Bình
Dơng, vị trí này hết sức quan trọng cho giao lu quốc tế [ ]. ĐBSCL có
diện tích tự nhiên là 39.533km

2
, với 16,623.233 triệu dân, đây là đồng bằng
lớn nhất nớc ta so với đồng bằng sông Hồng có diện tích khoảng 15.000km
2
và đồng bằng các tỉnh ven biển miền Trung nhỏ hẹp, chạy dọc theo chân
dãy Trờng Sơn ra biển, có tổng diện tích gần bằng đồng bằng sông Hồng.
ĐBSCL có vùng đất nớc ngọt chạy dọc theo hai bên bờ và giữa hai con sông
Tiền và sông Hậu, là vùng đất đợc thiên nhiên u đãi, nhng cũng nhiều thử
thách đối với c dân đến khai phá vùng đất này ngay từ thuở đầu là ngời
Kinh, ngời Hoa, ngời Khơ Me và ngời Chăm. Ngoài vùng đất nớc ngọt còn
có vùng đất phèn nhiều ở Đồng Tháp Mời, vùng tứ giác Long Xuyên, đất
7
phèn mặn tập trung tại vùng trung tâm bán đảo Cà Mau, khu vực đất mặn
thờng xuyên theo dãi đất hẹp ven biển, loại đất mặn từng thời kỳ nằm sâu
hơn trong nội địa dọc theo vùng ven biển Đông, đất than bùn vùng rừng U
Minh, đất xám trên phù sa cổ ở cực Bắc ĐBSCL, giáp biên giới Campuchia
vùng Đồng Tháp Mời, đất đồi núi ở vùng Châu Đốc, Hà Tiên, một số đảo,
hòn của hai tỉnh Cần Thơ, Kiên Giang, nằm ở ven biển và ngoài khơi biển
Đông. Vùng ĐBSCL có sông rạch, kênh đào chằng chịt, rất thuận lợi cho
giao thông đờng thủy trong khu vực. ĐBSCL nằm ở vùng nhiệt đới, khí hậu
ẩm, có một nền nhiệt độ cao và ổn định trong vùng "nhiệt độ trung bình
28
0
C" [ ], "tổng tính nhiệt của ĐBSCL đạt tới tỷ số 9800-10044
0
C" [
] không quá lạnh, không nóng quá, nhiệt độ dao động từ 15-16
0
C
đến 37-38

0
C" [ ], số giờ nắng trung bình cả năm từ 2226-2709 giờ" [
], nên quanh năm chói chang ánh nắng, có hai mùa ma nắng trong
năm rõ rệt, mỗi mùa kéo dài khoảng sáu tháng, mùa ma thờng kéo dài từ
tháng t tháng năm đến tháng mời, tháng mời một lợng ma bình quân năm
"cả vùng đạt từ 1520 - 1580 mm" [ ]. Trong mùa ma, thờng nắng sớm,
ma chiều; ngày nắng đêm ma, đêm ma ngày nắng, vài ngày ma dầm, vài
ngày nắng đan xen nhau, không phân ra bốn mùa rõ rệt nh ở miền Bắc nớc
ta, rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. ở vùng biển Đông theo qui luật
tự nhiên bán nhật triều, nên mỗi ngày có hai con nớc lớn ròng, còn ở Vịnh
Thái Lan theo qui luật tự nhiên nhật triều, nên mỗi ngày chỉ có một con nớc
lớn ròng. ĐBSCL có hai nguồn nớc ngọt một là nguồn từ sông Mê Công đổ
xuống và hai là nguồn do ma. Cả hai nguồn nớc ngọt này đều đặc trng theo
mùa rất rõ rệt, nửa năm thừa nớc và nửa năm thiếu nớc, nối tiếp nhau giữa
hai mùa ma nắng. Vào mùa ma vùng ĐBSCL thờng hay xảy ra lũ lụt ở các
tỉnh Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long An,
Tiền Giang. Đầu mùa khô và đầu mùa ma là thời gian thờng có các đợt
nắng hạn, vài ba năm thì có năm kéo dài độ nửa tháng, thậm chí hạn hàng
tháng, ảnh hởng lớn đến mùa màng một số tỉnh trong vùng bị hạn. Từ giữa
8
thế kỷ XX đến gần nay, từ sáu đến bảy năm thì có một trận lũ lụt lớn, nhng
trong vài năm gần đây mực nớc sông Tiền, sông Hậu hay lên cao bất thờng
vào mùa ma, nhất là từ tháng bảy đến tháng mời một, mời hai. Trong vài
năm gần đây, nhờ quy hoạch thực hiện hệ thống kinh tới tiêu vùng ĐBSCL
của Nhà nớc, cho thoát nớc ra biển Tây, nên đã hạn chế tình trạng ngập lũ
vào mùa ma. Vùng ĐBSCL ít khi có bão, từ cơn bão năm Thìn 1903 đến
cơn bão số 5 năm 1998 đã cách nhau 95 năm, nhng đã có bão thì hay bão
lớn, cờng độ mạnh, diễn biến nhanh, nên đã làm thiệt hại nhiều ngời và của
cải nhân dân trong vùng khác với bão miền Trung và miền Bắc, thờng hay
xảy ra hằng năm, đa số không lớn, cờng độ thấp, diễn biến chậm. Về hệ

sinh thái ĐBSCL còn có rừng ngập mặn nằm ở vùng ven biển Đông, trên
các bãi lầy mặn, tập trung ở bán đảo Cà Mau, các đầm lầy dừa nớc rải rác
hầu khắp các tỉnh ven biển, nhng nhiều nhất là ở các tỉnh Bến Tre, Trà
Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang; ĐBSCL còn có rừng tràm
trong khu vực đất than bùn U Minh, một số nơi trong vùng đất phèn Đồng
Tháp Mời, đồng bằng Hà Tiên; ĐBSCL có 9 cửa sông lớn, nơi nớc ngọt từ
sông chảy ra biển. Môi trờng cửa sông là nơi sinh sản và sống của các loài
tôm cá có giá trị thơng mại cao. ĐBSCL còn có hệ thống động vật phong
phú: 6 loài lỡng c, 35 loài bò sát, 23 loài có vú, 260 loài cá và 386 loài và
bộ chim [ ]. Số lợng và tính đa dạng của hệ động vật tập trung lớn nhất
trong các khu rừng tràm và rừng ngập mặn còn lại ở U Minh và vùng Tam
Nông, nhng nơi c trú liên tục bị phá hủy do nạn phá rừng, đã làm suy giảm
đáng kể động vật hoang dã vùng ĐBSCL trong hơn 10 năm gần đây.
Tài nguyên khoáng sản vùng ĐBSCL triển vọng có dầu khí thềm lục
địa biển Đông, đá vôi ở Hà Tiên, Kiên Lơng trữ lợng vùng 145 triệu tấn; đá
andezít, granít, chủ yếu tại núi Sam, núi Tra Sự, núi Cấm, núi Lơng Phi, núi
Bà Đội, Ba Thê, núi Sập trữ lợng vùng khoảng 450 triệu m
3
; đất sét gạch
ngói có khắp vùng, khoảng 3 triệu đến 40 triệu m
3
; cát sỏi chủ yếu ở lòng
các sông có trữ lợng vùng từ 2 triệu đến 10 triệu m
3
; than bùn ở khắp nơi,
9
trữ lợng vàng 370 triệu tấn; quặng emelít tập trung tại cửa sông Hậu; nớc
khoáng từ các nguồn Trung Lơng, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu, độ
nóng từ 38
0

C đến 39,5
0
C [ ].
ĐBSCL có 12 tỉnh là: Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp,
Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu, An Giang,
Kiên Giang; 4 thành phố là: Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, Cà Mau; 12 thị
xã là: Bến Tre, Gò Công, Tân An, Cao Lãnh, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh,
Sóc Trăng, Bạc Liêu, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên; 91 huyện đợc chia ra theo
đặc điểm tự nhiên, gồm có 48 huyện đồng bằng là: Cái Bè, Cai Lậy, Châu
Thành, Tân Phớc, Chợ Gạo, Gò Công Tây thuộc tỉnh Tiền Giang; Thủ Thừa,
Bến Lức, Tân Hng, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Đức Hòa, Cần Giuộc, Cần Đớc,
Trân Trụ, Châu Thành thuộc Tỉnh Long An; Long Hồ, Vũng Liêm, Trà Ôn,
Tam Bình, Bình Minh, Măng Thít thuộc tỉnh Vĩnh Long; Càn Long, Tiểu Cần,
Cầu Kè thuộc tỉnh Trà Vinh; Thanh Bình, Lấp Vò, Lai Vung, Cao Lãnh, Châu
Thành thuộc tỉnh Đồng Tháp; Thốt Nốt, Ô Môn, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Vị
Thanh, Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ; Kế Sách, Thạnh Trị, Mỹ Tú thuộc
tỉnh Sóc Trăng; Hồng Dân, Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Bạc Liêu; Châu Thành, Chợ
Mới, Phú Tân thuộc tỉnh An Giang; Tân Hiệp, Gò Quao, Vĩnh Thuận,
Giồng Riềng thuộc tỉnh Kiên Giang; 14 huyện vùng biển là Gò Công Đông
thuộc tỉnh Tiền Giang; Trà Cú, Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải thuộc
tỉnh Trà Vinh; Long Phú, Mỹ Xuyên, Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng; Giá
Rai thuộc tỉnh Bạc Liêu; Đầm Dơi, Năm Căn thuộc tỉnh Cà Mau; Kiên L-
ơng, Hòn Đất, Châu Thành thuộc tỉnh Kiên Giang; 4 huyện vùng rừng là: U
Minh, Ngọc Hiển thuộc tỉnh Cà Mau; An Biên, An Minh thuộc tỉnh Kiên
Giang; 2 huyện vùng núi là Tịnh Biên, Tri Tôn thuộc tỉnh An Giang; 7
huyện cù lao là: Bình Đại, Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri, Mỏ Cày, Chợ
Lách, Thạnh Phú thuộc tỉnh Bến Tre; 2 huyện đảo là Phú Quốc, Kiên Hải
thuộc tỉnh Kiên Giang; 7 huyện vùng sâu là Tam Nông, Tháp Mời thuộc
tỉnh Đồng Tháp; Thoại Sơn, Châu Phú thuộc tỉnh An Giang; Thái Bình,
10

Trần Văn Thời, Cái Nớc thuộc tỉnh Cà Mau; 7 huyện biên giới là: Đức Huệ,
Mộc Hóa, Vĩnh Hng thuộc tỉnh Long An; Tân Hồng, Hồng Ngự thuộc tỉnh
Đồng Tháp; An Phú, Tân Châu thuộc tỉnh An Giang.
Cấp huyện ở ĐBSCL và cả khu vực, về địa lý có vị trí rất quan
trọng về mặt bảo vệ an ninh, quốc phòng, chủ quyền biên giới quốc gia, có
biên giới trên bộ phía Tây Nam gồm 7 huyện là Đức Huệ, Mộc Hóa, Vĩnh
Hng, Tân Hồng, Hồng Ngự, An Phú, Tân Châu giáp biên giới Campuchia;
có hải phận giáp với Thái Lan thuộc 2 tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, hàng
tháng thờng hay xảy ra hàng chục vụ chồng lấn trên hải phận Việt Nam và
Thái Lan. Vùng ĐBSCL còn có 17 huyện chạy dọc theo ven biển Đông là:
Gò Công Đông thuộc tỉnh Tiền Giang; Thạnh Phú, Ba Tri, Bình Đại thuộc
tỉnh Bến Tre; Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải, Trà Cú thuộc tỉnh Trà
Vinh; Long Phú, Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên thuộc tỉnh Sóc Trăng; Giá Rai
thuộc tỉnh Bạc Liêu; Đầm Dơi, Năm Căn thuộc tỉnh Cà Mau; Kiên Lơng,
Hòn Đất, Châu Thành thuộc tỉnh Kiên Giang, bao bọc cả vùng ĐBSCL với
hàng trăm kilômét bờ biển. Đây là vùng trong quá khứ kẻ thù đã nhiều lần
xâm nhập vào nớc ta bằng đờng bộ và đờng biển. Ngày nay, trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH-HĐH đất nớc, đòi hỏi toàn Đảng, Nhà nớc, quân và dân ta
cần phải cảnh giác cao độ, trong quá trình thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lợc: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Nắm vững đặc điểm địa lý vùng ĐBSCL và cấp huyện ở đây hiện
nay là cơ sở khoa học để hiểu sâu hơn về đặc điểm kinh tế khu vực và cấp
huyện vùng ĐBSCL trong hiện tại và tơng lai.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế
ĐBSCL có vị trí kinh tế đặc biệt quan trọng đối với cả nớc trong quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc. Đây là vùng sản xuất lơng thực trọng
điểm của cả nớc với diện tích trồng lúa đạt 2,4 triệu hécta, chiếm 41,50%
11
diện tích trồng lúa trong toàn quốc (1989) [ ] và đang đa thêm 200.000 ha

[ ] đất khai hoang phục hóa vào canh tác. Cây lúa là cây trồng
chính chiếm gần 3/4 diện tích đất nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi vùng
ĐBSCL thực hiện tốt thì khu vực đất nhiễm mặn theo mùa dọc biển Đông đ-
a vào canh tác đợc cả mùa ma và mùa khô, các vùng đất phèn nhẹ đến trung
bình, nằm sâu hơn trong nội địa dọc theo vùng ven biển Đông sản xuất nông
nghiệp đợc. Vấn đề sản xuất lơng thực ở ĐBSCL chẳng những quyết định l-
ơng thực cả Nam bộ, mà còn ảnh hởng tình hình lơng thực cả nớc vì ĐBSCL
hiện chiếm 40% sản lợng nông nghiệp, 50% sản lợng gạo của cả nớc 90%
gạo xuất khẩu [ ]. Hàng năm vùng ĐBSCL đã cung cấp hơn 10 triệu tấn
lơng thực hàng hóa cho cả nớc và cho xuất khẩu, làm cho nớc ta từ nớc phải
nhập khẩu lơng thực những năm qua đã trở thành nớc xuất khẩu lơng thực
đứng hàng thứ ba trên thế giới sau Mỹ và Thái Lan. ĐBSCL là vùng sản
xuất thực phẩm lớn của cả nớc so với miền Bắc, miền Trung nớc ta, đã cung
cấp lơng thực cho TP.HCM, cho cả nớc và cho xuất khẩu. Cây trồng lâu
năm chủ yếu là dừa, các loại cây ăn quả dài ngày nh: xoài, sầu riêng, chôm
chôm, nhãn, vú sữa, các loại cây ngắn ngày chủ yếu là đậu nành (đậu t-
ơng), đậu xanh, đậu phộng (lạc), bắp (ngô), mè (vừng), bố (đay), lát (cói),
mía Đây còn là vùng có nhiều điều kiện thuận lợi để chăn nuôi trâu, bò,
heo (lợn), vịt đàn, thủy hải sản nh tôm sú, tôm càng xanh, nghêu, sò huyết.
Trên dải đất nớc ngọt chạy dọc hai bên bờ và ở giữa, hai con sông Tiền và
sông Hậu là những vùng trù phú trồng cây ăn trái chuyên canh nh dừa, nhãn,
chôm chôm, sầu riêng, xoài, cam, quít, bởi da xanh, mận (roi), chuối già,
đu đủ, sa-cu-chê (hồng xiêm), khác với miền Bắc nớc ta chỉ có một số trái
cây đặc sản theo mùa nh vải thiều, mận, da lê, mà quanh năm ở ĐBSCL
đều có cây xanh trái ngọt, cần quy hoạch vùng đất nớc ngọt này thành
những vùng trồng cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày để chế biến xuất
khẩu với số lợng lớn trong tơng lai.
Nắm vững đặc điểm kinh tế vùng ĐBSCL, ta có thể chia 91 huyện
vùng ĐBSCL thành ba loại huyện: huyện đồng bằng trọng điểm lúa, huyện
12

đồng bằng trọng điểm cây công nghiệp và căn ăn quả, huyện chuyên về ng
nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Về huyện đồng bằng trọng điểm lúa, ở vùng
ĐBSCL có 40 huyện là Tân Hng, Vĩnh Hng, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Thạnh
Hóa, Thủ Thừa, Đức Huệ thuộc tỉnh Long An; Vũng Liên, Trà Ôn, Tam
Bình thuộc tỉnh Vĩnh Long; Tân Hồng, Hồng Ngự, Thanh Bình, Tam Nông,
Tháp Mời thuộc tỉnh Đồng Tháp; Châu Thành, Tân Hiệp, Giồng Riềng, Gò
Quao, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận thuộc tỉnh Kiên Giang; Thốt Nốt, Ô
Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ;
Thạnh Trị, Mỹ Tú thuộc tỉnh Sóc Trăng; Thới Bình thuộc tỉnh Cà Mau; Chợ
Mới, Phú Tân, An Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn, Châu
Thành, Châu Phú thuộc tỉnh An Giang. Huyện đồng bằng trọng điểm cây
công nghiệp và cân ăn quả, ở vùng ĐBSCL có 23 huyện là Châu Thành,
Giồng Trôm, Mỏ Cày, Chợ Lách thuộc tỉnh Bến Tre; Cái Bè, Cai Lậy, Châu
Thành thuộc tỉnh Tiền Giang; Bến Lức, Đức Hòa, Cần Giuộc thuộc tỉnh
Long An; Long Hồ, Bình Minh, Mang Thít thuôc tỉnh Vĩnh Long; Càn
Long, Trà Cú, Tiểu Cần, Cầu Kè thuộc tỉnh Trà Vinh; Châu Thành, Lai
Vung, Lấp Vò, Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp; Kế Sách thuộc tỉnh Sóc
Trăng; Hồng Dân thuộc tỉnh Bạc Liêu. Huyện chuyên về ng nghiệp, nuôi
trồng thủy sản có 27 huyện là, Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, thuộc tỉnh Bến
Tre; Tân Phớc, Chợ Gạo, Gò Công Đông, Gò Công Tây, thuộc tỉnh Tiền
Giang; Cần Đớc, Tân Trụ, Châu Thành thuộc tỉnh Long An; Châu Thành,
Cầu Ngang, Duyên Hải thuộc tỉnh Trà Vinh; Kiên Lơng, Phú Quốc, Hòn
Đất, Kiên Hải thuộc tỉnh Kiên Giang; Long Phú, Mỹ Xuyên, Vĩnh Châu
thuộc tỉnh Sóc Trăng; Vĩnh Lợi, Giá Rai thuộc tỉnh Bạc Liêu; Ngọc Hiển,
Đầm Dơi, Cái Nớc, Trần Văn Thời, U Minh thuộc tỉnh Cà Mau. Cách phân
chia các huyện trên đây chỉ có tỉnh cách tơng đối vì trên thực tế không có
huyện nào là thuần túy nông nghiệp, mà ngoài nông nghiệp thì một bộ phận
nhân dân còn chuyên trồng cây ăn quả, làm các nghề công nghiệp khác;
còn huyện trọng điểm cây công nghiệp và cây ăn quả cũng còn một bộ phận
13

nhân dân làm nghề nông và huyện chuyên về ng nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, vẫn còn một bộ phận nhân dân làm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
dịch vụ, du lịch. Các thị xã ở vùng ĐBSCL là những trung tâm công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, thơng mại, dịch vụ, riêng thị xã Cao Lãnh, Sa Đéc, Hà
Tiên, Châu Đốc, còn phát triển du lịch. Bốn thành phố Mỹ Tho, Cần Thơ,
Long Xuyên, Cà Mau là những trung tâm kinh tế, văn hóa của tỉnh, đã,
đang và sẽ tác động sự phát triển kinh tế liên tỉnh và cả khu vực, mà nhất là
thành phố Cần Thơ, trung tâm kinh tế của vùng ĐBSCL trong hiện tại và
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc.
Cấp huyện vùng ĐBSCL, nhìn chung, kết cấu hạ tầng còn nghèo
nàn, vết tích chiến tranh hơn 20 năm qua ở vùng sâu, vùng xa, cha hàn gắn
đợc. Nhân dân trong vùng, cơ cấu dân số theo dân tộc chủ yếu là ngời Kinh
92%, Khơ me 6,1%, Hoa 1,7%, Chăm 0,2%. Cơ cấu dân số vùng ĐBSCL
theo nhóm tuổi và giới tính thì thuộc loại trẻ, theo điều tra dân số năm 1989
khoảng 53% dân số ở độ tuổi dới 20, 24,3% từ 20-34 tuổi, có 22,7% dân số
trên 35 tuổi, chỉ có 47,4% nam, 52,6% là nữ [ ]. Nhân dân trong vùng
một bộ phận đã giàu khá lên, nhng nhìn chung đa số còn nghèo khó, đời
sống các mặt đều thấp so với cả nớc, nhng tất cả đã hòa nhập với cộng đồng
xã hội. Tỷ lệ phát triển dân số các tỉnh trong khu vực còn khá cao bình quân
2,1% mỗi năm. Sức ép về việc làm ngày càng tăng lên do 200.000 lao động
tăng thêm hàng năm [ ], mà nhất là thanh niên nông thôn lại càng khó
khăn hơn vì công nghiệp nông thôn cha phát triển, đến năm 2000 lực lợng
hoạt động là 8,7 triệu ngời [ ]. Hệ thống giao thông thủy lợi ở vùng
ĐBSCL cha đáp ứng đợc yêu cầu vận chuyển hàng hóa nông hải sản trong
khu vực và trong khu vực đến thành phố Hồ Chí Minh cũng nh ngợc lại do
các phơng tiện vận chuyển đờng thủy đã lạc hậu, đờng sông vào các cảng
cạn các tàu lớn không thể cặp bến. Đờng quốc lộ, nhìn chung từ thành phố
Hồ Chí Minh về ĐBSCL đã xuống cấp, đã có chơng trình và đã tiến hành
làm lại toàn bộ đờng quốc lộ để đảm bảo cho xe có vận tải lớn và lợng xe lu
14

thông trong vùng. Đờng hàng không, chủ yếu có sân bay Trà Nóc (Cần
thơ), Phú Quốc (Kiên Giang), còn lại các sân bay nhỏ trong vùng.
Vùng ĐBSCL có tốc độ tăng trởng kinh tế khá cao từ 7 đến trên dới
10%, nhng không đều đối với các tỉnh. Các tỉnh có tốc độ tăng trởng tơng
đối cao là Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Minh Hải, tỉnh
Đồng Tháp có sự phát triển nhanh về sản xuất nông nghiệp, các tỉnh Long
An, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bạc Liêu có tốc độ phát triển trung bình, còn hai
tỉnh Tiền Giang, Bến Tre phát triển kinh tế chậm 7,95%/năm [ ]. "Mức thu
bình quân của ngân sách Nhà nớc trên địa bàn vùng ĐBSCL chiếm tỷ trọng từ
9,2% đến 12,2% nguồn thu cả nớc" [ ]. Hệ thống ngân hàng đợc xây dựng
đều ở các tỉnh trong khu vực với chi nhánh ngân hàng công thơng, ngân hàng
đầu t và phát triển, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, đã đi vào
hoạt động có hiệu quả. Hoạt động khoa học kỹ thuật trong các ngành nông
lâm thủy sản có nhiều tiến bộ, hệ thống dịch vụ kỹ thuật phục vụ các ngành
trên cha tốt; trình độ cơ giới hóa trong nông nghiệp còn thấp, kỹ thuật và công
nghệ còn lạc hậu; số lợng cán bộ có học vị trong vùng hầu nh không đáng kể,
"số lao động nghiên cứu khoa học chỉ có vào "khoảng 800 ngời trên tổng số
lao động trong các ngành là một con số quá nhỏ bé" [ ], có 3 cơ sở
nghiên cứu triển khai có lực lợng mạnh nhất là Trờng Đại học Cần thơ, Viện
lúa ĐBSCL, Trung tâm cây ăn quả Long Định.
Tiềm năng phát triển vùng ĐBSCL còn to lớn, nhng cần phải có hệ
thống quy hoạch tổng thể tổ chức quản lý, điều hành thống nhất theo quy
hoạch của Trung ơng để tập hợp các đối tác đầu t, ứng dụng khoa học kỹ
thuật, nhất là việc liên doanh với nớc ngoài, hỗ trợ nguồn vốn làm các công
trình trọng điểm cho từng khu vực nh khai thác vùng trọng điểm lúa, bảo
quản lơng thực, xây 3 cây cầu bắc qua sông Mỹ Thuận, sông Cần Thơ, sông
Tiền, chế biến trái cây, nuôi trồng đánh bắt chế biến thủy hải sản, quy
hoạch đô thị cho thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc, giải quyết những
vấn đề về môi trờng, cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn.
15

Các huyện ở vùng ĐBSCL còn có đặc điểm kinh tế, tuy đây là vùng
đất mới, nhng lại sản xuất hàng hóa rất sớm. "Nh chúng ta đã biết, từ thời
nhà Nguyễn, gạo Nam Kỳ đã chở ra Trung, Bắc và trong một chừng mực
nào đó đã xuất cảng" [ ]. Đến khi thực dân Pháp chiếm đợc vùng đất đai
trù phú này thì chủ trơng của Chính phủ Pháp là biến vùng này thành vùng
sản xuất lơng thực chủ yếu để xuất cảng. Chính chính sách "bế môn tỏa
cảng" của triều Nguyễn, từ chối đề nghị cải cách của Nguyễn Trờng Tộ, đã
hạn chế sự phát triển nền kinh tế nớc ta trong một thời gian khá dài. Vùng
ĐBSCL còn là vùng có mối quan hệ tất yếu khách quan về kinh tế, văn hóa
với thành phố Hồ Chí Minh, đó là mối quan hệ hai chiều giữa vùng công
nghiệp với vùng nông nghiệp, đã hình thành khá lâu trong lịch sử.
Vùng ĐBSCL hiện nay cơ cấu kinh tế sản xuất đã chuyển dịch theo
hớng CNH-HĐH. Các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Cà
Mau, Kiên Giang, Cần Thơ, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có bớc phát
triển rõ rệt. Các tỉnh Tiền Giang, Long An, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh
đều bắt đầu chuyển dịch theo hớng CNH, HĐH đúng xu hớng chung của
vùng ĐBSCL.
Một đặc điểm kinh tế nữa của vùng ĐBSCL là ruộng đất bắt đầu tập
trung, sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra khá sâu sắc trên địa bàn huyện.
Chỉ thị về lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo số 23-CT/TW
ngày 29 tháng 11 năm 1997 của Bộ Chính trị về vấn đề ruộng đất, thì không
để nông dân mất ruộng đất canh tác, quanh năm phải sống bằng nghề làm
mớn, nhng một thực trạng đã, đang diễn ra ở vùng ĐBSCL là ở mỗi tỉnh còn
nhiều hộ nghèo, chiếm trên dới 20% số hộ trong toàn tỉnh. Tình trạng phân
hóa giàu nghèo vẫn đang có xu hớng tăng lên giữa các tầng lớp nhân dân,
giữa các vùng trong tỉnh và trong khu vực. Những ngời nông dân nghèo đã
chuyển quyền sử dụng đất, cầm thục ruộng đất, không chuộc lại đợc phải
chấp nhận cuộc sống làm thuê ở nông thôn hoặc thị xã. Nguyện nhân khách
quan của các hộ nghèo là do điều kiện khắc nghiệt của tự nhiên, hậu quả
16

chiến tranh kéo dài mấy chục năm còn nặng nề, thiếu đất canh tác, vốn,
việc làm, lao động, sự phân hóa giàu nghèo của cơ chế thị trờng, còn
nguyên nhân chủ quan là do năng lực sản xuất kinh doanh kém, gia đình
đông con, vấn đề trị bệnh, học hành, cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa còn
nghèo nàn.
Vùng ĐBSCL còn có một đặc điểm kinh tế là trên địa bàn xã,
huyện, vấn đề tranh chấp đất đai trong nội bộ nông dân, các cuộc khiếu nại
về đất đai của nông dân với chính quyền cấp huyện, tỉnh thờng diễn ra. ở
Bến Tre Bạc Liêu, Sóc Trăng, Tiền Giang, Cà Mau, An Giang vấn đề tranh
chấp đất đai trong nội bộ nông dân có đều ở các huyện, có lúc kéo lên tỉnh
khá gay gắt. Tỉnh Long An tình hình tranh chấp đất đai trong nội bộ nông
dân khá phức tạp. Đối với Vĩnh Long, vấn đề khiếu nại về đất đai còn tồn
đọng lớn, 6 tháng đầu năm 1998, đơn khiếu nại ruộng đất chiếm 38% trên
2.800 đơn khiếu nại [ ]. Đối với tỉnh Trà Vinh thì vấn đề tranh chấp đất
đai vẫn còn xảy ra trên địa bàn huyện trong tỉnh. Tỉnh Kiên Giang, Cần
Thơ, Đồng Tháp đã cơ bản giải quyết đợc vấn đề tranh chấp đất đai trên địa
bàn huyện. Vấn đề tranh chấp đất đai vùng ĐBSCL là vấn đề hiện nay một
số tỉnh rất khó giải quyết, nhất là các tỉnh đất hẹp, dân đông, thiếu quỹ đất,
cần phải có sự hỗ trợ của Trung ơng mới căn bản giải quyết đợc.
1.1.3. Đặc điểm chính trị
Về chính trị vùng ĐBSCL nhìn chung là ổn định, nhng trong chiều
sâu của nó có nhiều vấn đề rất phức tạp so với miền Trung và miền Bắc nớc
ta. Đối với miền Nam nớc ta do cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc quá
ác liệt, kéo dài suốt 21 năm, mà nhất là hậu quả của chủ nghĩa thực dân mới
rất thâm độc, đánh ta cả chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, nên ít có gia
đình cách mạng nào không có ngời tham gia chế độ cũ, thậm chí, cha con,
anh em ruột, lại còn không cùng chung chí hớng. Cần khẳng định chính
quyền ở cấp xã, huyện miền Nam không thuần khiết chính trị nh ở miền
17
Bắc nớc ta. Một đặc điểm nữa về chính trị ở khu vực vùng ĐBSCL là sau

giải phóng miền Nam năm 1975, Đảng và Nhà nớc ta chủ trơng thực hiện
chính sách nhân đạo truyền thống có từ ngàn đời trong lịch sử dân tộc
chống giặc ngoại xâm, đó là chủ trơng thực hiện chính sách đại đoàn kết
dân tộc, giáo dục, động viên, khơi dậy lòng yêu nớc, khép lại quá khứ cùng
nhìn về tơng lai, xóa bỏ mặc cảm, chấp nhận những điểm khác nhau, miễn
không làm hại đến lợi ích dân tộc, lấy đại nghĩa dân tộc làm trọng, lấy mục
tiêu chung làm điểm tơng đồng để cùng nhau thực hiện mục tiêu "Dân
giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Nhng cho đến nay,
trong số những ngời tham gia chế độ cũ, nhiều ngời vẫn còn hớng về chủ
nghĩa đế quốc, mang ý thức phục thù giai cấp rất sâu sắc, chủ yếu ngấm
ngầm, có lúc bộc phát, công khai phát biểu chống phá chế độ ta về nhiều
mặt, đang tìm cách cấu kết với các thế lực phá hoại trong nớc và quốc tế, âm
mu thực hiện chiến lợc "Diễn biến hòa bình", mà nhất là kế hoạch hậu chiến
của chủ nghĩa đế quốc sau khi bình thờng hóa quan hệ với Việt Nam. Hệ
thống chính quyền từ tỉnh đến huyện, xã, vùng ĐBSCL ta mới thiết lập từ năm
1975, đến nay vừa mới 25 năm. Đây là thời gian còn quá ngắn so với lịch sử
xây dựng Nhà nớc t sản kéo dài đã hơn hai thế kỷ, còn ngắn để xây dựng một
Nhà nớc xã hội chủ nghĩa vững mạnh từ huyện đến xã. Từ ngày giải phóng
đến nay đã 25 năm, nhng còn nhiều đồng chí học hành cha đến nơi đến chốn
nh đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở miền Bắc. Do đó, ta thấy phẩm chất
chính trị, năng lực đội ngũ Bí th, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL không tơng
đối đều nh ở miền Bắc. Nhìn về tơng lai thì trong hai ba năm nữa đội ngũ Bí
th, Chủ tịch huyện vùng ĐBSCL phải phấn đấu học tập nhiều hơn về lý luận
chính trị, quản lý kinh tế, quản lý Nhà nớc thì mới ngang tầm đòi hỏi của
cách mạng trong thời kỳ mới.
Chính quyền cấp xã, nhìn chung còn yếu, đội ngũ cán bộ chủ chốt ở
cấp xã nhiều nơi còn yếu, lại thiếu, cha đợc đào tạo một cách cơ bản có hệ
18
thống về lý luận chính trị, chuyên ngành công tác, thậm chí tìm ngời thay
thế cũng khó trớc các kỳ Đại hội Đảng cơ sở. Đội ngũ cán bộ đơng chức

hiện nay có quá trình, nhng đã lớn tuổi, hụt tiêu chuẩn qui định, không thể
đào tạo đợc, nên hoàn thành nhiệm vụ chất lợng không cao lắm, còn đối với
cán bộ trẻ hiện nay, có trình độ văn hóa cấp III hoặc tốt nghiệp phổ thông
trung học, kinh tế gia đình ổn định, nhng lại không chịu công tác ở cơ sở vì
hệ thống chính sách cán bộ cơ sở cha hoàn chỉnh, ít có điều kiện phát triển,
mà nhất là khó kiểm lý lịch bản thân trong sạch về chính trị, quan điểm t t-
ởng. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã cha đồng bộ, cần
phải tiến hành công tác qui hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ
để tạo chất lợng mới, bật lên đợc các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh, quốc phòng ở cơ sở hiện nay, để tiến hành thực hiện CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL.
1.1.4. Đặc điểm xã hội
Về cơ cấu giai cấp xã hội, hiện nay ở 12 tỉnh vùng ĐBSCL thì
chiếm đại đa số ở vùng nông thôn rộng lớn là bộ phận giai cấp nông dân vì
nớc ta vẫn còn là một nớc nông nghiệp, nông dân còn chiếm 80% dân số cả
nớc. ở bốn thành phố Cần Thơ, Mỹ Tho, Long Xuyên, Cà Mau, 12 thị xã
Bến Tre, Gò Công, Tân An, Cao Lãnh, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên thì có bộ phận giai cấp
công nhân làm việc ở các trung tâm công nghiệp thành phố, thị xã. Gắn liền
với hệ thống chính trị gồm có các cơ quan Đảng, Nhà nớc, các đoàn thể
quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội thì có tầng lớp trí thức xã hội chủ
nghĩa. ở các thành phố, thị xã, thị trấn, còn có giai cấp tiểu t sản, gồm
những ngời buôn bán nhỏ, sinh viên, học sinh. Cuối cùng là bộ phận giai
cấp t sản kinh doanh trong các thành phần, kinh tế theo luật pháp Nhà nớc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định đất nớc
ta đang chuyển sang một thời kỳ phát triển mới là đẩy mạnh CNH, HĐH
19
đất nớc 1996 - 2020, mà trớc mắt tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn. Từ t tởng đó của Đại hội, các tỉnh vùng ĐBSCL đều định hớng phát
triển CNH, HĐH đến năm 2010 và 2020 từ đó đã làm cho cơ cấu giai cấp

xã hội vùng ĐBSCL gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tri thức xã
hội chủ nghĩa, giai cấp tiểu t sản và t sản đã bắt đầu chuyển đổi theo hớng
CNH, HĐH.
Trình độ học vấn của nhân dân trong vùng nhìn chung còn thấp so
với các vùng đồng bằng trong cả nớc, chỉ có 2 tỉnh trên 12 tỉnh đợc Bộ Giáo
dục và đào tạo công nhận phổ cập cấp 1 và xóa mù chữ là Tiền Giang và
Bến Tre, mạng lới các bậc học từ ngành mầm non đến đại học và các loại
hình đào tạo tơng đối đa dạng và đầy đủ, đào tạo đại học tơng đối phát triển
với hình thức học tập trung, tại chức, từ xa, số lợng sinh viên tăng hàng
năm. Cơ sở y tế vùng ĐBSCL đợc tăng cờng trong những năm qua, mỗi tỉnh
có từ 1 đến 3 bệnh viện đa khoa, huyện có trung tâm y tế, xã, phờng, thị
trấn có trạm y tế, ấp có tổ y tế, nhng cha đều khắp cả vùng, "trung bình 2,36
bác sĩ trên 10.000 dân" [ ]. Văn hóa, thể dục, thể thao, nhìn chung có bớc
phát triển toàn vùng, những văn hóa còn nhiều điều đáng lo ngại là lối sống
không lành mạnh hủ tục, mê tín dị đoan còn phổ biến nhiều vùng, nạn video
đen, sách đen còn lan tràn trên thị trờng, các tệ nạn xã hội nh mại dâm, xì
ke, ma túy không giảm. Về năng lợng các tỉnh vùng ĐBSCL đều có hệ
thống đờng dây điện gắn với đờng dây cao thế cả nớc. Cần Thơ có nhà máy
nhiệt điện, mức tiêu thụ đợc bình quân đầu ngời hàng năm thấp chỉ đạt 38
kwh/đầu ngời. Mức sinh hoạt chủ yếu của nhân dân trong vùng là nớc mặt
sông, nớc ao hồ và do trời ma. Số hộ khá và giàu chiếm 24%, hộ trung bình
chiếm 39%, 37% hộ nghèo [ ].
Một đặc điểm xã hội của vùng ĐBSCL là huyện ngời Kinh chiếm
đại đa số trong 91 huyện; còn có ngời Khơ Me sống ở huyện Vũng Liêm,
Bình Minh, Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Long; tỉnh Kiên Giang ngời Khơ Me
sống ở các huyện; tỉnh Cần Thơ có khoảng 10.000 ngời Khơ Me sống ở xã
20
Định Thành, huyện Ô Môn; tỉnh Bạc Liêu ngời Khơ Me sống ở huyện Vĩnh
Lợi, Hồng Dân, Giá Rai, Thị xã Bạc Liêu; tỉnh An Giang có khoảng 80.000
ngời Khơ Me sống ở huyện Tri Tôn, Tịnh Biên; đặc biệt là tỉnh Trà Vinh có

huyện Cầu Ngang là huyện ngời Khơ Me và tỉnh Sóc Trăng ngời Khơ Me
sống đều ở các huyện, mà nhiều nhất là huyện Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên,
Long Phú, Thạnh Trị. Do đó, căn cứ vào đặc điểm tộc ngời, ta có thể chia
các huyện vùng ĐBSCL thành huyện ngời Kinh chiếm đại đa số và một vài
huyện ngời Khơ Me. Cách chia này mang tính chất tơng đối vì một số
huyện ngời Kinh ở tỉnh Vĩnh Long, Kiên Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu, An
Giang, đã có ngời Khơ Me sinh sống và các huyện ngời Khơ Me hay huyện
ngời Khơ Me chiếm đại đa số thì vẫn có một bộ phận nhỏ ngời Kinh sinh
sống.
Cấp huyện vùng ĐBSCL có truyền thống cách mạng lâu dài, hầu hết
các tỉnh đều đã có những ngời con của quê hơng tham gia thời dựng Đảng.
Nhân dân 12 tỉnh vùng ĐBSCL đã cùng với nhân dân cả nớc nổi dậy đấu
tranh giành chính quyền trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945, sau đó tiếp
tục trờng kỳ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ 9 năm với những trận
đánh lịch sử nổi tiếng của tiểu đoàn 307 ở Mộc Hóa, Vạn Tờng, La Vang,
Tầm Vu, Tháp Mời, trong lịch sử kháng chiến của Nam bộ và nối tiếp hai
mơi mốt năm trờng chinh chống Mỹ cứu nớc, miền Nam trở thành thành
đồng Tổ quốc, đất anh hùng của thế kỷ XX. Bất chấp những âm mu, thủ
đoạn tàn bạo, xảo quyệt, mua chuộc của kẻ thù, nhân dân vùng ĐBSCL vẫn
một lòng theo cách mạng. Tỉnh Bến Tre đã đi vào lịch sử đấu tranh cách
mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nớc là
"quê hơng Đồng Khởi", mà cái nôi đồng khởi là huyện Mỏ Cày. Tỉnh Long
An thì "Trung dũng, kiên cờng, toàn dân đánh giặc". Tỉnh Vĩnh Long là
tỉnh anh hùng với các huyện anh hùng là Vũng Liêm, Tam Bình, Trà Cú,
Thị xã Vĩnh Long. Tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, một số tỉnh khác vùng ĐBSCL
đã có Chi bộ Đảng ngay từ năm 1930. Trà Vinh xứng đáng với danh hiệu
21
"Toàn dân đoàn kết, nổi dậy lập công". Tỉnh Đồng Tháp các huyện đều có
truyền thống cách mạng lâu đời. Tỉnh Kiên Giang có các huyện anh hùng là
An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, Phú Quốc, Gò Quao, Hòn Đất, Kiên Lơng,

hai thị xã anh hùng là Rạch Giá và Hà Tiên. Tỉnh Cần Thơ có truyền thống
cách mạng với huyện Châu Thành có trận Tầm Vu, lộ Vòng Cung, huyện Ô
Môn, Long Mỹ, Vị Thanh, chiến thắng tiểu đoàn Mỹ. Tỉnh Sóc Trăng có
truyền thống cách mạng ngay từ những ngày thành lập Đảng, có cuộc khởi
nghĩa ở Hoa Tú năm 1940. Cà Mau là tỉnh có truyền thống cách mạng thời
dựng Đảng đến đấu tranh giành chính quyền và cả hai thời kỳ chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tỉnh An Giang các huyện đều có truyền thống
cách mạng, huyện Chợ Mới là cái nôi cách mạng của tỉnh, hai huyện Tri
Tôn và Tịnh Biên là căn cứ của Tỉnh ủy cả hai thời kỳ kháng chiến.
Về tâm lý, nhân dân vùng ĐBSCL, mặc dù cuộc sống hiện tại còn
nhiều khó khăn, nhng rất tha thiết yêu mến quê hơng mình, đã bao lần dám
tử sinh để bảo vệ và sống gắn bó với vùng đất này trong hai cuộc kháng
chiến. Nhân dân vùng ĐBSCL từ bao đời nay thích sống hiền hòa, kính
trọng nhân nghĩa, chung thủy vợ chồng, quý trọng tình làng nghĩa xóm, rất
năng động, chuộng lẽ sống công bằng, tự do, dân chủ, mong muốn xã hội
ổn định, xóa đợc đói, giảm đợc nghèo, mọi ngời đảm bảo điều kiện cơ bản
để ăn, ở, đi lại, chữa bệnh, học hành, hởng thụ văn hóa, có điều kiện để làm
giàu chính đáng, mọi ngời sống yêu thơng nhau trong tình dân tộc, nghĩa
đồng bào.
ĐBSCL còn là vùng có nhiều tôn giáo. Các tỉnh Bến Tre, Tiền
Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang,
đều có đạo Thiên Chúa, Tin Lành, Phật, Cao Đài. Tỉnh Đồng Tháp, Cần
Thơ, Kiên Giang, An Giang có thêm đạo Hòa Hảo. Các tỉnh Long An, Vĩnh
Long, Bạc Liêu, Cà Mau, có đạo Thiên Chúa, đạo Phật. Tỉnh Long An, Bạc
Liêu, có thêm đạo Cao Đài, tỉnh Vĩnh Long có thêm đạo Hòa Hảo, tỉnh Cà
Mau có thêm đạo Tin Lành. Đạo Thiên Chúa thì có đều ở 12 tỉnh, đạo Tin
22
Lành thì có ở 9 tỉnh, còn đạo Phật có đều ở 12 tỉnh, mà tập trung là ở 2 tỉnh
Sóc Trăng, Trà Vinh mà nhất là ở Trà Vinh chiếm 40% dân số với hai phái
Nam Tông và Bắc Tông, đạo Cao Đài thì tập trung ở Bến Tre có hai trung -

ơng đạo của hai phái Tiên Thiên và Ban Chỉnh, đạo Hòa Hảo thì tập trung ở
An Giang - Ngoài các tôn giáo trên, cùng ĐBSCL còn có đạo Bửu Sơn Kỳ
Hơng, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, mà ở các vùng khác trong nớc không có. Tuy
là vùng có nhiều tôn giáo, nhng nhân dân theo đạo không nhiều lắm, mà là
theo tập tục thờ cúng ông bà tổ tiên, đi lễ chùa chiền hay tham dự lễ hội các
tôn giáo khác.
Nắm đợc những đặc điểm về địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội của vùng ĐBSCL làm cho ngời Bí th, Chủ tịch huyện có tầm nhìn khái
quát toàn cục, trên cơ sở đó nắm vững sâu sắc đặc điểm của địa phơng mình
để lãnh đạo, quản lý, nhng nh thế cha đủ, mà ngời Bí th, Chủ tịch huyện còn
phải quán triệt vị trí, vai trò, chức năng của cấp huyện ở vùng ĐBSCL trong
thời kỳ mới, mà nhất là huyện mình lãnh đạo, quản lý thì mới hoàn thành
tốt nhiệm vụ.
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của cấp huyện ở ĐBSCL
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Vị trí của cấp huyện
Trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng và Nhà nớc ta hiện nay,
cấp huyện là cấp có vị trí trung gian giữa cấp tỉnh và cấp xã, nhng là cấp
quan trọng, cần thiết, tất yếu tồn tại trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nớc ta, bởi vì cấp huyện là cấp bảo đảm nối liền toàn bộ các hoạt động
xây dựng nội bộ Đảng, hoạt động lãnh đạo trong hệ thống tổ chức Đảng,
hoạt động quản lý của Nhà nớc từ tỉnh đến xã, làm cho toàn bộ các hoạt
động của hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nớc bốn cấp trở thành một hệ thống
hoạt động có quan hệ chặt chẽ, liên tục, thống nhất, bảo đảm cho đờng lối,
chủ trơng, chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nớc đến Đảng bộ, chi bộ
23
chính quyền cấp xã một cách toàn diện, sâu sắc và đi vào cuộc sống bằng
các phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân.
Cấp huyện gắn liền với cấp cơ sở, làm cho cấp cơ sở thực hiện tốt đ-
ợc vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nớc với nhân dân, sâu sát tâm t, tình cảm,

nguyện vọng chân chính của quần chúng để giúp cho cấp tỉnh đề ra các chủ
trơng đúng đắn và qua cấp huyện, cấp tỉnh nắm đợc toàn bộ thông tin trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để báo cáo cho Trung ơng kịp thời,
chính xác, từ đó, Trung ơng có quyết sách đúng đắn hay sửa đổi chính sách
cho phù hợp với thực tiễn đất nớc, địa phơng.
Về vị trí của cấp huyện, theo quan điểm của Đảng ta, từ năm 1975
đến nay ta chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu từ năm 1975 đến năm
1985, giai đoạn hai từ năm 1986 đến năm 2000. Quan điểm của Đảng ta về
vị trí của cấp huyện trong giai đoạn đầu thì cấp huyện đợc xác định là một
vị trí chiến lợc, một bộ phận quan trọng của đờng lối xây dựng nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa, nên chủ trơng xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông -
công nghiệp. Chủ trơng này của Đảng ta là tổng kết cả một quá trình nghiên
cứu thực tiễn và tham khảo, các nớc xã hội chủ nghĩa về xây dựng huyện.
Chủ trơng xây dựng huyện của Đảng ta đợc xác định lần đầu tại Nghị quyết
Trung ơng lần thứ 19 (Khóa III) năm 1970. Sau đó, đến Hội nghị nông
nghiệp tổ chức tại tỉnh Thái Bình năm 1973, tiếp tục phát triển quan điểm
này, đến Chỉ thị của Ban Bí th số 208 năm 1974, rồi Nghị quyết số 61-CP
của Hội đồng Chính phủ năm 1976 và chính thức đa vào Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng tháng 12 năm 1976. Sau Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đến Nghị quyết Hội nghị Trung -
ơng 2 (Khóa IV), rồi Chỉ thị của Bộ Chính trị số 33-CT, Nghị quyết của Hội
đồng Chính phủ số 33-CP, đã cụ thể hóa thêm một bớc nội dung xây dựng
huyện và tăng cờng cấp huyện do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng đã đề ra, Đảng ta đã đi tới nhận thức cấp huyện là đơn vị xây dựng xã
hội chủ nghĩa toàn diện theo đờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của
24
Đảng ta, ngay trên địa bàn huyện để giải quyết các mối quan hệ giữa công
nghiệp với nông nghiệp, kinh tế Trung ơng với kinh tế địa phơng, sự gắn bó
giữa quan hệ sản xuất với lực lợng sản xuất, việc xây dựng huyện với tổ
chức lại nền sản xuất xã hội, cải tiến phơng thức quản lý kinh tế, mối quan

hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại. Trên cơ sở quan điểm của Đảng xác định vị
trí chiến lợc của cấp huyện, toàn quốc định xây dựng bốn trăm đơn vị kinh
tế nông - công nghiệp, trở thành bốn trăm pháo đài kiên cố để bảo vệ vững
chắc Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Từ quan điểm nhận thức vị trí chiến lợc của cấp huyện trong chặng
đờng đầu tiên của thời kỳ quá độ lên lên chủ nghĩa xã hội, xác định cơ cấu
kinh tế nông - công nghiệp trên địa bàn huyện, tiến hành qui hoạch lại cấp
huyện, đổi mới công tác kế hoạch, tài chính, ngân sách muốn thực hiện tốt
các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng trên cơ sở
kiện toàn bộ máy cấp huyện và tăng cờng vai trò lãnh đạo của Đảng bộ
huyện ngang tầm với vị trí chiến lợc của cấp huyện, Đảng ta đã chỉ đạo xây
dựng bốn trăm huyện trong cả nớc thành huyện nông - công nghiệp, mà
khâu đột phá đầu tiên là cải tạo nông nghiệp. ở miền Bắc thì từ hợp tác xã
bậc thấp lên hợp tác xã bậc cao toàn xã, còn ở miền Trung, miền Nam thì đi
từ tổ vạn vần đổi công lên tập đoàn sản xuất theo kiểu chiến dịch, gò ép
chạy theo số lợng, coi nhẹ chất lợng, hiệu quả, muốn đa nền nông nghiệp từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Thực trạng nêu trên đã làm cho đất nớc ta lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội, làm giảm lòng tin của quần chúng đối với Đảng lãnh
đạo và sự quản lý của Nhà nớc, mà nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt
nguồn từ sai lầm trong công tác t tởng, tổ chức và cán bộ. Do đất nớc bị
khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đảng ta không xây dựng đợc cấp huyện theo
chỉ tiêu số huyện và với nội dung nông - công nghiệp đã định, đa đến quan
25

×