Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Hệ thống đài phát thanh và truyền hình tỉnh salavan thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng (khảo sát đài phát thanh và truyền hình tỉnh salavan, đài phát thanh các huyện không xê đôn, ta ội và sa muổi)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.85 KB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHĂM PHAY XAYẠĐỆT

HỆ THỐNG ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH
TỈNH SALAVAN - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
(Khảo sát Đài phát thanh và truyền hình tỉnh SaLaVan,
đài phát thanh các huyện Không Xê Đôn, Ta Ội và Sa Muổi)
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ HUY PHƯỢNG

HÀ NỘI - 2011

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


1

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu, khảo sát; các số liệu công bố trong Luận văn là hồn tồn
chính xác và trung thực, khơng trùng lặp với bất kỳ cơng trình khoa học


nào đã cơng bố trong vào ngồi nước, nếu sai, tơi xin hồn tồn chịu trách
nhiệm.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2011
Tác giả Luận văn

KHĂM PHAY XAYẠĐỆT

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về báo phát thanh và truyền hình
1.1. Khái niệm.................................................................................... 12
1.2. Đặc điểm của báo phát thanh và truyền hình ............................... 13
1.3.Tác phẩm và sản phẩm báo chí phát thanh và truyền hình ............ 28
1.4. Kỹ năng sản xuất sản phẩm báo chí phát thanh và truyền hình .... 24
Chương 2: Thực trạng hoạt động của hệ thống đài phát thanh và truyền
hình tỉnh SaLaVan
2.1. Vài nét về hệ thống đài phát thanh và truyền hình tỉnh SaLavan. 29
2.2.

Nội dung thơng tin................................................................... 43

2.3.

Hình thức thơng tin.................................................................. 54


2.4.

Nhận xét, đánh giá thực trạng .................................................. 61

Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động của hệ thống đài phát thanh và truyền hình tỉnh SaLaVan
3.1.

Những vấn đề đặtra.................................................................. 72

3.2.

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống đài phát thanh và truyền hình tỉnh SaLaVan hiện nay.... 76

3.3.

Những giải pháp cơ bản........................................................... 83

KẾT LUẬN.................................................................................................92
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... ...95
PHỤ LỤC................................................................................................. .100

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


3

BẢN KÝ HIỆU VIẾT TẮT


STT
1.
2.

CHỮ VIẾT TẮT
PTV
KTV

GIẢI NGHĨA
Phát thanh viên
Kỹ thuật viên

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1986, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội IV của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào, đất nước Lào và nhân dân các bộ tộc Lào bước vào một giai
đoạn xây dựng và phát triển mới. Trên tinh thần đổi mới nền kinh tế chuyển
từ kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, mở ra bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Đường lối đó của
Đảng đã tác động mạnh mẽ đến tất cả các mặt của đời sống xã hội, tạo ra sự
thay đổi lớn trên nhiều phương diện trong đó có lĩnh vực báo chí.
Trong giai đoạn 20 năm qua, cơng tác báo chí đã được cải thiện và phát
triển nhanh chóng về mặt quy mô, số lượng cũng như chất lượng khả năng
cung cấp thông tin cho xã hội. Theo thống kê của Cục thơng tin đại chúng, Bộ

Thơng tin, Văn hố và Du lịch Lào, hiện nay, cả nước Lào có 35 đài phát
thanh (trong đó Trung ương có 3 đài và địa phương có 32 đài); có 32 đài
truyền hình (trong đó Trung ương có 2 đài truyền hình Quốc gia, đài tiếp sóng
đài truyền hình Việt Nam); có 30 đài truyền hình địa phương ở các tỉnh và
huyện. Đến nay, Lào có 50 cơ quan báo in với hơn 60 tờ báo và tạp chí xuất
bản định kỳ.
Đài phát thanh là một loại hình báo chí điện tử đầu tiên của nước Lào đã
hình thành và làm nhiệm vụ chính trị, tư tưởng từ năm 1960 của thế kỷ trước.
Giai đoạn 20 năm qua cũng được cải thiện và phát triển chất lượng mới, trở
thành phương tiện tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước Lào.
SaLaVan là một trong bốn tỉnh miền Nam của Lào, có diện tích rộng lớn,
địa bàn hiểm trở, chủ yếu là đồi núi cao; giao thơng đi lại khó khăn, trình độ

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


5

dân trí cịn thấp và lạc hậu. Do được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước, đã có nhiều cơng trình dự án hỗ trợ nhằm cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của đồng bào các dân tộc nơi đây. Trong đó, có các dự án đầu tư cơ
sở vật chất kỹ thuật, mở rộng và nâng cấp hệ thống phát thanh và truyền hình,
để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin, giải trí và nâng cao trình độ
dân trí cho nhân dân. Từ năm 2000 đến nay, tỉnh SaLaVan đã có 4 Đài phát
phát thanh, với công suất từ 100w đến 1.000W, phát sóng hệ thống FM.
Trong thời gian qua, hệ thống Đài phát thanh và truyền hình tỉnh SaLaVan
cũng như nhiều địa phương khác đã phát huy được vai trò quan trọng trong
việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước Lào; các hoạt động chỉ đạo của cấp uỷ và chính quyền địa phương.

Phát thanh và truyền thanh tỉnh SaLaVan ngày càng khẳng định vị trí là một
trong những phương tiện thiết yếu của đời sống xã hội, là tiếng nói của Đảng
bộ, chính quyền địa phương; đồng thời là diễn đàn dân chủ, công khai của các
tầng lớp nhân dân. Đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân trong
việc nắm bắt tình hình thời sự - chính trị trong nước và quốc tế, những vấn đề
liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, văn hoá – xã hội, khoa học, cơng nghệ và
mọi mặt của đời sống, góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu nhận thức
văn hố, giải trí của đơng đảo các tầng lớp nhân dân. Thơng tin của phát thanh
và truyền hình đã thực hiện được yêu cầu hội nhập và giao lưu hợp tác quốc
tế, đấu tranh có hiệu quả với những thơng tin sai trái, quan điểm xuyên tạc
của các thế lực thù địch… Tuy nhiên, cũng như một số tỉnh miền Nam khác
của Lào, do mong muốn đẩy nhanh tiến độ phủ sóng phát thanh và truyền
hình để đáp ứng nhu cầu thông tin của đông đảo công chúng, việc đầu từ phát
triển hệ thống Đài phát thanh và truyền hình trên địa bàn tỉnh đã diễn ra một
cách ồ ạt, thiếu quy hoạch, gây lãng phí, dẫn tới tình trạng vừa chồng chéo
vừa buông lỏng quản lý. Thời lượng, chất lượng các chương trình phát thanh

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


6

và truyền hình của địa phương cịn hạn chế và thiếu tính chun nghiệp, do đó
chưa thu hút được khán, thính giả…
Là cán bộ cơng tác lâu năm trong ngành phát thanh và truyền hình của
tỉnh SaLaVan, tác giả Luận văn chọn đề tài “Hệ thống Đài phát thanh và
truyền hình tỉnh SaLaVan - thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng
(Khảo sát Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Sa LaVan, Đài Phát thanh các
huyện Không Xê Đôn, Ta Ội và Sa Muổi)” làm đề tài nghiên cứu. Qua đó,
nhằm làm rõ hơn thực trạng hoạt động của hệ thống phát thanh và truyền hình

tại tỉnh SaLaVan hiện nay, đồng thời đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn
nữa chất lượng hoạt động của các đài phát thanh cấp huyện của tỉnh SaLaVan.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
2.1. Ở Việt Nam
Nghiên cứu về lĩnh vực phát thanh ở Việt Nam cũng đã có nhiều tác giả,
cơng trình cơng bố, như: tác giả Đức Dũng với cơng trình “Lý luận Báo Phát
thanh” (Nhà xuất bản Văn hố - Thông tin, Hà Nội, 2003) đã bàn luận những
vấn đề lý luận chung về Báo chí phát thanh, một loại hình báo chí có nhiều ưu
điểm và hạn chế. Trong cuốn “Báo Phát Thanh” (Nhà xuất bản Văn hoá –
Thông tin, chịu trách nhiệm xuất bản: Vũ An Chương) cũng dành thời lượng
lớn để bàn đến Báo phát thanh với tư cách là một loại hình báo chí và nó
mang đầy đủ các tính chất, đặc điểm của loại hình báo chí sử dụng ngơn ngữ
nói và tiếng động của hiện trường để chuyển tải thơng tin. Ngồi ra, cịn nhiều
cơng trình khoa học khác, như: luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp, bài
báo khoa học, tham luận khoa học của các tác giả khác nhau ở trong nước
nghiên cứu về lĩnh vực phát thanh. Tuy nhiên, chưa có cơng trình chính thức
nào cơng bố kết quả nghiên cứu về đài phát thanh và truyền hình địa phương
ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


7

2.2. Ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Trong những năm qua, có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và
khoá luận tốt nghiệp đại học mà học viên Lào đã thực hiện bằng tiếng Việt tại
Việt Nam, có nội dung liên quan tới lĩnh vực báo chí và truyền thơng của Lào
ở các góc độ khác nhau như:
- Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh (2002) của nghiên cứu sinh Bun Chom Vông Phết với đề tài “Thơng tin
đại chúng góp phần củng cố và tăng cường quyền lực chính trị của nhân dân
lao động ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay”. Luận
án chủ yếu đề cập đến vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với
đời sống chính trị - xã hội ở Cộng hịa Dân chủ nhân dân Lào, trong đó có đề
cập đến vai trị của hệ thống phát thanh và truyền hình.
- Luận văn Thạc sĩ truyền thơng đại chúng, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền (2008) của học viên Chăn Tha Von Khăm Phi La Vông với đề tài
“Nâng cao chất lượng chương trình thời sự của Đài phát thanh Quốc gia
Lào” chỉ đi sâu vào bàn luận thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng một chương trình cụ thể của Đài phát thanh Quốc gia Lào.
- Luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền (2008 của học viên Bun My Phone La Sỷ với đề tài “Cơng tác quản lý
báo chí ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào” cũng chỉ dừng lại ở việc
bàn luận các vấn đề về cơng tác quản lý báo chí nói chung ở Lào, trong đó có
bàn luận một số vấn đề về quản lý hệ thống báo chí phát thanh.
- Luận văn Thạc sĩ truyền thơng đại chúng, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền (2010) của học viên Hum Phaeng VyLayPhon với đề tài “Nâng cao
chất lượng các chương trình truyền hình trực tiếp trên Đài truyền hình Quốc
gia Lào” chủ yếu bàn luận về kỹ năng làm truyền hình trực tiếp, trong đó tác

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


8

giả đề xuất nhiều giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa các chương
trình truyền hình trực tiếp trên Đài truyền hình Quốc gia Lào.
- Luận văn Thạc sĩ truyền thơng đại chúng, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền (2010) của Khắt Thạ Nam Xẳng Xỉn Xay với đề tài “Q trình hình

thành và phát triển của Thơng tấn xã Lào”, chủ yếu đề cập đến lịch sử hình
thành và phát triển của Thơng tấn xã Lào, trong đó nêu bật được những chặng
đường với những thành tựu nổi trội, những vấn đề đặt ra đối với việc phát
triển của Thông tấn xã Lào hiện nay.
Lĩnh vực phát thanh và truyền hình ở nước Cộng hồ Dân chủ Nhân
dân Lào đã có một bề dày lịch sử phát triển, tuy nhiên, từ trước đến nay chưa
có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống về lý
luận cũng như thực tiễn phát triển của lĩnh vực phát thanh và truyền hình, đặc
biệt là bàn luận về thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hệ thống phát
thanh và truyền hình địa phương.
Hệ thống Đài phát thanh và truyền hình tỉnh SaLaVan đã hình thành và
phát triển hơn 10 năm qua, song đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên
cứu, đánh giá một cách hệ thống, khách quan và khoa học về thực trạng hoạt
động, những hạn chế bất cập trong quy hoạch phát triển, khả năng và phạm vi
phủ sóng truyền hình, năng lực sản xuất các chương trình địa phương, hiệu
quả, chất lượng cơng tác tun truyền trên sóng đài phát thanh và truyền hình
địa phương.
Có thể khẳng định rằng, đề tài: “Hệ thống Phát thanh và Truyền hình
tỉnh SaLaVan - thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng” là cơng trình
nghiên cứu đầu tiên về hệ thống phát thanh và truyền hình địa phương tại Lào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn này nhằm khái quát thực trạng hoạt động của hệ thống đài
phát thanh và truyền hình tỉnh SaLaVan, gồm: Đài phát thanh tỉnh, các đài

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


9


huyện, vai trị của Đài phát thanh và truyền hình trong việc thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế - chính trị ở địa phương, từ đó rút ra các giải pháp nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của Đài phát thanh và truyền hình
tỉnh và các đài phát thanh huyện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về thơng
tin, tun truyền và giải trí của đồng bào các dân tộc tỉnh SaLaVane trong giai
đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những yếu tố tự nhiên kinh tế - xã hội và kỹ thuật tác
động vào sự phát triển và hoạt động của hệ thống Đài thát thanh và truyền
hình SaLaVan.
- Nghiên cứu, hệ thống hóa các vấn đề lý luận, lý thuyết về báo chí và
truyền thơng, trong đó có lĩnh vực phát thanh và truyền hình.
- Khảo sát thực trạng hoạt động hệ thống Đài phát thanh và truyền hình
tỉnh SaLaVan trên cơ sở các yếu tố như chất lượng nội dung, hình thức thơng
tin của các kênh, chương trình, chuyên mục trên các đài; công tác tổ chức cán
bộ, nguồn nhân lực, vật lực; đánh giá năng lực sản xuất các chương trình phát
thanh và truyền hình của địa phương.
- Đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống phát thanh và truyền hình địa phương tỉnh SaLaVan.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng hoạt động của Đài phát thanh và truyền
hình tỉnh SaLaVan và hệ thống đài phát thanh các huyện Không Xê Đôn, Ta
Ộy và Sa Muổi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh SaLaVan và các đài phát
thanh các huyện Không Xê Đôn, Ta Ộy và Sa Muổi, từ tháng 6 năm 2010 đến
tháng 6 năm 2011.

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com



10

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên nhận thức luận các vấn đề lý luận
của triết học Mác - Lênin, quan điểm và đường lối của Đảng và Nhà nước Lào
về báo chí Cách mạng Lào; các vấn đề lý luận về báo chí, thực tiễn hoạt động
báo chí truyền thơng và các ngành khoa học khác nói chung, tại nước Cộng
hịa Dân chủ nhân dân Lào nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả Luận văn đã sử dụng các phương pháp công cụ nghiên cứu
như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu;
- Phương pháp khảo sát, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê;
- Phương pháp phỏng vấn sâu;
- Phương pháp thảo luận nhóm;
- Phương pháp điều tra xã hội học (sử dụng bảng hỏi an két);
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu về lý
luận báo chí nói chung, báo phát thanh và truyền hình nói riêng; đặc biệt là về
phát triển hệ thống phát thanh và truyền hình địa phương.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Luận văn là tài liệu tham khảo để tỉnh SaLaVan điều chỉnh và xây dựng
quy hoạch phát triển hệ thống Đài phát thanh và truyền hình phù hợp với một
tỉnh miền Nam của Lào trong xu thế phát triển của hệ thống phát thanh và
truyền hình cả nước.
- Những giải pháp mà luận văn nêu ra sẽ là tài liệu tham khảo để các đài

phát thanh và truyền hình địa phương trong khu vực miền Nam Lào tham

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


11

khảo, áp dụng nhằm cải tiến cách thức tổ chức hoạt động, phát huy hơn nữa
thế mạnh của từng Đài địa phương trong xu thế cạnh tranh hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu
thành 3 chương, 11 tiết, 83 trang nội dung, 11 bảng thống kê.

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


12

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ BÁO PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH

1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm báo phát thanh
Phát thanh (radio) là loại hình truyền thơng đại chúng, trong đó nội
dung thơng tin được chuyển tải qua âm thanh và tiếng động. Âm thanh trong
phát thanh bao gồm lời nói, âm nhạc, các loại tiếng động làm nền hoặc minh
hoạ cho lời nói như: tiếng mưa, gió, sóng vỗ, tiếng vỗ tay, tiếng ồn đường
phố…
Thuật ngữ phát thanh (radio) thực ra bao gồm cả hai hình thức, đó là

phát thanh qua làn sóng điện và truyền thanh qua hệ thống dây dẫn. Thơng
thường, sóng phát thanh được chia thành hai loại AM và FM. AM (Amplitud
Modulation) là kỹ thuật điều biên được áp dụng trong phát thanh sóng dài,
sóng trung và sóng ngắn. FM (Frequency Modulation) là kỹ thuật điều tần áp
dụng trong phát thanh sóng cực ngắn [12, tr.104].
Các đài phát thanh phát sóng AM thường có công suất máy phát lớn và
tầm hoạt động xa hơn các đài phát sóng FM. Tuy nhiên, chất lượng sóng qua
loại phát thanh này bị ảnh hưởng bởi nhiễu tĩnh. Đài phát sóng FM phát sóng
thẳng hầu như khơng bị ảnh hưởng bởi nhiễu sóng, nên chất lượng tín hiệu rất
tốt. Vì thế, nó truyền các chương trình âm nhạc với chất lượng âm thanh nổi
tốt hơn nhiều so với các đài phát sóng AM. Các đài phát sóng FM có phạm vi
phủ sóng nhỏ, vì thế nó chỉ thích hợp với các trung tâm đô thị lớn, các khu
vực đông dân cư [12,tr.106].

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


13

1.1.2. Khái niệm truyền hình
Truyền hình là một phương tiện truyền thơng đại chúng, chuyển tải
thơng tin bằng hình ảnh động và âm thanh. Nguyên nghĩa của thuật ngữ vô
tuyến truyền hình (television) bắt nguồn từ hai “tele” có nghĩa là “ở xa” và
“vision” là “thấy được”, tức là “thấy được ở xa”. Thực chất, cội nguồn trực
tiếp của truyền hình là điện ảnh. Điện ảnh đã cung cấp cho truyền hình những
gợi ý đầu tiên về một phương thức truyền thông cũng như một kho tàng
những phương tiện biểu hiện phong phú, có sức thuyết phục mạnh mẽ, làm cơ
sở cho truyền hình có thể thích ứng nhanh chóng với những đặc trưng kỹ
thuật riêng của mình [28, tr.127].
Về kỹ thuật, truyền hình hoạt động theo nguyên lý cơ bản sau: hình ảnh

về sự vật được máy ghi hình (camera) biến đổi thành tín hiệu điện trong đó
mang thơng tin về độ sáng tối, màu sắc. Đó là tín hiệu hình (tín hiệu vidio).
Sau khi được xử lý, khuyếch đại, tín hiệu hình được truyền đi trên sóng truyền
hình nhờ máy phát sóng hoặc hệ thống dây dẫn. Tại nơi nhận, máy thu hình
tiếp nhận tín hiệu hình thành hình ảnh trên màn hình. Phần âm thanh cũng
được thực hiện theo một nguyên lý tương tự như thế, rồi được truyền ra loa.
Hệ thống kỹ thuật đen trắng chỉ truyền đi tín hiệu thơng tin về độ sáng
tối của hình ảnh. Kỹ thuật truyền hình màu được xây dựng trên cơ sở phối
hợp ba thành phần màu cơ bản từ màu của ánh sáng theo hệ màu RGB, đó là
đỏ (red), xanh dương (green) và xanh lá cây (blu), theo tỉ lệ pha trộn khác
nhau để tạo ra các màu sắc theo ý muốn. Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại
ba hệ thống truyền hình màu cơ bản là; NTSC, PAL và SECAM [28, tr.127128].
1.2. Đặc điểm của báo phát thanh và truyền hình
1.2.1. Đặc điểm của báo phát thanh
* Những ưu điểm

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


14

Theo các tác giả viết trong cuốn “Báo Phát thanh” (Nhà xuất bản Văn
hố - Thơng tin, chịu trách nhiệm xuất bản: Vũ An Chương), đặc điểm, đặc
trưng của báo phát thanh là trả lời câu hỏi: Radio là gì?. Tác giả Lois Baird
trong cuốn sách “Hướng dẫn sản xuất chương trình phát thanh” (Trường phát
thanh, truyền hình và điện ảnh Ơxtrâylia) đã nêu và phân tích 11 đặc điểm của
loại hình báo chí này. Đó là:
- Radio hình ảnh;
- Radio là thân mật riêng tư;
- Radio dễ tiếp cận và dễ mang;

- Radio là trực tiếp;
- Radio có ngơn ngữ riêng của mình;
- Radio có tính tức thời;
- Radio khơng đắt tiền;
- Radio có tính lựa chọn;
- Radio gợi lên cảm xúc;
- Radio làm công việc thông tin và giáo dục;
- Radio là âm nhạc.
Có thể thấy, ý kiến này đã đề cập đến những đặc điểm của phát thanh
(radio) với các khía cạnh khác nhau. Trong tương quan so sánh với những loại
hình báo chí khác, báo phát thanh có những đặc điểm cơ bản như:
- Toả sóng rộng khắp: Đó là sự quảng bá nhờ phủ sóng điện từ trên
phạm vi rộng lớn, với tốc độ tương đương tốc độ của ánh sáng (xếp xỉ
300.000km/s). Có thể nói phát thanh khơng có giới hạn về khoảng cách, vì thế
nó mang tính xã hội hố rất cao. Thơng tin được xã hội hoá cũng sẽ tạo ra
hành động mang tính xã hội hố.
- Thơng tin nhanh, tiếp nhận đồng thời: Thơng tin được truyền qua
sóng điện từ và hệ thống truyền thanh có thể rút ngắn mọi khoảng cách ở

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


15

phạm vi toàn cầu. Trong một số trường hợp (như tường thuật trực tiếp, cầu
truyền thanh…), phát thanh có thể ngay lập tức thông báo cho công chúng
biết được sự kiện ở chính thời điểm mà nó được thơng tin.
- Thông tin phụ thuộc vào quy luật thời gian: khi đọc báo độc giả có thể
chủ động xem những tác phẩm mà mình quan tâm ở bất cứ trang nào. Khơng
giống như vậy, thính giả phát thanh bị phụ thuộc hồn tồn vào quy luật của

q trình thơng tin qua radio. Họ phải nghe chương trình một cách tuần tự từ
đầu đến cuối một cách hoàn toàn bị động. Đặc điểm này, trước đây đã từng
được các nhà nghiên cứu phát thanh gọi là “chỉ nghe một lần” (công chúng
chỉ được nghe mỗi thông tin phát ra một lần theo trình tự thời gian).
- Sống động, riêng tư, thân mật: Đặc điểm này thể hiện rõ nhất khi so
sánh giữa báo phát thanh với báo in. Đối với phát thanh cơng chúng, thính giả
được nghe thơng tin qua giọng đọc. Nghĩa là thông tin được truyền đến với họ
thông qua giọng nói của những con người cụ thể, nên gắn liền với những yếu
tố của kỹ năng nói như: cao độ, cường độ và đặc biệt tiết tấu, ngữ điệu…
- Sử dụng âm thanh tổng hợp (bao gồm lời nói, tiếng động và âm nhạc):
Công chúng của báo phát thanh rộng lớn và đa dạng, khơng phân biệt trình độ
học vấn. Mọi đối tượng (trừ người khiếm thính) đều có thể tiếp nhận thông tin
qua radio [12, tr.80].
* Những hạn chế
Theo tác giả Tạ Ngọc Tấn, trong cuốn “Truyền thông đại chúng” (Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội), hạn chế của phát thanh có thể dễ nhận
thấy nhất là mức độ xác định của thông tin tiếp nhận. Do cách tiếp nhận duy
nhất là nghe nên thông tin xuất hiện theo chuỗi tín hiệu âm thanh tuyến tính.
Người nghe hoàn toàn phụ thuộc và bị động về tốc độ, trình tự vận hành của
dịng âm thanh. Mặt khác, những thơng tin có lơgíc thường có nhiều mối quan
hệ đan xen phức tạp, nên khi phát trên phát thanh sẽ có hiệu quả thấp. Bởi vì

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


16

người ta rất khó theo dõi những thơng tin đó khi mà trí nhớ nhanh của con
người có hạn. Thậm chí, khi sự diễn đạt dài dịng và phức tạp thì người ta
khơng thể ghi nhớ kịp những thơng tin đầu tiên nên khơng thể hình dung đầy

đủ tồn bộ nội dung phán đoán [28, tr.107].
1.2.2. Đặc điểm của báo truyền hình
+ Những ưu điểm
Tác giả Tạ Ngọc Tấn trong cuốn “Truyền thơng đại chúng” (Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội), đã đưa ra khái niệm “Truyền hình là một
loại hình phương tiện truyền thơng đại chúng chuyển tải thơng tin bằng hình
ảnh động và âm thanh” [28, tr.127].
Tác giả Nguyễn Văn Dững trong cơng trình “Truyền thơng Đại chúng,
trong công tác lãnh đạo, quản lý” đã phân tích những đặc điểm của truyền
hình:
Truyền hình chuyển tải thơng tin bằng hình ảnh động và âm thanh. Nếu
so sánh với các loại hình truyền thơng đại chúng khác, truyền hình sử
dụng tổng hợp tất cả các loại thơng tin trong đó có báo, phát thanh,
phim ảnh… Hình ảnh chủ yếu và đặc trưng trong truyền hình là hình
ảnh động về hiện thực trực tiếp. Ngồi ra, truyền hình cịn sử dụng các
loại hình ảnh tĩnh như ảnh tư liệu, mơ hình, sơ đồ, biểu đồ, chữ in.
Bằng kỹ thuật dựng hình, người ta cịn có thể dựng các hình ảnh động ở
một khn hình đặc biệt cần thiết nào đó biến thành một hình ảnh tĩnh
nhằm nhấn mạnh, khắc hoạ một đặc điểm, một ý nghĩa cụ thể.
Âm thanh trong truyền hình bao gồm: lời nói của con người, âm nhạc,
tiếng động và các âm thanh của hiện trường ghi hình như gió, mưa,
sấm, tiếng kêu của mn thú, tiếng hót của chim chóc, tiếng xe chạy,
tiếng nổ của bom đạn, tiếng ồn ào của đám đông, v.v…Trong các
chương trình dạn dựng có hậu kỳ, người ta có thể tạo ra các âm thanh,

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


17


tiếng động nhân tạo để mang lại hiệu quả thể hiện cao hơn. Trên thực
tế, không phải lúc nào những tiếng động thực tế cũng phù hợp với yêu
cầu thể hiện trong các chương trình [10, tr.130].
Với hình ảnh động và âm thanh, truyền hình đạt tới độ tuyệt đối về
phạm vi công chúng xã hội. Bất cứ người nào thuộc hệ thống ngơn ngữ
gì có thể xem hiểu ít hay nhiều những gì thể hiện trên truyền hình miễn
là người đó khơng bị khiếm khuyết về trong một 2 giác quan là thị giác
và thính giác.
Hơn nữa, cơng chúng truyền hình thường là số đơng nên q trình xem
truyền hình cũng cịn là q trình trao đổi, phân tích để tái nhận thức
thông tin ở một chất lượng mới. Điều này tạo nên một tính chất đặc thù,
một sức mạnh to lớn mà khơng có một phương tiện truyền thơng đại
chúng nào khác có thể so sánh nổi. Chất lượng và sức mạnh ấy bảo
đảm cho truyền hình trở thành một nhân tố có ảnh hưởng vơ cùng to
lớn đến dư luận xã hội cũng như những tư tưởng chiều sâu bên trong
của nó [10, tr. 133].
+ Những hạn chế
Các tác giả Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang trong
cuốn “Cơ sở lý luận báo chí truyền thơng” (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia,
Hà Nội) đưa ra những hạn chế của truyền hình là:
Truyền hình có sức hấp dẫn đặc biệt nhờ khả năng giao tiếp với con
người bằng cả thị giác, thính giác - hai giác quan quan trọng nhất. Bản
thân phim ảnh cũng giao tiếp với cơng chúng bằng phương thức này
song nó vẫn bị hạn chế rất nhiều bởi không gian, môi trường và độ phổ
biến hạn hẹp. Bản thân người xem truyền hình có cảm giác như họ có
mặt, trực tiếp chứng kiến hay đang tham gia vào những sự kiện thực tế đó.

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com



18

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế nêu trên truyền hình cũng có những
hạn chế của nó. Những gì làm nên sức mạnh, ưu thế của truyền hình từ
mối quan hệ này thì trong mối quan hệ khác, chúng lại là ngun nhân
của những khiếm khuyết của truyền hình.
Tín hiệu hình ảnh động và âm thanh theo tuyến tính của truyền hình
làm cho đối tượng cơng chúng bị động hồn tồn về tốc độ, trình tự tiếp
nhận thơng tin cái gì đã qua khơng lặp lại và trong nhiều trường hợp thì
những chi tiết làm mất đi tính hiệu lực của lơgíc, làm thơng tin khơng
đầy đủ hay bị hiểu sai lệch. Những thơng tin phức tạp, có mâu thuẫn
lơgíc khó có thể chuyển tải qua truyền hình.
Khi xem truyền hình, người tiếp nhận thơng tin hầu như tập trung tồn
bộ các giác quan vào những gì diễn ra trên màn hình. Điều này, cản trở
các khả năng kết hợp tiếp nhận thơng tin truyền hình với các hoạt động
sống khác của con người.
Sự cồng kềnh của thiết bị, phương tiện kỹ thuật ghi hình và chuyển
phát sóng hình khơng cho phép người ta tiếp cận nhanh những sự kiện
thời sự ở xa các thành phố trung tâm hay ở những nơi địa hình núi non
hiểm trở. Các chương trình lặp lại nhiều về nội dung về đề tài có thể
dẫn đến nhàm chán [33, tr.134].
Nhận diện được những ưu điểm và hạn chế nêu trên, những người làm
báo phát thanh và truyền hình sẽ phát huy được thế mạnh và khắc phục được
những hạn chế của loại hình, góp phần cải thiện chất lượng sản phẩm phát
thanh trong sự cạnh tranh với các loại hình báo chí và truyền thơng mới.
1.3. Tác phẩm và sản phẩm báo chí phát thanh, truyền hình
1.3.1. Những vấn đề chung về tác phẩm và sản phẩm báo chí
Theo các tác giả trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí truyền thơng ” (Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội):


PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


19

Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hố nhân loại, báo chí là một
hiện tượng xã hội. Báo chí ra đời do nhu cầu thơng tin - giao tiếp, giải
trí và nhận thức của con người. Mặc dầu ra đời chậm hơn so với các
hình thái ý thức xã hội khác, nhưng báo chí đã nhanh chóng trở thành
một trong những lĩnh vực xung kích bởi khả năng phản ánh hiện thực
của nó. Từ khi xuất hiện cho đến nay, báo chí ln năng động trong
việc phản ánh hiện thức đa dạng, sinh động và luôn vận động phát triển.
Báo chí là một bộ phận khơng thể thiếu trong đời sống tinh thần của
mọi người, mọi dân tộc. Vì thế, báo chí ln là một cơng cụ hoạt động
quan trọng của con người và các giai cấp trong cuộc đấu tranh vì sự
tiến bộ và văn minh của nhân loại. Theo các tài liệu nghiệp vụ báo chí
nước ngồi chữ information (thơng tin, thơng báo, báo tin), xuất phát từ
một chữ trong triết học cổ Hy Lạp với nghĩa: “Tạo ra một hình thái ”
(form) dùng để chỉ những yếu tố có thể giúp cho sự hiểu biết của con
người về thế giới xung quanh đang tồn tại dưới một hình thái nhất định.
Như vậy, giống như các hình thái ý thức xã hội khác, báo chí ln lấy
hiện thực khách quan làm đối tượng phản ánh. Thông tin trong báo chí
là q trình liên tục, xun suốt trong mỗi quan hệ chặt chẽ giữa Cuộc
sống - Nhà báo - Tác phẩm - Công chúng ” [33, tr.23].
Trong đời sống chính trị - xã hội, báo chí giữ vai trò hết sức quan trọng
. Bất kỳ một lực lượng cầm quyền nào trong các quốc gia trên thế giới
đều sử dụng báo chí như một cơng cụ để tác động vào tư tưởng, tình
cảm của cơng chúng, nhằm tạo ra ở họ những nhận thức mới, những
định hướng có giá trị cho cuộc sống.
Vì thế, trong q trình đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng

Công sản, cả phía cách mạng lẫn phán cách mạng đều nhận thấy tác
động lợi hại của báo chí. Điều đó đã được chứng minh bằng toàn bộ

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


20

thực tiễn đấu tranh cách mạng và những biến cố quốc tế diễn ra trong
suốt những thế kỷ qua, kể cả những bài học đắt giá của sự sụp đổ chế
độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước Đông Âu, Liên Xô trước đây [33,
tr.28].
Bàn về tác phẩm báo chí, theo tác giả Nguyễn Thị Thoa trong tài liệu
“Tác Phẩm báo chí” (Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2011):
- Tác phẩm báo chí là sản phẩm tư duy, sáng tạo của nhà báo;
- Lấy hiện thực khách quan làm chất liệu phản ánh;
- Hình thức thể loại tương ứng với nội dung thơng tin;
- Có giá trị sử dụng: tạo dư luận xã hội;
- Được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng;
- Được pháp luật bảo hộ;
- Là một bộ phận nhỏ nhất để cấu thành một sản phẩm báo chí.
Cũng theo tác giả Nguyễn Thị Thoa, tác phẩm báo chí có các vai trò
như: phát tán tin tức; định hướng nhận thức; thỏa mãn nhu cầu giải trí của con
người; tạo dư luận và phản biện xã hội; tạo lợi nhuận cho cơ quan báo chí; tạo
việc làm cho nhà báo.
Bàn về kỹ năng thể hiện tác phẩm báo chí, cũng theo tác giả Nguyễn
Thị Thoa, nguyên tắc làm tác phẩm báo chí là phải đặt câu hỏi như: Viết cái
gì? Viết về ai? Viết nhằm mục đích gì, cho loại cơng chúng nào? Nội dung tác
phẩm ấy là “ánh xạ” của chính sách, qui tắc xã hội nào?; Đưa vào bài ý kiến
của ai? Vì sao? Nhằm mục đích gì? Cách giải quyết một tình huống cụ thể là

gì? Tác phẩm ấy sẽ tạo phản ứng, dư luận gì trong xã hội? Đem lại cho cơng
chúng bài học gì? Ứng xử của cơ quan chức năng có liên quan đến bài báo?
Hiệu quả trước mắt và lâu dài của bài báo là gì? Nhà báo sẽ được “lợi” và
“hại” gì?...

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


21

Nhiều tác giả nghiên cứu khác như: Tạ Ngọc Tấn, Nguyễn Tiến Hài,
Nguyễn Đức Dũng, Nguyễn Văn Dững, Vũ Thúy Bình, Vũ Đình Hương, Lê
Thanh Xuân, Lê Thị Nhã, Trần Quang, Đinh Văn Hường, Nguyễn Thị Minh
Thái, Dương Xuân Sơn, Trần Bảo Khánh cũng đã cơng bố các cơng trình bàn
về tác phẩm báo chí (tác phẩm báo chí đại cương và các thể loại tác phẩm cụ
thể) và sản phẩm báo chí (đối với từng loại hình báo chí). Tuy nhiên, tất cả
các tác giả đều có những điểm chung khi bàn về sáng tạo tác phẩm và tổ chức
sản xuất sản phẩm báo chí ở các khía cạnh như: khái niệm, vai trò, đặc điểm,
yêu cầu và các kỹ năng thể hiện tác phẩm, quy trình sản xuất sản phẩm.
Có thể tựu chung về “tác phẩm báo chí” ở một quy trình sáng tạo tác
phẩm như sau:
- Nhà báo nắm bắt tình hình thực tế;
- Phát hiện sự kiện, vấn đề cần thông tin;
- Tiếp cận và khai thác thông tin dữ liệu;
- Thẩm định và kiểm tra dữ liệu;
- Xây dựng tác phẩm;
- Tự biên tập, chỉnh sửa tác phẩm;
- Theo dõi, tiếp nhận và xử lý phản hồi.
Về sản xuất sản phẩm, bất kỳ loại hình báo chí nào cũng phải tn thủ
quy trình sau:

- Lập kế hoạch xuất bản;
- Sáng tạo tác phẩm báo chí;
- Tổ chức xuất bản (sản xuất), bao gồm: chọn lựa, biên tập tác phẩm;
thiết kế, trình bày, dàn dựng…;
- In ấn;
- Phát hành, phát sóng, đưa lên mạng…;
- Theo dõi thông tin phản hồi, xử lý phản hồi.

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


22

1.3.2. Tác phẩm và sản phẩm báo chí phát thanh, truyền hình
Trong định nghĩa của tác giả trong cuốn “Báo phát thanh” (Nhà xuất
bản Văn hố - Thơng tin, chịu trách nhiệm xuất bản: Vũ An Chương) và một
số tài liệu khác thì:
Báo phát thanh là một loại hình báo chí sử dụng kỹ thuật sóng điện tử
và hệ thống truyền thanh truyền đi âm thanh trực tiếp tác động vào
thính giác của đối tượng tiếp nhận. Là sản phẩm của nền kỹ thuật điện
tử, phát thanh đã từng là loại hình báo chí độc tơn trong thời gian dài.
Sự sinh động kỳ diệu của âm nhạc, tiếng động, lời nói được truyền qua
làn sóng radio đã từng được thính giả đón nhận một cách nồng nhiệt…
[12, tr.75].
Là một loại hình truyền thơng độc đáo, hấp dẫn, có khả năng tạo ra
được sức hút và thiện cảm đối với đông đảo cơng chúng, báo phát
thanh có tầm quan trọng rất lớn trong công tác tuyên truyền, cổ động,
nhất là trong các lĩnh vực nhạy cảm như y tế, giáo dục, dân số…[12,
tr.75].
Mặc dù là loại hình báo chí chỉ có phương tiện âm thanh để diễn đạt,

nhưng phương thức tác động bằng radio có nhiều ưu thế nhất là ở
những khả năng như “thơng tin nhanh, phủ sóng rộng, tiếp nhận tiện lời
và có khả năng kích thích mạnh mẽ trí tưởng tượng của người nghe”
[12, tr.76].
Với truyền hình, cũng theo các tác giả Đức Dũng trong cuốn “Lý luận
báo phát thanh”, đó là “sản phẩm của giai đoạn khởi nguồn nền kỹ thuật điện
tử, phát thanh đã từng là loại hình báo chí độc tơn trong thời gian dài. Sự sinh
động kỳ diệu của âm nhạc, tiếng động, lời nói được truyền tải qua làn sóng
radio đã được thính giả đón nhận nồng nhiệt trong suốt gần một thế kỷ qua”
[04, tr.8].

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


23

Theo tác giả Trần Bảo Khánh, trong cuốn “Sản xuất chương trình
truyền hình”, trong một số tài liệu về truyền hình của một số nước phát triển,
người ta thường chia làm năm loại sản phẩm cơ bản:
+ Loại truyền hình (Lecture): Đây là loại sử dụng phát thanh viên hoặc
biên tập viên để trình bày một vấn đề. Ưu điểm của nó để sản xuất, được bấm
máy ngay tại trường quay, hoặc dàn cảnh một cách đơn giản, chi phí cho các
loại sản phẩm này là ít tốn kém nhất. Mặt trái của nó là thường gây cho người
xem cảm giác chán ngán, mặc dù đề tài có thể hay và người thuyết minh lưu loát.
+ Loại phỏng vấn (Interview): Đây cũng là loại dễ sản xuất. Để có một
tác phẩm hấp dẫn địi hỏi người phỏng vấn có phải nghệ thuật trong việc tìm
đối tượng và ra câu hỏi. Loại phỏng vấn có thể phức tạp bởi bản thân nó có
nhiều dạng khác nhau.
+ Loại thảo luận (Panel Discusion): Thường sử dụng chuyên gia giúp
đỡ về nội dung cuộc thảo luận phải có người điều khiển và hướng dẫn các

thành viên tham gia thảo luận. Mục tiêu của các thảo luận là đưa ra các thông
tin về quan điểm, tư tưởng, ý kiến về một vấn đề, nhưng lại đặt trọng tâm vào
việc cọ sát các quan điểm, ý kiến đó.
+ Loại kịch bản (Dramatization): Là loại sản phẩm khó nhất và có giá
thành cao nhất. Là loại sản phẩm có quy trình địi hỏi một cách chun
nghiệp. Nhưng vấn đề mà loại chương trình này đề cập tới rất đa dạng và
phong phú, được đông đảo công chúng ưa thích hơn cả.
+ Loại sản xuất trực tiếp: Đây là loại đại chúng nhất, nó có thể rất đơn
giản nhưng hiệu quả của nó đối với người xem rất cao. Loại sản xuất trực tiếp
ln địi hỏi sự chuẩn bị nghiêm ngặt ở các phương tiện, từ việc lựa chọn sự
kiện cho đến việc thực hiện nó. Sự chính xác trong các tác phẩm trực tiếp
cũng là yêu cầu cần thiết. Bởi một hoạt động có nhiều người tham gia thì
cũng cần có sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ [16, tr.19].

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


24

1.4. Kỹ năng sản xuất sản phẩm báo chí phát thanh và truyền hình
1.4.1. Quy trình sản xuất sản phẩm báo chí phát thanh và truyền hình
Theo định nghĩa của tác giả trong cuốn “Báo phát thanh” (Nhà xuất
bản Văn hóa - Thơng tin) và một số tài liệu khác thì:
Chương trình phát thanh là sự liên kết, sắp xếp hợp lý tin, bài, bằng tư
liệu, âm nhạc trong một thời lượng nhất định được mở đầu bằng nhạc
hiệu và kết thúc bằng lời chào tạm biết nhằm đáp ứng yêu cầu tuyên
truyền của cơ quan báo phát thanh, đồng thời mang lại hiệu quả cao
nhất đối với người nghe.
Như vậy, với một cơ quan báo phát thanh, quá trình sản xuất bắt đầu
bằng việc sáng tạo các tác phẩm phát thanh. Một đài phát thanh thường

bao gồm 4 bộ phận chính: lãnh đạo quản lý; biên tập viên; phóng viên
và kỹ thuật viên, trong đó phóng viên là người trực tiếp sáng tạo những
tác phẩm báo phát thanh. Các sản phẩm báo chí này thể hiện bản lĩnh
chính trị, năng lực nghiệp vụ và trách nhiệm xã hội của nhà báo phát
thanh. Uy tín, ảnh hưởng của một đài phát thanh trước hết được quy
định bởi khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện những vấn đề nổi cộm,
có ý nghĩa và phản ánh chúng một cách tức thời tới cơng chúng thính
giả, góp phần nâng cao nhận thức, mở rộng hiẻu biết và định hướng tư
tưởng cho công chúng.
Tuy nhiên, tác phẩm tin, bài không trực tiếp đến với thính giả. Bằng
cách lựa chọn chương trình phát thanh, các tác phẩm được sắp xếp, bố
trí hợp lý giúp thính giả tiếp nhận chương trình một cách đầy đủ, hệ
thống, có hiệu sâu [12, tr. 216].
Tác giả Trần Bảo Khánh, trong cuốn “Sản xuất chương trình truyền
hình” đã đưa ra luận điểm:

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com


×