Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Quản lý xã hội đối với công tác bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ê đê ở tỉnh đắk lắk hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.38 KB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VÕ THỊ PHƯỢNG

QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẢO TỒN CÁC
GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRÙN THỚNG CỦA DÂN TỢC Ê ĐÊ
Ở TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

ĐẮK LẮK - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VÕ THỊ PHƯỢNG

QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẢO TỒN CÁC
GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRÙN THỚNG CỦA DÂN TỢC Ê ĐÊ
Ở TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY
Chuyên ngành: Quản lý xã hội


Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Huỳnh Thị Chuyên

ĐẮK LẮK - 2016


Luận văn đã được sửa chữa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ.
Hà Nội, ngày…… tháng…..năm 2016
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
(Ký và ghi rõ họ tên)


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những kết
luận trong luận văn chưa từng công bố trong bất cứ cơng trình nào.
Đắk Lắk, ngày …. tháng …. năm 2016
Tác giả

Võ Thị Phượng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KT - XH

: Kinh tế xã hội


QLXH

: Quản lý xã hội


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA
DÂN TỘC Ê ĐÊ ............................................................................................... 9
1.1. Khái niệm liên quan đến đề tài ........................................................ 9
1.2. Đặc điểm, nguyên tắc, nội dung, phương thức quản lý xã hội đối
với công tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê .... 30
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG
QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẢO TỒN GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC Ê ĐÊ Ở TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY .... 43
2.1. Những yếu tố tác động đến quản lý xã hội đối với cơng tác bảo tồn
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê ở tỉnh Đắk Lắk ............ 43
2.2. Quản lý xã hội đối với công tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc Ê Đê ở tỉnh Đắk Lắk................................................ 55
2.3. Nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế trong quản lý xã hội đối với
cơng tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê ở tỉnh
Đắk Lắk hiện nay .................................................................................. 73
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG
QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẢO TỒN GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC Ê ĐÊ Ở TỈNH ĐẮK LẮK .................. 79
3.1. Phương hướng nhằm tăng cường quản lý xã hội đối với công tác
bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê ở tỉnh Đắk Lắk 79
3.2. Các nhóm giải pháp tăng cường quản lý xã hội đối với cơng tác

bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê tỉnh Đắk Lắk .. 81
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 105


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam (khóa VIII) đã chỉ rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội (KT XH)”. Chính vì vậy, Sự phát triển bề vững của một quốc gia chính là giải
quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và văn hóa xã hội.
Trong q trình giao lưu, hội nhập kinh tế thế giới, văn hóa Việt Nam càng
khẳng định vị thế, vai trò quan trọng của mình trong cơng cuộc đổi mới đất
nước. Để văn hóa thực sự là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
KT - XH thì cơng tác quản lý xã hội (QLXH) đối với việc bảo tồn giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc phải trở thành một nhiệm vụ cơ bản, thường
xuyên và có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong những năm qua, thể chế văn hóa từng bước được nâng lên; đời
sống văn hóa nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới
được hình thành; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số
được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng...Tuy nhiên, so với thành tựu trên
lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phịng, an ninh, đối ngoại thì thành tựu trong
lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, nhất là việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền
thống hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Nguyên
nhân là do một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đến phát triển văn hóa,
trong đó chưa có sự chỉ đạo, quản lý quyết liệt đến công tác bảo tồn giá trị văn

hóa truyền thống. Từ nhận định trên, có thể khẳng định cơng tác QLXH đối
với việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống dân tộc là nhiệm vụ quan trọng
trong phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của nước ta hiện nay. Nhất là trong


2
q trình tiến sâu vào hội nhập, tồn cầu hóa tạo ra sự “xâm thực” văn hóa, bất
bình đẳng trong tiếp cận văn hóa và nguy cơ tổn thất bản sắc văn hóa dân tộc.
Cho nên việc bảo tồn văn hóa truyền thống là sự nghiệp của tồn dân do Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, cần được tiến hành tích cực, sáng tạo, kiên trì.
Q trình hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường có những tác động
tiêu cực, tạo ra sự lệch hướng về phát triển văn hóa. Đời sống văn hóa của các
vùng nơng thơn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số so với các vùng đô thị
khoảng cách ngày càng xa. Các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số
chưa được vận dụng và khai thác hết, những người am hiểu về văn hóa trong
các bn, làng ngày càng hiếm. Thế hệ trẻ chỉ biết hướng về phía trước với
những hành trang của văn hóa hiện đại. Những giá trị văn hóa vơ giá cho cuộc
sống hơm nay và thế hệ mai sau dần mất đi. Điều đó, đặt ra yêu cầu mới trong
công tác QLXH đối với việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của đồng
bào dân tộc thiểu số là vấn đề cần thiết.
Đắk Lắk nằm ở trung tâm Tây Nguyên, thuộc Nam Trung bộ, có vai trị
chiến lược về kinh tế, chính trị và quốc phịng - an ninh, là địa bàn sinh sống,
giao lưu văn hóa của 47 dân tộc. Và được biết đến với khơng gian văn hóa
Cồng chiêng Tây Ngun - một “Kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi
vật thể” của nhân loại. Cộng đồng các dân tộc tỉnh Đắk Lắk đoàn kết trong
phát triển kinh tế, chú trọng bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Tuy
nhiên, trước yêu cầu đổi mới, tỉnh Đắk Lắk còn bộc lộ hạn chế trong cơng tác
bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc, mà đặc trưng là các giá
trị văn hóa Ê Đê.
Vì vậy, tỉnh cần nâng cao hiệu quả QLXH đối với việc bảo tồn các giá

trị văn hóa truyền thống của các dân tộc. Đặc biệt là giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc Ê Đê, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội.
Do vậy, phải đánh giá đúng thực trạng vấn đề quản lý trong công tác bảo tồn


3
giá trị văn hóa Ê Đê; từ đó đề ra giải pháp quản lý để đầu tư, bảo tồn, phát
triển giá trị văn hóa Ê Đê trong thời gian tới, góp phần xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk.
Trước thực trạng trên, cùng với sự đòi hỏi của thực tiễn địa phương,
với tư cách là những người làm công tác quản lý thì việc nhìn nhận một tiến
trình phát triển xã hội là hết sức cần thiết trong công tác quản lý đối với việc
bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Ê Đê. Bằng những
kiến thức được tích lũy trong q trình cơng tác và học tập, chúng tôi chọn đề
tài “Quản lý xã hội đối với công tác bảo tồn các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc Ê Đê tỉnh Đắk Lắk hiện nay”, làm luận văn tốt nghiệp
cao học, với hy vọng góp phần nâng cao hiệu quả quản lý đối với việc bảo tồn
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê đang đặt ra ở Đắk Lắk hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng có tầm quan trọng trên nhiều
phương diện. Do đó, đây là khu vực được các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà
nghiên cứu trong nước đặc biệt quan tâm. Có nhiều cơng trình nghiên cứu về
lịch sử, văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, trong đó có văn hoá - xã hội
dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Thứ nhất, những nghiên cứu về văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam
nói chung và văn hố các dân tộc thiểu số Tây Ngun nói riêng. Tiêu biểu là
cơng trình của Phan Hữu Dật (1999), cùng các cộng sự nghiên cứu về “Sắc
thái văn hoá địa phương và tộc người trong chiến lược phát triển đất nước”
đã khu biệt hoá đặc điểm văn hoá các dân tộc vùng Trường Sơn - Tây
Nguyên. Có nghiên cứu đi sâu lý giải một khía cạnh văn hố - xã hội cổ

truyền các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên như Ngô Đức Thịnh (2000), “Luật tục
M’nơng”; Chu Thái Sơn (1997), “Vai trị của các tầng lớp người già trong
các xã hội truyền thống ở Trường Sơn - Tây Nguyên” ... Đây là những nghiên


4
cứu bước đầu phân tích cấu trúc tổ chức bn làng; vai trị của tồ án phong
tục, của luật tục, của già làng ở Tây Nguyên với đặc trưng riêng biệt khơng
thể lầm lẫn với bất cứ vùng nào. Có cơng trình tập trung tìm hiểu sử thi, chữ
viết, tiếng nói, sinh hoạt văn hố (ăn, mặc, ở, đi lại, lễ hội),...
Thứ hai, các cơng trình tổng kết tình hình thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với Tây Nguyên trong những năm Đổi
mới, trong đó các yếu tố văn hố - xã hội được đặc biệt coi trọng và giải quyết
trong mối quan hệ với các yếu tố kinh tế, chính trị, quốc phòng và an ninh:
- Những nghiên cứu đề cập tổng quan về tình hình thực hiện chính sách
dân tộc ở Tây Ngun. Đáng chú ý là các cơng trình: Nguyễn Văn Tiêm và
cộng sự (1998), “Báo cáo kết quả thực hiện dự án “Điều tra đánh giá tác động
của quá trình phát triển KT - XH đến đời sống của các dân tộc bản địa Tây
Nguyên trong những năm đổi mới” ... Ở đây, các yếu tố văn hoá - xã hội không
nghiên cứu riêng biệt, mà được đặt trong mối quan hệ tương hỗ với các yếu tố
chính trị và kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho thấy, những chuyển biến của Tây
Nguyên sau quá trình thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, đặc biệt từ khi
có Quy hoạch phát triển KT - XH vùng Tây Nguyên (1998). Bên cạnh đó, các
tổng kết nói trên cũng đã chỉ rõ những di tồn lịch sử, những tác động của điều
kiện tự nhiên, phong tục tập quán, trình độ dân trí và trình độ kinh tế...
- Những tổng kết bước đầu về đời sống văn hoá và xác định yêu cầu
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc
Tây Nguyên. Trần Văn Bính (chủ biên) (2004), “Văn hố các dân tộc Tây
Ngun - Thực trạng và những vấn đề đặt ra” ... Qua tổng kết thực tiễn, các
nghiên cứu đã so sánh yếu tố truyền thống với yếu tố biến đổi của đời sống

văn hố - xã hội, từ đó cho thấy cả khuynh hướng tích cực và tiêu cực tác
động trực tiếp đến Tây Ngun. Tuy vậy, loại cơng trình này thường nghiên
cứu trên bình diện chung về đời sống văn hố ở Tây Ngun. Một số cơng


5
trình nghiên cứu bước đầu làm rõ phương diện lý luận cơng tác xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; văn hóa
các dân tộc Việt Nam thống nhất và đa dạng; trên cơ sở đó, khái qt nhiệm
vụ cơng tác giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, xem
đây là nhiệm vụ lâu dài và liên tục của tồn xã hội các cơng trình tiêu biểu
như: “Về lãnh đạo, quản lý văn học – nghệ thuật trong công cuộc đổi mới”
(2001) của Nguyễn Duy Bắc; “Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (2001) của Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên); “Về
phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa” (2003) của Phạm Minh Hạc - Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên); “Góp
phần bảo tồn văn hóa người Bih Tây Nguyên” (2011) của Lương Thanh Sơn;
“Lễ hội truyền thống dân tộc Ê Đê” (2011) của Trương Bi; “Bảo tồn, phát
huy di sản văn hóa các tộc người Ê Đê, M’nơng” (2009) của Trương Bi;
“Quản lý nhà nước trong các lĩnh vực trọng yếu” (2013) của Trần Thị Anh
Đào.
Kết quả của các cơng trình khoa học và các bài viết trên đã bước đầu đề
cập cơ sở lý luận và thực tiễn cơng tác bảo tồn các giá trị văn hóa truyền
thống của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Các kết quả nghiên cứu trên, có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc đề ra các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước đối với cơng tác bảo tồn giá trị văn hóa của các dân
tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, trong đó có vấn đề bảo tồn giá trị văn hóa
truyền thống của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk.
Xét tổng thể về các cơng trình nghiên cứu trên, chúng ta thấy những
nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhằm định hướng về cơng tác bảo tồn các

giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số; hoặc chỉ mới tập trung ở phần lý luận
chung về công tác bảo tồn giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số. Chưa có cơng
trình nào đi sâu nghiên cứu về “QLXH đối với công tác bảo tồn các giá trị


6
văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay”.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã kế thừa kết quả nghiên cứu của các
tác giả trước cả về mặt lý luận và thực tiễn để giải quyết những yêu cầu đặt ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng bảo tồn giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc Ê Đê, tỉnh Đắk Lắk, luận văn đề xuất phương hướng, giải
pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả QLXH của tỉnh Đắk Lắk đối với cơng tác bảo
tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê, góp phần giữ vững bản sắc
dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH của tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý của tỉnh Đắk Lắk
đối với công tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê trong
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra về sự quản lý đối với công
tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của tỉnh Đắk Lắk
đối với công tác bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê ở
tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự chỉ đạo, quản lý của Đắk Lắk đối với cơng tác
bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Luận văn nghiên cứu sự chỉ đạo, quản lý của tỉnh Đắk Lắk đối với
cơng tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê tỉnh Đắk Lắk
từ 2003 đến nay.


7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà
nước về bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đồng thời kế thừa có
chọn lọc kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học, các luận án, luận văn
của các tác giả đã nghiên cứu về công tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống
của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, trong đó có đồng bào Ê Đê tỉnh Đắk Lắk.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở tổng hợp, phân tích, đánh
giá các tài liệu có sẵn được thu thập từ các báo cáo, các số liệu thống kê về
công tác quản lý đối với việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Ê Đê.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ một số vấn đề lý luận có liên quan đến công tác quản lý đối
với việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê tỉnh Đắk Lắk.
- Phân tích, đánh giá có hệ thống, toàn diện thực trạng, nguyên nhân
tồn tại của công tác quản lý việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc Ê Đê tỉnh Đắk Lắk; những quan điểm cụ thể, đề xuất giải pháp bổ
sung cho công tác chỉ đạo, quản lý của tỉnh Đắk Lắk đối với bảo tồn các giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
- Đóng góp cơ sở khoa học cho tỉnh trong việc xây dựng các chủ
trương, chính sách bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu
số tại chỗ nói chung và đồng bào dân tộc Ê Đê nói riêng ở tỉnh Đắk Lắk.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần củng cố nhận thức về bảo
tồn văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê. Khảo sát và phân tích thực trạng


8
văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê nhằm đưa ra những giải pháp góp
phần vào việc nâng cao nhận thức và hiệu quả quản lý về bảo tồn các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục
vụ học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần phụ
lục, Luận văn được kết cấu thành 3 chương và 7 tiết:


9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRÙN THỚNG
CỦA DÂN TỢC Ê ĐÊ
1.1. Khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm quản lý xã hội
QLXH là những tác động có ý thức của các chủ thể xã hội nhằm sắp
xếp và duy trì của xã hội, đáp ứng sự tồn tại và phát triển xã hội trong tất cả
các lĩnh vực hoạt động của nó như lao động và học tập, văn hóa, chính trị, tôn
giáo và các công tác xã hội khác.
QLXH là loại hình quản lý nói chung. Chức năng của QLXH là đảm
bảo việc thực hiện các nhu cầu phát triển tiến bộ cho toàn bộ hệ thống xã hội
cũng như các bộ phận của nó. Khái niệm QLXH được sử dụng theo hai cách
tiếp cận khác nhau:

Thứ nhất, QLXH là hoạt động quản lý các tổ chức xã hội phi nhà nước,
không chịu sự chi phối trực tiếp bởi quyền lực Nhà nước hay Chính phủ.
Thứ hai, QLXH là cách tổ chức đời sống xã hội vì mục tiêu chung, khi đó cả
quốc gia cho tới nhóm xã hội đều bị chi phối bởi dạng quản lý nào đó. Do đó quản
lý hành chính cũng là một dạng QLXH. cách hiểu này có tính phổ biến hiện nay.
Từ cách hiểu trên, ta thấy rằng QLXH là những tác động có ý thức của
con người vào xã hội nhằm sắp xếp và duy trì xã hội, để đáp ứng sự tồn tại và
phát triển của xã hội trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.
Tuy nhiên trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, không một
xã hội nào muốn tồn tại và phát triển lại có thể đứng ngồi sự tác động của
các xã hội khác, vì vậy QLXH khơng khu biệt trong phạm vi xã hội của mình,
trong địa giới hành chính của mình, trong một nền văn hóa và trạng thái kinh


10
tế của mình mà QLXH phải tính đến các tác động khách quan bên ngồi, cả
tích cực và tiêu cực.
Chủ thể QLXH là hệ thống những người quản lý; cộng đồng người có
tổ chức, được giao cho các cơ quan chức năng nhằm thực hiện các tác động
bằng quản lý. Sự đặc thù của chủ thể QLXH được quy định bở tính chất tác
động của nó, sự tác động hướng vào con người và do con người thực hiện.
Nhiệm vụ của chủ thể QLXH là ở sự hợp nhất, hài hịa lợi ích của các cộng
đồng riêng biệt, của các nhóm xã hội, của các cá nhân trong q trình hoạt
động sống của xã hội, ở sự hiện thực hóa mục đích của họ, ở việc giữ vững
được đặc trưng xã hội mà họ đã định trước.
Để QLXH, nhà nước phải sử dụng sức mạnh quyền lực của mình và
văn hóa truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc để biến đường lối
chính sách thành hiện thực; làm cho dân tin và ủng hộ ý định của chủ thể
quản lý phải là mong muốn của đối tượng quản lý; thông qua việc cấu trúc xã
hội một cách hợp lý; một cơ chế sử dụng nhân lực và tài nguyên, các mối

quan hệ đối ngoại thuận lợi đặc biệt là cơ chế sử dụng nhân tài; với phương
pháp, hình thức, nghệ thuật quản lý thích hợp nhất là việc sử dụng các cơng
cụ, các chính sách, các giải pháp quản lý; cần tạo ra và tận dụng thời cơ các
nguồn lực bên ngoài để phát triển xã hội.[62, tr.13].
1.1.2. Khái niệm văn hóa
“Văn hóa” ở đây cần được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo
nghĩa hẹp, văn hóa được hiểu như một lĩnh vực của hoạt động và sinh hoạt xã
hội, bao gồm các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thơng tin đại chúng (phát thanh,
truyền hình, báo chí, bảo tồn và bảo tàng…). Theo nghĩa rộng, văn hóa là tất cả
những gì khơng phải tự nhiên, nghĩa là tất cả những gì con người tạo ra, ở trong
con người và liên quan trực tiếp nhất đến con người. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới


11
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở
và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hóa” [Hồ Chí Minh (1995), “Mục đọc sách” Hồ Chí Minh tồn tập, tập 3,
xuất bản lần thứ 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 431]. Như vậy, theo Hồ
Chí Minh văn hóa gồm tất cả những gì con người sáng tạo ra nhằm duy trì cuộc
sống con người và xã hội. Trong “Tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa” năm
2001, UNESCO định nghĩa: Văn hóa được hiểu là một tập hợp các đặc điểm nổi
bật về mặt tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm của xã hội hay một nhóm xã
hội, ngồi văn chương và nghệ thuật thì văn hóa cịn bao gồm lối sống, cách
thức cùng chung sống, các hệ thống giá trị truyền thống và tín ngưỡng.
Theo nội hàm định nghĩa nêu ở trên, có thể nhận thấy, tuy có nhiều
cách quan niệm, định nghĩa về văn hóa, song về cơ bản đều thống nhất văn
hóa là những gì mà con người hiểu, tích lũy và sáng tạo để hình thành nên các
giá trị, chuẩn mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các

giá trị và chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành
vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con người.
Ở đây, cũng cần phải lưu ý rằng, văn hóa là một dịng chảy liên tục, có
biến đổi theo thời gian. Vì vậy, việc phân chia văn hóa theo lát cắt ngang chỉ
có tính tương đối và mang tính thao tác trong nghiên cứu khoa học nhằm để
trình bày, miêu tả đối tượng một cách đầy đủ và chính xác, nhất là khi khảo
cứu về văn hóa dân tộc - tộc người. Trong thực tế, như chúng ta đều biết,
khơng có một sản phẩm (văn hóa vật chất) nào lại khơng mang những giá trị
văn hóa tinh thần và ngược lại, khơng có giá trị văn hóa tinh thần nào mà lại
khơng tồn tại dưới một dạng thức vật chất nhất định.
Đó là những giá trị cần thiết cho hoạt động tinh thần, những tiêu chí,
ngun tắc chi phối hoạt động nói chung và hoạt động tinh thần nói riêng, chi


12
phối hoạt động ứng xử, những tri thức, kỹ năng, giá trị khoa học, nghệ thuật
được con người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử của mình; là nhu cầu tinh
thần, thị hiếu của con người và những phương thức thỏa mãn nhu cầu đó.
Như vậy, nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những
năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người. Do đó,
văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, trên mọi lĩnh vực hoạt
động thực tiễn và sinh hoạt tinh thần của xã hội.
1.1.3. Bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống
1.1.3.1. Quan niệm về bảo tồn
Trong nghiên cứu cũng như trong hoạt động bảo tồn thường bắt gặp ba
từ: bảo quản, bảo vệ và bảo tồn. Trong khi bảo quản mang nghĩa sử dụng
những biện pháp kỹ thuật để gìn giữ, chăm sóc đối tượng được nguyên vẹn
tồn tại lâu dài, thì bảo vệ chứa nội dung thực hành các hoạt động mang tính
chất pháp lý hay nói cách khác bảo vệ là “giữ không để cho bị xâm phạm”
[Trần Ngọc Thêm 2006, 589]. Còn bảo tồn mang nghĩa rộng hơn, là “hoạt

động giữ gìn một cách an tồn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại”
[Gary Edson-David Dean 2001, 199] hay nói cách khác bảo tồn có nghĩa là
bảo quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và hãm sự xuống cấp của kết cấu
đó [Cao Xuân Phổ 2004, 161].
Như vậy, bảo tồn là tất cả những nỗ lực nhằm hiểu biết về lịch sử hình
thành, ý nghĩa của các giá trị nhằm bảo đảm sự an toàn, phát triển lâu dài và
khi cần đến phải đảm bảo việc giới thiệu, trưng bày khôi phục và tôn tạo lại
để khai thác khả năng phục vụ cho hoạt động tiến bộ của xã hội.
1.1.3.2. Quan niệm về bảo tồn văn hóa
Bản thân lĩnh vực văn hóa là rất rộng lớn và người ta thường gắn khái
niệm "bảo tồn văn hóa" với những đối tượng cụ thể như: bảo tồn văn hóa
truyền thống, bảo tồn văn hóa vật thể, bảo tồn văn hóa phi vật thể, bảo tồn văn


13
hóa Phật giáo… Hiểu theo nghĩa chung nhất thì bảo tồn văn hóa là gìn giữ,
lưu lại những giá trị văn hóa.
Bảo tồn văn hóa khơng phải là hoạt động cản trở sự phát triển văn hóa,
mà trong một chừng mực nào đó cịn là cơ sở cho sự phát triển văn hóa theo
đúng hướng. Bản thân q trình phát triển văn hóa có sự đào thải yếu tố văn
hóa lỗi thời, lạc hậu, không phù hợp với hiện thực khách quan. Cần chú ý bảo
tồn có chọn lọc các giá trị văn hóa đặc sắc, xây dựng thêm các tiêu chí văn
hóa mới phù hợp.
Các giá trị văn hóa bao giờ cũng là một thông điệp từ thời quá khứ, đến
nay vẫn còn như là những nhân chứng sống của những truyền thống lâu đời.
Con người tự nhận thức có trách nhiệm chung phải giữ gìn bảo vệ và phát huy
các giá trị văn hóa, đồng thời phải truyền lại cho thế hệ mai sau.
Hiện nay, nhiều nước lớn với ưu thế về tài chính, nhất là với những
phương tiện hiện đại của truyền thơng, đang có ý đồ "xâm lược về văn hóa",
đưa văn hóa từ bên ngồi xâm nhập vào nội địa các nước, lấn át nền văn hóa

bản địa, phổ biến lan tràn nhiều văn hóa phẩm tiêu cực và độc hại. Vì vậy,
phải ngăn chặn và đấu tranh chống lại sự xâm nhập của các loại văn hóa độc
hại, bảo vệ văn hóa dân tộc. Chúng ta biết rằng tác động của truyền thống
mang tính hai mặt: vừa mang tính tích cực, góp phần tạo nên sức mạnh và là
chỗ dựa không thể thiếu trên con đường phát triển, lại vừa là mảnh đất hết sức
thuận lợi cho sự duy trì và làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu, lỗi thời khi mà
điều kiện lịch sử xã hội đã thay đổi, và do đó nó có thể là vật kìm hãm, níu
kéo sự phát triển của nước ta. Vì thế, cần chống lại khuynh hướng: hoặc tuyệt
đối hóa hoặc phủ định truyền thống văn hóa dân tộc.
1.1.3.3. Quan niệm về giá trị văn hóa truyền thống
Giá trị là một khái niệm của nhiều bộ mơn khoa học khác nhau: tốn
học, xã hội học, triết học, nghệ thuật, văn hóa học..., do vậy trong mỗi bộ môn


14
khoa học, khái niệm này mang những hàm nghĩa khác nhau. Từ góc độ văn
hóa học, giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người
về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần, là tốt, là hay, là
đẹp, nói cách khác đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện,
mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Do vậy, giá trị văn hoá nói ở
đây là giá trị xã hội, nó gắn bó mật thiết với hoạt động sống của con người, sự
tồn tại và phát triển của mỗi xã hội như tập quán, chuẩn mực, tri thức...
Giá trị văn hóa truyền thống do con người trong mỗi xã hội sáng tạo ra
trong quá trình lịch sử, nhưng một khi hệ giá trị văn hố đã hình thành thì nó
lại có vai trị định hướng cho các mục tiêu, phương thức và hành động của
con người trong các xã hội ấy. Giá trị văn hoá của mỗi cộng đồng (tộc người,
quốc gia...) bao giờ cũng tạo nên một hệ thống, với ý nghĩa là các giá trị ấy
nảy sinh, tồn tại trong sự liên hệ, tác động hữu cơ với nhau [51, tr.2].
Với góc độ văn hóa học, giá trị văn hóa được hiểu là tập quán, chuẩn
mực, tri thức dân gian… được kết tinh và sáng tạo trong quá trình tương tác

với tự nhiên và xã hội của cộng đồng các dân tộc. Giá trị văn hóa là sản phẩm
của q trình nhận thức, là một hình thái của đời sống vật chất và tinh thần của
con người, bao gồm hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con
người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì đó được xem là
cần, tốt, hay đẹp. Nói cách khác, giá trị văn hóa chính là những cái gì được con
người cho là “chân, thiện, mỹ” có tác dụng khẳng định và nâng cao bản chất
con người. Do vậy, giá trị văn hóa được đề cập ở đây là giá trị xã hội, gắn bó
mật thiết với hoạt động đời sống, tồn tại và phát triển của mỗi xã hội [57, tr.1].
Như vậy, giá trị văn hóa truyền thống được hiểu bao gồm các chuẩn
mực giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể được con người sáng tạo từ lâu đời,
mang tính bền vững và được trao truyền từ đời này sang đời khác, tạo nên sự
đa dạng, phong phú và bản sắc riêng của văn hóa dân tộc [38, tr.1].


15
1.1.3.4. Quan điểm bảo tồn văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên
Bảo tồn văn hóa truyền thống Tây Nguyên là vấn đề cấp bách trước
nguy cơ mai một, trước sự xâm thực của văn hóa ngoại sinh cũng như sự phá
hoại vô thức của con người. Đó là chưa kể q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đang làm thay đổi những cơ sở tồn tại của văn hóa truyền thống, thậm chí
nhiều cơng trình thủy điện còn buộc phải di dời cả một cộng đồng dân cư và
nền văn hóa của họ mà ở đó nhiều giá trị không thể khôi phục nguyên bản
như ở bn làng cổ truyền. Khơng có quan điểm bảo tồn một cách khoa học
thì nhiều giá trị văn hóa sẽ vĩnh viễn biến mất. Vì vậy, bảo tồn theo quan
điểm nào là vấn đề không giản đơn, đặc biệt đối với văn hóa phi vật thể. Văn
hóa phi vật thể các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên gắn với đặc trưng là chưa hình
thành văn tự, do đó, phần lớn được lưu giữ trong trí nhớ, thực hành, lễ hội
hoặc phản ánh ở các biểu tượng, triết lý vô ngôn, mà nếu thiếu quan điểm bảo
tồn hợp lý sẽ nhanh chóng bị mai một hoặc bảo tồn khơng đạt được hiệu quả

như mong muốn. Bản sắc văn hóa các tộc người thiểu số Tây Nguyên gắn với
rừng, với nền kinh tế nương rẫy luân khoảnh, với khối cộng đồng dựa trên
nền tảng chủ nghĩa bình quân, chưa hoặc chớm xuất hiện tư hữu, nhưng đến
nay tất cả những điều kiện đó đã biến đổi. Do đó, bảo tồn phải trên quan điểm
kết hợp giữa phương thức “tĩnh” và “động”. Bảo tồn “tĩnh” là tiến hành sưu
tầm, thu thập các loại hình, dạng thức văn hóa phi vật thể như nó hiện có theo
quy trình khoa học thật nghiêm túc, chặt chẽ, lưu giữ chúng trong sách vở, ghi
chép, mô tả qua ghi âm, ghi hình. Cịn với các giá trị văn hóa vật thể thì được
lưu giữ trong các nhà bảo tàng hoặc bảo tàng sống ngay tại nơi khai quật, phát
hiện. Cách làm này trong thời gian qua rất có ý nghĩa, nhất là bảo tồn sử thi,
luật tục của các tộc người, có tác dụng giúp sau này tiếp tục nghiên cứu để
phục hồi các hiện tượng văn hóa đã mai một, thậm chí cả xã hội hóa trong


16
nước và quốc tế để mọi người biết và hiểu về văn hóa Tây Nguyên. Bảo tồn
“động” là bảo tồn các hiện tượng văn hóa ngay trong chính đời sống của nó.
Cộng đồng các tộc người tại chỗ Tây Nguyên chính là mơi trường khơng chỉ
sản sinh ra các hiện tượng văn hóa đó mà cịn là nơi tốt nhất bảo tồn, lưu giữ
và phát triển trong đời sống xã hội. Đó là bảo tồn gắn với giữ gìn các tín
ngưỡng, lễ hội cổ truyền với nền sản xuất và rộng hơn là mơi trường tồn tại
của văn hóa, đặc biệt là không gian tự nhiên của núi rừng.
1.1.3.5. Vai trị giá trị văn hóa truyền thống trong sự phát triển KT - XH
- Văn hóa truyền thống, một bộ phận quan trọng của văn hóa, góp
phần tạo nên mơi trường văn hóa của các cộng đồng dân tộc.
Văn hóa là thiên nhiên thứ hai nuôi dưỡng cá nhân và cộng đồng. Giá
trị văn hóa truyền thống làm cơ sở cho sự phát triển của văn hóa trong giai
đoạn tiếp theo. Là tiền đề, là cơ sở cho sự sáng tạo cái mới. Nếu khơng có cái
cũ thì cũng khơng có cái mới. Cái mới chỉ ra đời trên cơ sở thừa kế và phát
triển cái cũ. Như vậy, các giá trị văn hóa truyền thống được thừa kế và phát

triển làm cho văn hóa khơng bị đứt gãy. Hơn nữa, các giá trị văn hóa truyền
thống cịn là “ngun liệu”, “vật liệu” cho sự phát triển văn hóa trên cơ sở
tích lũy vốn liếng của văn hóa.
- Giá trị văn hóa truyền thống là yếu tố mang bản sắc văn hóa dân tộc,
cơ sở lựa chọn giá trị văn hóa mới và là động lực tinh thần của xã hội.
Bản sắc dân tộc là “đặc tính dân tộc”, là “cốt cách dân tộc” được biểu
hiện ở hệ giá trị dân tộc, được cả cộng đồng lựa chọn, thừa nhận và chấp nhận
trên lịch sử của cộng đồng, được đem vào vận hành trong đời sống của cộng
đồng. Trong một nền văn hóa nếu giá trị văn hóa truyền thống bị chối bỏ, bị xóa
bỏ thì nền văn hóa ấy sẽ mất bản sắc và tự đánh mất mình. Các giá trị văn hóa
truyền thống phù hợp, tiến bộ sẽ được phát triển, ngược lại không phù hợp sẽ bị
loại bỏ (đặc biệt những yếu tố tác động từ ngoài thâm nhập vào Việt Nam).


17
- Giá trị văn hóa truyền thống thúc đẩy quy luật giao lưu - tiếp biến
văn hóa trong đời sống của cộng đồng, làm cho văn hóa dân tộc và văn hóa
nhân loại phát triển đa dạng.
Quy luật giao lưu – tiếp biến là quy luật cơ bản của sự vận động và phát
triển của văn hóa. Người ta chỉ có thể giao lưu – tiếp biến với nhau trên cơ sở
những gì đã sáng tạo ra hoặc dựa trên những cái đã có để sáng tạo ra cái mới.
Giá trị văn hóa giữ vai trị cơ sở cho sự giao lưu: là trình độ, là nhu cầu của sự
giao lưu. Giá trị văn hóa truyền thống cũng giữ vai trị sàng lọc những giá trị
văn hóa ngoại lai. Nó có vai trị bảo tồn các giá trị và bản sắc dân tộc trong
quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa làm cho văn hóa phát triển vừa mang tính
đa dạng, vừa mang tính nhân văn độc đáo.
- Giá trị văn hóa truyền thống góp phần tạo nền tảng tinh thần xã hội.
Vai trị của giá trị văn hóa truyền thống được biểu hiện ở hai phương
diện: là nền tảng cho sự sáng tạo các giá trị văn hóa mới, là nấc thang trình
độ, là giá đỡ tinh thần, là năng lực sáng tạo của chính văn hóa. Mặt khác, giá

trị văn hóa truyền thống tham gia vào nền tảng tinh thần của xã hội để góp
phần lựa chọn mơ hình KT - XH phù hợp với đặc điểm, đặc trưng của dân tộc.
1.1.4. Những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê
1.1.4.1. Giá trị văn hóa về đạo đức, lối sống
Thứ nhất, phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó và sáng tạo trong
lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống.
Trong lịch sử, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn như thiên tai, địch họa,
nhưng từ bao đời nay người Ê Đê vẫn bám rừng, bám nương rẫy để tạo ra của
cải vật chất nuôi sống mình và ngày càng làm giàu cho bn làng. Phẩm chất
này không chỉ rất cần cù trong quá khứ, mà cịn là yếu tố khơng thể thiếu để
đáp ứng cho hoạt động kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế giai đoạn hiện
nay của đất nước.


18
Thứ hai, phẩm chất thương người, sống hiền lành.
Giá trị này được thể hiện rõ không chỉ trong cuộc sống sinh hoạt, giao
tiếp thường ngày mà luôn làm việc thiện, luôn nghĩ tốt về người khác và sẵn
sàng giúp đỡ người khác là phẩm chất cố hữu của người Ê Đê.
Thứ ba, gắn kết dân tộc và đoàn kết cộng đồng.
Gắn kết dân tộc và đoàn kết cộng đồng để cùng nhau chống giặc ngoại
xâm, lao động sản xuất, tổ chức cuộc sống, xây dựng buôn làng, quê hương
đất nước là một trong những giá trị nổi bật của con người và văn hóa Ê Đê.
Thứ tư, phẩm chất trung thực, thẳng thắn trong cuộc sống, dũng cảm
kiên cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm để bảo vệ buôn làng, quê
hương đất nước.
Điều này thể hiện rõ trong khí phách cuộc khởi nghĩa của Ama Jhao
chống thực dân Pháp (giai đoạn 1890 – 1900); hay thầy giáo Y Jut, một nhân
sĩ yêu nước đã tập hợp được đông đảo học sinh và giáo viên trường Pháp Ê
Đê tham gia biểu tình phản đối thực dân Pháp. Và tiếp theo trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ, người Ê Đê vẫn trung kiên, một lòng một dạ trung thành với
sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Thứ năm, yêu thiên nhiên, sống hịa mình vào thiên nhiên.
Một trong những giá trị cố hữu và nổi bật của con người và văn hóa Ê Đê là
có truyền thống yêu thiên nhiên, sống hịa mình vào thiên nhiên, u q hương
đất nước, ln lạc quan và vươn tới cuộc sống tự do hạnh phúc tốt đẹp hơn.
1.1.4.2. Giá trị văn hóa tín ngưỡng - tâm linh
Cũng như nhiều cư dân bản địa ở Tây Nguyên, dân tộc Ê Đê quan niệm
vạn vật hữu linh, tức là mọi sự vật hiện tượng tồn tại xung quanh con người
đều có thần linh, hồn ma ngự trị; họ tin rằng, người, chim muông, cây cỏ, đồ
vật trong nhà … đều có hồn. Con người ta có hai loại hồn: hồn lành và hồn
ác; hồn lành không biết làm hại sức khỏe và cuộc sống của người khác, còn


19
hồn ác thì có khả năng làm cho người khác ốm đau, chết chóc [11, tr.770].
Đối với người Ê Đê, thần linh và con người có quan hệ mật thiết với nhau,
thần cũng có đời sống nhận thức tình cảm gần như con người. Nếu được cúng
nhiều lễ vật, thần linh sẽ vui vẻ, bênh vực giúp đỡ con người, ngược lại, nếu
làm trái ý hoặc không tôn trọng sẽ bị các thần bắt phạt.
Những quan niệm về triết lý tín ngưỡng dân gian ấy tuy có một số có tác
động tiêu cực đến quá trình phát triển xã hội, nhưng nó đã tồn tại gắn liền với
đời sống con người hàng ngàn năm nay đã tạo ra những nét đẹp văn hóa, làm
cho con người có cách ứng xử với môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội
một cách nhân ái, thiêng liêng và cao đẹp; mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa con người với các thế lực siêu nhiên
có tính nhân văn sâu sắc. Người Ê Đê có truyền thống đoàn kết cộng đồng, ý
thức bảo vệ núi rừng, sơng suối, đất đai, có lối sống gắn bó hài hịa với thiên
nhiên v.v..., có quan niệm cái thiện ln chiến thắng cái ác, tinh thần tương
thân tương ái, lòng vị tha, suy nghĩ hướng thiện v.v…chính là xuất phát từ căn

ngun sâu xa của nét đẹp văn hóa tín ngưỡng. Trong sinh hoạt chung của
bn làng, hoạt động tín ngưỡng, lễ nghi chiếm vị trí hết sức quan trọng, nhất
là vai trị của người khấn thần, thầy bói, thầy cúng để trị bệnh. [19, tr.11].
1.1.4.3. Giá trị về văn học dân gian
Tiềm năng văn học dân gian Ê Đê, trước hết thể hiện bằng ngôn ngữ
tộc người. Và nhờ vào thời gian, kinh nghiệm sáng tạo trong lao động, các thể
loại văn học dân gian đã ra đời như sau:
- Văn vần (duê) gồm có Sử thi (khan), ca dao, dân ca (kưưt mmun), luật
tục (klei bhiăn), gia phả (găp djuê), lời cúng thần (klei riu yang), tục ngữ,
thành ngữ (klei bi hriêng)…
- Văn xi (đươm) gồm các hình thức như truyện cổ tích, thần thoại,
truyện cười.


×