Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Quản lý xã hội đối với công tác giảm nghèo bền vững ở huyện kim động, tỉnh hưng yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.71 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN ĐỨC GIANG

QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở HUYỆN KIM ĐỘNG,
TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN ĐỨC GIANG

QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở HUYỆN KIM ĐỘNG,
TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY


Chuyên ngành: Quản lý xã hội
Mã số

: 8.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Thu Quyên

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài Quản lý xã hội đối với công tác
giảm nghèo bền vững ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên hiện nay là cơng
trình nghiên cứu độc lập của riêng tơi, dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Thị Thu
Quyên. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ
ràng. Những kết luận trong luận văn chưa được cơng bố trong bất cứ cơng
trình nào.
Tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Đức Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI
VỚI CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở CẤP HUYỆN ............. 9
1.1. Một số khái niệm cơ bản ......................................................................... 9

1.2. Đặc điểm và vai trị của quản lý xã hội đối với cơng tác giảm
nghèo bền vững ..................................................................................... 20
1.3. Nguyên tắc, nội dung, phương pháp quản lý xã hội đối với công
tác giảm nghèo bền vững ở cấp huyện .................................................. 25
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở HUYỆN KIM ĐỘNG, TỈNH HƯNG
YÊN HIỆN NAY ........................................................................................... 37
2.1. Những yếu tố tác động đến quản lý xã hội đối với công tác giảm
nghèo bền vững ở huyện Kim động, tỉnh Hưng Yên hiện nay ............. 37
2.2. Kết quả đạt được và hạn chế trong quản lý xã hội đối với công tác
giảm nghèo bền vững ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên .................. 48
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN
LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở
HUYỆN KIM ĐỘNG, TỈNH HƯNG YÊNTHỜI GIAN TỚI .................. 66
3.1. Phương hướng tăng cường quản lý xã hội đối với công tác giảm
nghèo bền vững ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ........................... 66
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý xã hội đối với công tác giảm nghèo
bền vững ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên hiện nay ....................... 70
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 93


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ASXH

: An sinh xã hội

CNH, HĐH


: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

GNBV

: Giảm nghèo bền vững

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HTCT

: Hệ thống chính trị

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

LĐTB&XH

: Lao động – Thương binh và Xã hội

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc


NXB.

: Nhà xuất bản

QLXH

: Quản lý xã hội

UBND

: Ủy ban nhân dân

XĐGN

: Xóa đói, giảm nghèo

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Do xuất phát điểm của nền kinh tế, cùng trình độ tổ chức, quản lý xã hội
(QLXH) của đất nước khi bước vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH) còn thấp, nên vấn đề bảo đảm an sinh xã hội trong đó có xóa đói,
giảm nghèo (XĐGN) đã được Đảng, Nhà nước ta xác định là mục tiêu, biện
pháp cần tiến hành kiên trì, bền bỉ trong một thời gian dài. XĐGN vừa nâng
cao chất lượng nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc;

vừa góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội; giảm bớt chênh lệch thu nhập
giữa các nhóm dân cư; vừa thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của xã hội, xã hội chủ
nghĩa (XHCN) mà chúng ta đang hướng tới, dù mới chỉ ở thời kỳ quá độ.
Qua các kỳ đại hội, quan điểm của Đảng về XĐGN từng bước được
xác lập, làm rõ và hiện thực hóa trên thực tế qua sự quản lý, điều hành của
Nhà nước. Nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này được thực hiện thơng qua việc
ban hành các chính sách hướng tới các đối tượng bị rủi ro, áp dụng cho những
vùng, miền chịu nhiều khó khăn, khơng thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã
hội (KT-XH) do thiên tai, do điều kiện khắc nghiệt, thậm chí xa các trung tâm
KT-XH bằng các biện pháp đầu tư đặc biệt, các chủ trương, chính sách ưu
đãi, các nguồn lực cho giảm nghèo bền vững (GNBV) từ ngân sách nhà nước,
từ các nguồn tài trợ trong và ngoài nước.
Giảm nghèo bền vững là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, góp phần
thu hẹp khoảng cách chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa nông thôn
và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Trong những
năm qua, chương trình giảm nghèo đã được tổ chức thực hiện đồng bộ từ
Trung ương đến địa phương, nhờ đó tỷ lệ hộ nghèo của cả nước nói chung.
Tuy vậy, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo cao,
phân hoá giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, giữa thành thị và nơng thơn, giữa


2
các vùng kinh tế có xu hướng gia tăng. Điều này làm giảm sự đồng thuận
trong xã hội ở một vài địa phương.
Thực hiện có hiệu quả cơng tác GNBV chính là bảo đảm định hướng
XHCN. Đây là nội dung xuyên suốt để Đảng ta kiên quyết, kiên trì thực hiện
công tác giảm nghèo và GNBV. Ngay từ Hội nghị Đại biểu tồn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII, tư tưởng về công bằng xã hội thể hiện ở cả khâu phân
phối hợp lý tư liệu sản xuất, lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như

ở điều kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng đã trở
thành căn cứ lý luận để Đảng ta lãnh đạo công tác GNBV bảo đảm định
hướng XHCN trong quá trình xây dựng đất nước.
Kim Động là huyện ở phía Tây Nam tỉnh Hưng n có quốc lộ 39A
chạy qua liền kề với thành phố Hưng Yên. Hoà cùng với khí thế đổi mới tồn
diện của đất nước từ năm 1986, huyện Kim Động với những ưu thế của mình
đã có sự phát triển nhanh chóng, đặc biệt từ năm 2010 đến nay. Với sự phát
triển vượt bậc này chính là do sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính
quyền địa phương trong việc điều hành mọi mặt đời sống xã hội nhất là phát
triển kinh tế một cách linh hoạt, hiệu quả. Đi đôi với với tăng trưởng kinh tế,
huyện Kim Động đã tích cực đẩy mạnh XĐGN, bảo đảm công bằng và tiến
bộ xã hội trong quá trình phát triển giữa các xã, thị trấn trong toàn huyện, hạn
chế tốc độ gia tăng khoảng cách giàu - nghèo
Thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước về GNBV,
trong những năm qua huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên đã đề ra nhiều chủ
trương, giải pháp triển khai công tác GNBV phù hợp với điều kiện thực tế của
địa phương. Với sự tham gia hưởng ứng tích cực của các cấp, các ngành, các
tổ chức và đông đảo quần chúng nhân dân, kết quả về GNBV đã thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội trên địa bàn huyện nhà, được tỉnh công
nhận và đánh giá cao. Khi triển khai thực hiện các chương trình, dự án giảm
nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, giúp người nghèo có điều kiện tiếp cận với


3
các dịch vụ y tế, văn hóa, giải quyết việc làm, phát triển sản xuất tăng thu
nhập ổn định cuộc sống vươn lên thoát nghèo, chống tái nghèo, phong trào
GNBV đã được xã hội hóa, thu hút được sự tham gia của tồn xã hội, diện
mạo nơng thơn có nhiều thay đổi, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Quản lý xã hội đối với công tác GNBV ở tỉnh Hưng Yên nói chung, ở
huyện Kim Động nói riêng trong thời gian qua đã được các cấp ủy Đảng,

chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội từ huyện đến cơ sở đã tập trung thực
hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội, xóa đói, GNBV,
nâng cao mức sống cho nhân dân. Tuy nhiên việc chỉ đạo, điều hành chưa thật
hiệu quả và chưa đồng bộ ở các cấp, sự bứt phá về kinh tế gia đình của một
bộ phận đã làm cho phân hóa giầu - nghèo đang diễn ra nhanh chóng trong
cộng đồng dân cư, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường có những tác động
khơng nhỏ tới cơng bằng và bình đẳng xã hội.
Việc nghiên cứu để chỉ ra những giải pháp đồng bộ, khả thi cho nhằm
giảm số hộ nghèo, phát triển KT-XH, tăng cường QLXH đối với công tác
GNBV trên ở địa phương là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cần được
nghiên cứu, vì vậy, học viên đã chọn đề tài “Quản lý xã hội đối với công tác
giảm nghèo bền vững ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm
luận văn thạc sĩ ngành Chính trị học, chuyên ngành Quản lý xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xóa đói, giảm nghèo và quản lý cơng tác này, đã và đang là chủ đề quan
tâm của các nhà quản lý, các nhà phát triển được tiếp cận nghiên cứu, thử
nghiệm, ở những bình diện và quy mơ khác nhau. Nhiều cơng trình nghiên cứu
đã có kết quả khả quan, góp phần quan trọng cho những định hướng và cụ thể
hóa các chương trình mục tiêu phục vụ cho cơng cuộc GNBV ở nước ta.
Ở Việt Nam sau những năm đổi mới trước tình hình cấp thiết của thực
tiễn về cơng tác XĐGN và GNBV có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và
thực hiện, các cơ quan nhà nước, chính phủ, các cơ quan chức năng nghiên
cứu dưới dạng cơng trình khoa học, luận văn ở nhiều khía cạnh khác nhau:


4
- Trong quá trình triển khai Chương trình XĐGN giai đoạn 19982000, có một số nghiên cứu của các tổ chức phi chính phủ đã thực hiện
nhằm hỗ trợ cho Việt Nam xây dựng chương trình XĐGN. Có thể kể đến là
nghiên cứu của WB “Báo cáo tình hình phát triển Việt Nam - Tấn cơng đói
nghèo”, năm 2000 đã đánh giá tác động của hệ thống chính sách XĐGN

trên phạm vi quốc gia. Trên cơ sở đó, Báo cáo đã chỉ ra những tác động của
một số chính sách giúp cho việc hoạch định chính sách ở nước ta về vấn đề
XDGN giai đoạn 2001-2005.
- Tác giả Lê Xuân Bá (2001) có cuốn Nghèo đói và xóa đói, giảm nghèo
ở Việt Nam, đã phân tích một số vấn đề cơ bản về đói nghèo và XĐGN ở Việt
Nam. Đồng thời tác giả cũng khái quát vấn đề đói nghèo trên thế giới, thực
trạng đói nghèo ở Việt Nam qua nghiên cứu thực tiễn ở một địa phương cụ thể
(tỉnh Quảng Bình), từ đó đưa ra định hướng XĐGN cho Việt Nam.
- Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã phối hợp với một số cơ quan,
tổ chức quốc tế trong q trình nghiên cứu về vấn đề đói nghèo, XĐGN như:
“Đánh giá cuối kỳ Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN và Chương trình
135-1” năm 2004; “Nhìn lại quá khứ đối mặt thách thức” năm 2009… Các
nghiên cứu này chủ yếu đưa ra các khuyến nghị cho việc xây dựng, hoạch định
chính sách XĐGN trong tương lai.
- Báo cáo “Các nhân tố hỗ trợ và cản trở hộ nghèo tiếp cận các
nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo bền vững” trong khuôn khổ thực hiện các
dự án nâng cao năng lực phát triển cộng đồng của chương trình Chia Sẻ SIDA (2009) đã xác định những nhân tố thuận lợi và cản trở hộ nghèo tiếp
cận các nguồn lực để giảm nghèo bền vững. Theo đó, 5 nguồn vốn sinh kế đã
được phân tích bao gồm: nguồn vốn con người; nguồn vốn vật chất; nguồn
vốn tài chính; nguồn vốn xã hội; nguồn vốn tự nhiên. Nghiên cứu cũng chỉ rõ:
sự đóng góp các nguồn vốn sinh kế vào trong quá trình giảm nghèo đối với
các nguồn vốn có sự khác nhau. Vì vậy, cần có cách điều chỉnh khác nhau


5
trong việc tác động các nguồn vốn sinh kế vào mục tiêu giảm nghèo. Xét
trong ngắn hạn, nguồn vốn tài chính và một phần nguồn vốn con người có
tác động tích cực trong q trình giảm nghèo.
- Luận án Tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Hằng (2001): Vấn đề giảm
nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, được bảo vệ tại Học

việc Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án đã làm rõ một số vấn đề lý
luận và đề xuất giải pháp giảm nghèo dưới góc độ kinh tế đặt trong bối cảnh
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Bức tranh chung về giảm nghèo được
phác họa ở góc độ vĩ mô.
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Đỗ Thế Hạnh (1998): Thực trạng và
những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo ở vũng định canh,
định cư tỉnh Thanh Hóa, được bảo vệ tại Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh; Luận văn Thạc sĩ của Tào Bằng Huy (1999): Những giải pháp cơ bản
nhằm xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2001 - 2010, được bảo
vệ tại trường Đại học Kinh tế quốc dân; Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Bùi Thị
Lý (2000): Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, được bảo vệ
tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Các cơng trình nghiên cứu trên đề cập vấn đề đói nghèo khác nhau
dưới góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn, ở cấp huyện ít có bài
viết về cơng tác GNBV và QLXH đối với công tác này. Đặc biệt dưới góc
độ QLXH về thực trạng và các giải pháp tăng cường QLXH đối với công
tác GNBV ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên chưa bài viết nào phân tích
cách đầy đủ, hệ thống về lý luận, thực tiễn và giải pháp cho hoạt động
quản lý lĩnh vực này ở địa phương. Do vậy, các cơng trình nghiên cứu nêu
trên sẽ là tài liệu tác giả tham khao để từ đó nghiên cứu đầy đủ, có chiều
sâu về cả lý luận và thực tiễn về QLXH đối với công tác GNBV ở huyện
Kim Động, tỉnh Hưng Yên.


6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về QLXH đối với công tác
GNBV; đánh giá thực trạng QLXH về công tác này ở huyện Kim Động, tỉnh
Hưng Yên; luận văn chỉ ra phương hướng và đề xuất các giải pháp tăng cường

quản lý công tác GNBV ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn thực hiện các nhiệm
vụ cơ bản sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận của QLXH đối với cơng tác GNBV.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng QLXH đối với công tác GNBV ở
huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên hiện nay.
Ba là, chỉ ra phương hướng và đề xuất giải pháp tăng cường QLXH
đối với công tác GNBV ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu QLXH đối với công tác GNBV ở huyện Kim
Động, tỉnh Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Luận văn chỉ nghiên cứu QLXH đối với cơng tác GNBV mà khơng
nghiên cứu cơng tác XĐGN nói chung;
+ Thời gian nghiên cứu từ năm 2013 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về vấn đề giảm đói nghèo và GNBV.


7
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tác giả sử dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết
hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng nhằm hệ thống hóa cơ

sở lý luận, khái quát hóa, đánh giá thực trạng, chỉ ra phương hướng, đề xuất
giải pháp tăng cường QLXH đối với cơng tác GNBV nói chung và GNBV ở
huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, so sánh được sử dụng nhằm kế thừa
có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các cơng trình nghiên cứu đã có, từ đó
vận dụng vào thực tiễn hoạt động QLXH đối với công tác này ở huyện Kim
Động, tỉnh Hưng Yên hiện nay.
- Phương pháp lịch sử, thống kê và so sánh để xem xét một cách cụ thể về
quá trình các chủ thể ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên thực hiện hoạt động
QLXH đối với công tác GNBV ở địa phương hiện nay.
- Phương pháp dự báo được sử dụng để phán đốn tình hình hộ nghèo,
hộ tái nghèo, cũng như các điều kiện khác tác động đến việc thực hiện các
nhiệm vụ quản lý cơng tác GNBV trên địa bàn, từ đó đề xuất các giải pháp
phù hợp nhằm tăng cường QLXH đối với cơng tác này ở địa phương.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Đây là cơng trình khoa học đầu tiên ở cấp độ thạc sĩ nghiên cứu vấn đề
QLXH đối với công tác GNBV ở huyên Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Về lý luận: Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về QLXH đối với
công tác GNBV, trong đó đã tập trung xây dựng và luận giải khái niệm, nội
hàm của QLXH đối với công tác GNBV.
Về thực tiễn: Luận văn đánh giá đúng thực trạng QLXH đối với cơng
tác GNBV, qua đó thấy được những ưu điểm và hạn chế trong QLXH đối với
công tác này ở địa phương - huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.


8
Luận văn đã chỉ ra phương hướng và đề xuất một số giải pháp mang
tính tồn diện, khả thi nhằm tăng cường QLXH đối với cơng tác GNBV nói
chung và GNBV ở địa phương nói riêng trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học và làm phong phú thêm
những vấn đề lý luận về QLXH nói chung và QLXH đối với cơng tác GNBV
nói riêng.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn đóng góp những thơng tin có giá trị giúp các cấp chính
quyền nói chung và chính quyền ở Hưng n nói riêng, các cơ quan, tổ chức
khác làm cơng tác XĐNG có cách nhìn sâu sắc, tồn diện hơn về QLXH đối
với cơng tác GNBV; trên cơ sở đó, rút kinh nghiệm trong quá trình quản lý
theo chức năng về lĩnh vực này.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập và những người quan tâm đến cơng tác
XĐNG nói chung, cũng như QLXH đối với công tác này ở nước ta hiện nay.
Đây là tài liệu tham khảo có giá trị lý luận và thực tiễn cho các địa phương
trong việc xây dựng chính sách và thực hiện QLXH đối với công tác XĐGN.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở CẤP HUYỆN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo
Đói nghèo là vấn đề mang tính tồn cầu và tồn tại ở nhiều thời đại. Mỗi
quốc gia, mỗi thời đại lại có những cách lý giải khác nhau về quan niệm,
nguyên nhân và cách giải quyết khác nhau đối với đói nghèo. Hiện nay có
nhiều quan niệm về đói nghèo nhưng cơ bản đều được xem xét trên các vấn

đề về thu nhập, chi tiêu, dinh dưỡng, giáo dục… hoặc theo nghĩa rộng hơn là
sự phát triển toàn diện của con người.
Để xây dựng các chủ trương giảm nghèo bền vững cần phải có các khái
niệm đúng về đói nghèo và có sự thống nhất chung, tương đối cho các quốc
gia về các quan niệm đói nghèo.
Quan điểm nghèo đói được đưa ra tại Hội nghị về chống nghèo ở khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tháng 9/1993 tại Bangkoc
(Thái Lan) là một quan điểm khá tổng quát, được nhiều nhà nghiên cứu và
làm cơng tác thực tiễn chấp nhận: Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư
khơng có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những
nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển KT-XH, phong tục tập quán của
từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận.
Có thể nói đây là quan niệm tương đối đầy đủ và bao qt về nghèo
đói. Tuy nhiên những tiêu chí về nghèo đói cịn bỏ ngỏ về mặt lượng vì ở đây
cịn phải tính đến yếu tố lịch sử, đến trình độ phát triển kinh tế, phong tục tập
quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền. Tuy nhiên, ta cũng thấy được quan
điểm trên đã đề cập đến nội dung cơ bản của đói nghèo đó là do khơng đáp
ứng nhu cầu cơ bản của con người.


10
Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu, cái tối thiểu để duy trì sự
tồn tại sinh học của con người. Theo ý đó, đói nghèo là tình trạng con người
ăn khơng đủ no, khơng đủ năng lượng để duy trì sự sống bình thường và
khơng đủ để lao động, tái sản xuất sức lao động.
Theo quan niệm của Liên hợp quốc thì người nghèo là người có thu
nhập dưới đường danh giới nghèo, được xác định bằng số tiền thiết yếu về ăn
mặc, ở … mà trước tiên là năng lượng để duy trì cuộc sống với mức tiêu dung
nhiệt lượng 2.100 - 2.300 Calo/ người/ngày.
Để phân biệt rõ hơn quan niệm về nghèo đói, các nước đã phân nghèo

đói thành hai loại: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư khơng có khả
năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống.
Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phương.
Do đặc thù của một nước ta là nước đang phát triển có xuất phát điểm
thấp, đồng thời qua nhiều cuộc điều tra, khảo sát, nghiên cứu của các Bộ,
ngành đã đi đến thống nhất cần tách riêng đói nghèo thành hai khái niệm riêng.
Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa mãn
một phần của nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp
hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Hộ đói là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 - 2 tháng,
thường vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả.
Hộ nghèo là hộ thiếu ăn nhưng không đứt bữa, mặc không lành và
khơng đủ ấm, khơng có khả năng phát triển sản xuất.
Như vậy, đói nghèo là một phạm trù lịch sử, có tính tương đối. Đói
nghèo có nguồn gốc căn ngun từ kinh tế nhưng với tư cách là hiện tượng


11
tồn tại phổ biến ở các quốc gia trong tiến trình phát triển, nghèo đói thực chất
là hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp, chứ không đơn thuần chỉ là hiện tượng
kinh tế, cho dù các yếu tố đánh giá của nó trước hết và chủ yếu dựa trên các
tiêu chí về kinh tế. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về lý thuyết lẫn
thực tiễn, là cơ sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải pháp xóa đói giảm
nghèo ở nước ta.
Để đánh giá mức độ nghèo của quốc gia hay địa phương, có nhiều tiêu
chí như: chỉ số nghèo của con người HPI, hệ số GINI, GDP, Theil, WB đã đưa

ra thước đo đói nghèo bằng con số định lượng cho các khu vực khác nhau:
- Các nước nghèo, thu nhập dưới 0,5 USD/người/ngày
- Các nước đang phát triển là 1 USD/người/ngày
- Các nước thuộc Mỹ latinh và vùng Caribe là 2 USD/người/ngày
- Các nước Đông Á là 4 USD/người/ngày
- Các nước công nghiệp phát triển là 14 USD/người/ngày
Những con số trên đây không phải là chuẩn bắt buộc chung cho các
quốc gia. Mỗi quốc gia đều xây dựng chuẩn đói nghèo riêng của mình. Chuẩn
nghèo là cơng cụ để đo lường và giám sát nghèo đói. Một thước đo nghèo đói
tốt sẽ cho phép đánh giá tác động các chính sách của Chính phủ tới nghèo đói,
cho phép đánh giá nghèo đói theo thời gian, tạo điều kiện so sánh với các
nước khác và giám sát chỉ tiêu xã hội theo hướng có lợi cho người nghèo.
Các quốc gia xác định chuẩn nghèo dựa trên sự thiếu hụt của cá nhân, hộ
gia đình so với mức sống trung bình đạt được. Có quốc gia xác định chuẩn này
dựa trên 1/2 thu nhập bình quân, có quốc gia lại dựa trên 1/3 thu nhập bình quân.
Trên thế giới hiện nay, trừ Mỹ chuẩn nghèo hầu như khơng đổi trong
suốt 4 thập kỷ qua, cịn lại tất cả các nước khi giàu lên họ thường có hướng
điều chỉnh lại chuẩn nghèo. Cộng đồng Châu Âu định nghĩa nghèo là có thu
nhập bình qn đầu người thấp dưới 50% thu nhập của đối tượng trung lưu.
Khi thu nhập của trung lưu tăng lên thì chuẩn nghèo cũng tăng lên.


12
Trong những năm qua nước ta tồn tại song song một số phương pháp
xác định chuẩn nghèo phục vụ mục đích khác nhau. Đó là cách xác định
chuẩn nghèo của Chính phủ do Bộ LĐ - TB&XH cơng bố và chuẩn nghèo của
Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới. Lúc đầu chuẩn nghèo được xác
định vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang sử dụng chỉ tiêu thu nhập.
Ở Việt Nam đã 07 lần điều chỉnh chuẩn nghèo từ năm 1993 đến nay, đó
là các lần: Giai đoạn 1993-1995; giai đoạn 1995-1997; giai đoạn 1997-2000;

giai đoạn 2001-2005; giai đoạn 2006-2010; giai đoạn 2010-2015.
+ Giai đoạn cuối cùng là 2016-2020: Chuẩn nghèo mới áp dụng cho
giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015
của Thủ tướng Chính phủ:
(i) Các tiêu chí về thu nhập:
Nghèo: Thu nhập 700.000 đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực nông
thôn và 900.000 đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực thành thị.
Cận nghèo: thu nhập 1.000.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn
và 1.300.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
(ii) Tiêu chí mực độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản:
Các dịch vụ xã hội cơ bản (05 dịch vụ): y tế; giáo dục; nhà ở; nước
sạch và vệ sinh; thông tin;
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (10 chỉ
số): tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn;
tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình qn đầu
người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn
thông; tài sản phục vụ tiếp cận thơng tin.
Theo đó, chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình áp
dụng cho giai đoạn 2016-2020 như sau:
- Hộ nghèo ở nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có
thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống; Có thu


13
nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và
thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản trở lên;
- Hộ nghèo ở thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có
thu nhập bình quân đầu người/tháng đủ từ 900.000 đồng trở xuống; Có thu
nhập bình qn đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và

thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản trở lên;
- Hộ cận nghèo ở nông thôn: Là hộ có thu nhập bình qn đầu
người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ
số đo lường mực độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản;
- Hộ cận nghèo ở thành thị: là hộ có thu nhập bình qn đầu
người/tháng trên 900.000 đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ tiêu số
đo lường mực độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản.
Ý nghĩa rất lớn của tiếp cận nghèo đa chiều là giúp đo đếm được đối
tượng, xác định đối tượng và trên cơ sở đó xây dựng chính sách cho từng
nhóm đối tượng phù hợp, phân loại bằng một thước đo là chuẩn nghèo hay
chuẩn cuộc sống tối thiểu. Điều này cũng là lý do mục tiêu GNBV của Việt
Nam đến năm 2020 không chỉ tiếp tục ưu tiên nguồn lực cho các vùng có tỷ lệ
hộ nghèo cao, khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, mà quan trọng là chuyển
đổi phương pháp đo lường nghèo đói từ đơn chiều sang đa chiều, tăng độ bao
phủ chính sách tới các đối tượng. Xóa nghèo khơng chỉ tăng thu nhập cho các
hộ nghèo mà còn tăng mức độ thụ hưởng của các thành viên trong các dịch vụ
xã hội khác. Nguy cơ tái nghèo cao, chênh lệch giữa các vùng miền tồn tại dai
dẳng; một bộ phận người nghèo khơng muốn thốt nghèo; trong khi đó các
dạng nghèo đơ thị mới xuất hiện. Đó đều là thách thức trong việc đảm bảo
tính bền vững của các kết quả đã đạt được. Cốt lõi của xóa nghèo bền vững
mang tầm tương lai là giải quyết cho được các thách thức này và hơn thế.


14
1.1.2. Quan niệm về giảm nghèo bền vững
Giảm nghèo là tổng thể các biện pháp, chính sách của nhà nước và xã
hội hay là của chính những đối tượng thuộc diện đó nghèo, nhằm tạo ra điều
kiện để họ có thể tăng thu nhập, thốt khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng
được những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn nghèo được quy định theo từng

địa phương, khu vực, quốc gia.
Giảm nghèo là một phạm trù mang tính chất lịch sử - xã hội, vì thế chỉ
có thể từng bước giảm nghèo. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin dự
đốn thì hiện tượng đói nghèo sẽ khơng cịn nữa khi xã hội lồi người đã ở
trình độ phát triển rất cao - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Do các đánh giá và nhìn nhận nguồn gốc khác nhau nên cũng có nhiều
quan niệm về giảm nghèo khác nhau. Nếu cho rằng nghèo là dạng đình đốn
của phương thức sản xuất đã bị lạc hậu, song vẫn còn tồn tại thì giảm nghèo
chính là q trình chuyển đổi sang phương thức mới tiến bộ hơn. Nếu hiểu
nghèo là do phân phối thặng dư trong xã hội một cách bất công với người lao
động, do chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa thì giảm nghèo chính là q trình
xóa bỏ chế độ sở hữu và chế độ phân phối này. Nếu hiểu nghèo là hậu quả
của tình trạng chủ nghĩa thực dân đế quốc kìm hãm sự phát triển ở các nước
thuộc địa, phụ thuộc thì giảm nghèo là quá trình các nước thuộc địa, phụ
thuộc giành lấy độc lập dân tộc để trên cơ sở đó phát triển KT-XH. Nếu hiểu
nghèo là do dự bùng nổ gia tăng dân số vượt quá tốc độ phát triển kinh tế thì
phải tìm mọi cách để giảm gia tăng dân số lại. Cịn nếu hiểu nghèo là do tình
trạng thất nghiệp gia tăng hoặc rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế thì
giảm nghèo chính là tạo việc làm, tạo xã hội ổn định và phát triển.
Ở Việt Nam hiện nay nghèo đói khơng phải là do bóc lột của giai cấp
tư sản và địa chủ đối với lao động như trước đây, mà do nền kinh tế nước ta
đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế lạc hậu kém phát triển sang
nền kinh tế phát triển hiện đại. Trong nền kinh tế này, tồn tại và đan xen nhiều


15
trình độ sản xuất khác nhau. Trình độ sản xuất cũ, lạc hậu vẫn cịn trong khi
đó trình độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trị chủ đạo, thay thế các
trình độ sản xuất cũ. Do đó, dẫn đến có sự giàu nghèo khác nhau trong các
tầng lớp dân cư.

Thực tế hiện nay chưa có quan niệm thống nhất về giảm nghèo và GNBV.
Trong từ Đại từ điển tiếng Việt, “giảm” được hiểu là bớt đi [50, tr.728]. Theo
đó giảm nghèo được hiểu là bớt đi nghèo. Nghèo đã được quy định về lượng
và chất.
Bền vững được hiểu là vững chắc và bền lâu [50, tr.148]. Đối với vấn
đề giảm nghèo, thuật ngữ GNBV không chỉ đơn thuần hiểu theo cách ghép
các thuật ngữ giảm nghèo và bền vững để hiểu một cách giản đơn rằng,
GNBV là làm bớt nghèo một cách vững chắc và bền lâu, mà cần hiểu nội hàm
của thuật ngữ này.
Theo PGS.TS Trần Đình Thiên - Viện trưởng viện Kinh tế Việt Nam,
khơng thể giúp người nghèo bằng cách tặng nhà, tặng phương tiện sống... đấy là
cách giảm nghèo, xóa nghèo nhanh nhưng chỉ tức thời, khơng bền vững. Muốn
giảm nghèo, xóa nghèo bền vững thì Nhà nước, cơ quan chức năng cần phải cấp
cho người nghèo một phương thức phát triển mới mà tự họ khơng thể tiếp cận và
duy trì. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ, ngăn ngừa, loại trừ các yếu tố gây rủi ro chứ
không chỉ là sự nỗ lực khắc phục hậu quả sau rủi ro. Đặc biệt, sự hỗ trợ giảm
nghèo này phải được xác lập trên nguyên tắc ưu tiên cho các vùng có khả năng,
điều kiện thốt nghèo nhanh và có thể lan tỏa sang các vùng lân cận.
Giảm nghèo bền vững là kiên quyết khơng để tái nghèo, là phải duy trì
tiếp tục các nguồn đầu tư và các biện pháp chỉ đạo thực hiện triển khai liên
tục, có hướng đích để khơng cho đói nghèo quay lại nơi chúng ta đang thực
hiện quyết tâm giảm nghèo.
Giảm nghèo bền vững phải dựa trên cơ sở các nguồn lực đầu tư được hỗ
trợ, được tăng cường, tạo ra những điều kiện thuận lợi để người nghèo và cộng


16
đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và hưởng
thụ được từ thành quả tăng trưởng một cách nhanh nhất và ổn định lâu dài.
Điều kiện để GNBV là phải đảm bảo một nguồn lực đủ mạnh để thực

hiện chương trình, nếu chỉ thực hiện các chương trình tái phân phối, hoặc các
biện pháp giảm nghèo truyền thống thì khơng bền vững.
Giảm nghèo bền vững có tác động vơ cùng to lớn đối với chính trị, kinh
tế, xã hội của đất nước. Cái đói, cái nghèo đang hiện hữu luôn là nỗi ám ảnh
của sự lạc hậu, kém phát triển của mỗi quốc gia. Thực hiện chương trình giảm
nghèo bền vững thành cơng là điều kiện tiền đề quan trọng để cả đất nước tiến
lên hội nhập và phát triển. Đó là cơ sở để xây dựng cho một nền tảng chính trị
vững vàng của sự nghiệp vì dân, do dân, do Đảng đặt ra. GNBV sẽ đem lại
một nền kinh tế vững mạnh, xây dựng một quốc gia vững mạnh và có vị thế
trên trường thế giới. GNBV thúc đẩy phát triển văn hóa, nâng cao dân trí và
đẩy mạnh mọi mặt an sinh xã hội.
Để đánh giá mức độ bền vững trong giảm nghèo, không thể chỉ đánh
giá dựa trên số lượng người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, huyện nghèo giảm
xuống mà phải căn cứ trên nhiều tiêu chí khác nhau, như:
- Thu nhập thực tế của người nghèo, hộ nghèo được cải thiện, vượt qua
được chuẩn nghèo, hạn chế tối đa tình trạng tái nghèo về thu nhập, nếu gặp
rủi ro hoặc sự thay đổi của chuẩn nghèo.
- Được tạo cơ hội và có khả năng tiếp cận đầy đủ với các nguồn lực sản
xuất được xã hội tạo ra, các dịch vụ hỗ trợ người nghèo và được quyền tham
gia và có tiếng nói của mình đối với các hoạt động lập kế hoạch phát triển
kinh tế, giảm nghèo cho bản thân và địa phương.
- Được trang bị một số điều kiện "tối thiểu" để có khả năng tránh được
tình trạng tái nghèo khi gặp phải những rủi ro khách quan như thiên tai, lũ lụt,
dịch bệnh… hoặc sự thay đổi của chuẩn nghèo.


17
- Được đảm bảo tiếp cận bình đẳng về giáo dục dạy nghề và chăm sóc
sức khoẻ để về lâu dài, người nghèo, người mới thoát nghèo và con em họ có
được kiến thức, kinh nghiệm làm ăn, tay nghề nhằm tạo ra thu nhập ổn định

trong cuộc sống.
1.1.3. Khái niệm quản lý xã hội đối với công tác giảm nghèo bền vững
* Quản lý và quản lý xã hội
Quản lý là một khái niệm rộng được sử dụng ở nhiều góc độ khác nhau,
ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Theo góc độ chính trị - xã hội, quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa tri
thức với lao động. Vận hành sự kết hợp này cần có một cơ chế phù hợp. Cơ
chế đúng, cơ chế hợp lý thì xã hội phát triển được, ngược lại thì xã hội chậm
phát triển. Theo góc độ hành động, quản lý được hiểu là chỉ huy, điều khiển,
điều hành các hoạt động riêng lẻ vào một mục tiêu chung.
Theo Mác, quản lý (quản lý xã hội) là chức năng đặc biệt được sinh ra
từ tính chất xã hội hóa lao động. Nó có vai trị quan trọng đặc biệt vì mọi sự
phát triển của xã hội đều thông qua hoạt động của con người và thông qua
quản lý (con người điều khiển con người).
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ đời sống lao động xã hội, từ khi xã hội
xuất hiện sự phân công lao động xã hội, đặc biệt là từ khi xuất hiện nền sản
xuất hàng hóa thì nhu cầu quản lý càng trở lên cấp thiết. Mác cho rằng, bất cứ
lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên quy mơ khá lớn
đều u cầu phải có sự chỉ đạo, điều hòa những hoạt động cá nhân.
Quản lý là một hoạt động khách quan nảy sinh khi cần có nỗ lực tập thể
để thực hiện mục tiêu riêng. Quản lý diễn ra ở mọi tổ chức từ phạm vi nhỏ
đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Trình độ xã hội hóa càng cao, yêu cầu
quản lý càng cao và vai trị của nó càng tăng lên.
Quản lý là một q trình tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Quản lý bao


18
giờ cũng là một q trình tác động có tổ chức, có kế hoạch, có mục tiêu xác định
cụ thể. Mục tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra tác động, thể hiện tập trung trí

tuệ và ý chí của chủ thể quản lý. Điều này được thể hiện ở những tác động
hướng đích có chủ định do chủ thể quản lý thực hiện và những mục tiêu mà chủ
thể quản lý xác định. Tuy nhiên, những tác động này của chủ thể chỉ có hiệu quả
khi nó dự trên cơ sở nhận thức của chủ thể về các quy luật khách quan trong lĩnh
vực hoạt động của mình. Quản lý đồng nghĩa với sự thay đổi có chủ định cho tổ
chức và bằng những tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý cũng
như trong việc khai thác, tổ chức và thực hiện các nguồn lực của tổ chức.
Trong hệ thống phạm trù quản lý, có khái niệm QLXH. Theo PGS,TS.
Nguyễn Vũ Tiến: QLXH là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích của
chủ thể quản lý lên xã hội và khách thể có liên quan nhằm duy trì và phát
triển xã hội theo các đặc trưng và các mục tiêu mà chủ thể quản lý đặt ra phù
hợp với xu thế phát triển khách quan của lịch sử [42, tr.13]. QLXH đó là
những tác động có ý thức của chủ thể xã hội vào các quá trình, hoạt động
nhằm sắp xếp, duy trì các phẩm chất đặc thù của xã hội, đáp ứng sự tồn tại và
phát triển xã hội trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nó [42, tr.15].
* Quản lý xã hội đối với công tác giảm nghèo bền vững
Giảm nghèo bền vững là một trong những vấn đề xã hội được các quốc
gia đặt vào vị trí ưu tiên cần được giải quyết trong phát triển xã hội và là một
trong những chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội ở các quốc
gia trên thế giới.
Cho đến nay chưa có quan niệm chung về QLXH đối với công tác
GNBV, tuy nhiên từ quan niệm về XĐGN và GNBV, QLXH có thể luận giải để
đưa ra quan niệm về QLXH đối với công tác GNBV như sau: QLXH đối với
công tác GNBV là hoạt động có chủ đích của nhà nước và các chủ thể xã hội
khác thơng qua các cơ chế, chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy, nguồn lực...
và các biện pháp cụ thể tác động vào hoạt động và các mối quan hệ của quá trình


19
XĐGN và GNBV nhằm đạt được mục tiêu xác định trong từng thời kỳ nhất định

và không để xẩy ra tình trạng tái nghèo ở những hộ đã thốt nghèo.
Quản lý xã hội đối với cơng tác GNBV chính là dùng chủ trương, biện
pháp, cơ chế chính sách, huy động nguồn lực xã hội tác động theo chương
trình kế hoạch đã hoạch định để làm cho các bộ phận dân cư nghèo nâng cao
mức sống, từng bước thốt khỏi tình trạng đói nghèo, và duy trì tình trạng đó
một cách ổn định, bền vững. Điều này biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng
nghèo giảm xuống, việc GNBV ở hiện tại nhưng đảm bảo sự ổn định và phát
triển cho các hộ đã được giảm nghèo không bị tái nghèo và tiếp tục giảm tỷ lệ
hộ nghèo khác trong tương lai.
Để GNBV thì các chính sách của xã hội khơng chỉ là đầu tư kinh phí
để giảm ngay tỷ lệ hộ nghèo mà sau đó lại tái nghèo, các chính sách của xã
hội cần phải giải quyết được tận gốc các nguyên nhân của tình trạng nghèo,
để mang tính bền vững, lâu dài, ổn định và phát triển cho người dân khơng
bị tái nghèo.
Trong tiến trình phát triển, tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo có một
quan hệ biện chứng. Tăng trưởng kinh tế, điều kiện vật chất để giảm nghèo.
Ngược lại giảm nghèo là nhân tố đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế mang tính
bền vững. Tuy nhiên trong mối quan hệ này thì giảm nghèo vẫn là yếu tố chịu
sự chi phối, phụ thuộc và yếu tố tăng trưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế, nếu tăng trưởng kinh tế chịu sự tác động của các quy
luật kinh tế như: quy luật cung cầu, cạnh tranh, lợi nhuận..., thì GNBV lại
chịu tác động của quy luật phân hóa giàu nghèo, vấn đề phân phối và thu
nhập, vấn đề lao động và việc làm, các chính sách xã hội...
Trong quá trình vận động thì các yếu tố, các quy luật tác động lên tăng
trưởng kinh tế và giảm nghèo theo nhiều hướng, có khi trái ngược nhau. Do
vậy, để đảm bảo được tăng trưởng kinh tế và GNBV địi hỏi Nhà nước có sự
can thiệp làm cho sự tác động của các quy luật theo hướng đồng thuận. Đây là


20

vấn đề khó khăn và phức tạp và khơng phải quốc gia nào, địa phương nào
cũng có thể làm được trong q trình phát triển.
1.2. Đặc điểm và vai trị của quản lý xã hội đối với công tác giảm
nghèo bền vững
1.2.1. Đặc điểm của quản lý xã hội đối với công tác giảm nghèo bền vững
* Đặc điểm về chủ thể quản lý
Quản lý xã hội đối với công tác GNBV là sự tác động do con người
thực hiện để tổ chức và điều chỉnh các quá trình, hoạt động của các đối tượng
(không chỉ người nghèo, hộ nghèo, mà cả toàn xã hội) khác nhau nhằm đạt
được mục tiêu cụ thể về GNBV phát triển kinh tế - xã hội.
Giảm nghèo bền vững là sự can thiệp của Nhà nước và xã hội, đồng
thời là sự tự vận động của chính các đối tượng thuộc diện đói nghèo. Trong
đó sự can thiệp của Nhà nước và xã hội là quan trọng nhưng chỉ mang tính tạo
lập mơi trường và hỗ trợ, sự tự vươn lên của các đối tượng thuộc diện đói
nghèo mới mang tính quyết định.
Đối với quản lý công tác GNBV, Nhà nước là chủ thể trực tiếp và tồn
diện của QLXH đối với cơng tác này. Bằng hệ thống các cơ quan quản lý nhà
nước, chính quyền địa phương, đội ngũ cán bộ, cơng chức, Nhà nước đã thực
hiện chức năng tổ chức và điều chỉnh các quá trình, hoạt động, mối quan hệ
phát sinh trong việc thực hiện các tác động của quá trình GNBV. Nhà nước
trên cơ sở đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng về GNBV cụ thể hóa
bằng các quy định trong các văn bản pháp luật để thực hiện q trình tác động
đến cơng tác giảm nghèo, giảm nghèo bền vững. Đồng thời Nhà nước, tùy
theo điều kiện thực tế trong mỗi giai đoạn, thời kỳ để tổ chức bộ máy làm
công tác giảm nghèo bền vững.
Các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội cũng là
những chủ thể có vai trị quan trọng trong q trình GNBV và quản lý cơng
tác GNBV. Thực tiễn những năm qua ở nước ta đã khẳng định tính tích cực,



×