Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Mối quan hệ giữa đảng cộng sản việt nam và mặt trận tổ quốc việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (774.06 KB, 109 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ĐINH HẢI ÂU

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỌ ÁNH

HÀ NỘI - 2012


2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................4
Chương 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ....... 12
1.1 Một số vấn đề cơ bản về ĐCS Việt Nam và MTTQ Việt Nam ..... 12


1.2 Thực chất, nội dung mối quan hệ giữa ĐCS Việt Nam với MTTQ
Việt Nam............................................................................................ 24
Chương 2: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ............................... 43
2.1 Mối quan hệ giữa ĐCS Việt Nam với MTTQ Việt Nam trong thời
kỳ trước đổi mới................................................................................. 43
2.2 Mối quan hệ giữa ĐCS Việt Nam với MTTQ Việt Nam trong thời
kỳ sau đổi mới.................................................................................... 61
2.3 Những bài học rút ra từ quá trình giải quyết mốí quan hệ giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua các thời kỳ
cách mạng .......................................................................................... 77
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG MỐI
QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM........... 85
3.1 Phương hướng tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam: .................................................................................. 85
3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản
Việt Nam với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: ........................................ 88
KẾT LUẬN............................................................................................... 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 104


3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CHMNVN

: Cộng hoà miền Nam Việt Nam

CHXHCN


: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

ĐCS

: Đảng Cộng sản

ĐTND

: Đoàn thể nhân dân

HĐND

: Hội đồng nhân dân

LMCLL

: Liên minh các lực lượng

MTDTGPMN

: Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam

MTDTTN

: Mặt trận dân tộc thống nhất


MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

UBND

: Uỷ ban nhân dân


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam và Mặt trận Tổ
quốc (MTTQ) Việt Nam là mối quan hệ máu thịt, cũng là một hình thức của
mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Mối quan hệ này được thể chế hoá bằng
các văn bản chính trị và pháp lý như: Cương lĩnh Chính trị, các Văn kiện của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp và các văn bản pháp luật của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 4, Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam có ghi nhận: ĐCS Việt
Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) (Bổ sung và phát triển năm 2011)
thừa nhận: MTTQ Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. ĐCS Việt Nam vừa là thành viên vừa là
người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp
thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.
Trong hệ thống chính trị nước ta, ĐCS Việt Nam, Nhà nước và MTTQ
Việt Nam là những thành tố cơ bản, trong đó, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ
thống chính trị và lãnh đạo tồn xã hội, cịn MTTQ Việt Nam là tổ chức chính
trị - xã hội rộng lớn, đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của các tầng lớp

nhân dân. Như vậy, cả trong nhận thức và trong thực tiễn, quan hệ giữa Đảng
- Mặt trận và hệ thống chính trị ln gắn bó hữu cơ với nhau - đó chính là mối
quan hệ giữa các chủ thể thực thi quyền lực của nhân dân ta trong thời kỳ quá
độ lên CNXH.
Tuy mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận đã được thể chế hóa bằng các
văn bản chính trị, pháp lý nhưng trong thực tiễn, mối quan hệ này vẫn còn
nhiều vấn đề bất cập liên quan đến vai trò thực sự của Mặt trận trong hệ thống
chính trị và trong đời sống xã hội (nhất là vai trò đại diện dân chủ cho các


5

tầng lớp nhân dân). Cho đến nay, theo tác giả, những nghiên cứu về mối quan
hệ đặc biệt giữa ĐCS Việt Nam với MTTQ Việt Nam trong thời kỳ mới cịn
rất ít và chưa đi sâu vào vấn đề thực tiễn nói trên.
Dưới góc độ Chính trị học, tất cả các quan hệ giữa Đảng với hệ thống
chính trị; giữa Đảng với Mặt trận; giữa Đảng và Mặt trận với hệ thống chính
trị cần được làm sáng tỏ trên tư duy mới.
Là cán bộ công tác tại Trung tâm Công tác lý luận của Uỷ ban Trung
ương (UBTW) MTTQ Việt Nam, bản thân cũng có nhiều suy tư về mối quan
hệ giữa Đảng và MTTQ Việt Nam. Vì vậy, đây là cơ hội lựa chọn đề tài: Mối
quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay làm đề tài luận văn thạc sỹ. Thơng qua luận văn hy
vọng góp phần nhỏ bé trong việc cải thiện nhận thức về mối quan hệ vốn cịn
nhiều tranh cãi này.
2. Tình hình nghiên cứu
Mối quan hệ giữa ĐCS Việt Nam với MTTQ Việt Nam là mối quan hệ
đặc biệt và nhận được nhiều sự quan tâm trong lý luận chính trị, nhất là trong
giai đoạn đổi mới hiện nay. Có thể lược kê ra đây một số nghiên cứu liên
quan như sau:

2.1 Những cơng trình nghiên cứu về ĐCS Việt Nam cầm quyền
- Một số vấn đề về Đảng và công tác xây dựng Đảng hiện nay, Đề tài
KX.05.06, Hà Nội, 1992, chủ nhiệm: GS.TS Nguyễn Phú Trọng.
- Đảng cầm quyền trong thời đại ngày nay và những vấn đề rút ra cho
công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng ta, Đề tài nghiên cứu khoa học, 1993 do
Đậu Thế Biểu làm chủ nhiệm.
- Đảng cầm quyền trong điều kiện hiện nay, Thông tin chuyên đề - TT TT - TL, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1/1993.


6

- Vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống
chính trị, Đề tài KX.05.06, Hà Nội, 1999, PGS.TS Trần Xuân Sầm làm chủ
nhiệm.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng (sách tham khảo), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 do Trần Đình Nghiêm chủ biên.
- Thể chế đảng cầm quyền - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004 do Đặng Đình Tân chủ biên.
- Mở rộng và phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng cộng sản, vấn đề và
giải pháp, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2005 của Phan Xuân Sơn.
- Một số vấn đề về Đảng cầm quyền và cơng tác xây dựng đảng trong
tình hình mới (Tài liệu bồi dưỡng thí sinh nâng ngạch chuyên viên cao cấp
khối Đảng, đoàn thể năm 2011).
- Một số vấn đề về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong điều kiện
mới của GS.TS. Mạch Quang Thắng - Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh,
đăng trên Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 4/11/2011.
- Đảng Cộng sản Việt Nam trong vai trò Đảng cầm quyền, của Trương
Nguyên Tuệ đăng trên Tạp chí Ban Tun giáo ngày 31/1/2012.
Ngồi ra, cịn có nhiều bài viết của các tác giả khác cũng đề cập đến

những khía cạnh của đề tài, chẳng hạn: "Dân chủ trong Đảng Cộng sản:
Những bài học kinh nghiệm từ cải tổ, cải cách và đổi mới ở các nước xã hội
chủ nghĩa" của GS.TS Lưu Văn Sùng; hoặc: "Xây dựng Đảng cầm quyền:
Một số kinh nghiệm từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam" của GS.TS Nguyễn Phú
Trọng; "Đảng ta là một đảng cầm quyền" của PGS. TS Bùi Đình Phong (đăng
trên mạng internet).
Những nghiên cứu trên đã làm rõ những vấn đề lý luận về Đảng cầm
quyền trong điều kiện mới (Đảng đã nắm chính quyền và lãnh đạo việc thực


7

thi quyền lực chính trị). Một số nghiên cứu chỉ ra phương thức lãnh đạo của
Đảng trong tình hình mới - trong đó có nội dung, phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận và các đồn thể chính trị.
2.2 Những cơng trình nghiên cứu về Mặt trận
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc và Mặt trận dân
tộc thống nhất, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Một số vấn đề về đổi
mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội, 2002.
- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Sinh hoạt lý luận, số 4, 2002
của Nguyễn Thị Lan.
- Vài suy nghĩ bước đầu về nguyên tắc phối hợp và thống nhất hành
động giữa các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tạp chí
Mặt trận số 13, 2003 của Nguyễn Văn Pha.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần làm tốt vai trò một tổ chức liên minh
chính trị, Tạp chí Mặt trận số 17, 2004 của Nguyễn Khánh.
- Biên niên sự kiện lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam (3
tập), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

- Vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội,
2005 của Nguyễn Thị Hiền Oanh.
- Bộ Lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam (3 tập), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006, 2007.
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, (kỷ yếu Hội thảo khoa học - thực
tiễn), Hà Nội, 2005 của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.


8

- Bộ Văn kiện Đảng về Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam,(3 tập),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, (2001, 2005) của Uỷ ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơng tác Mặt trận, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2009 do Vũ Trọng Kim chủ biên.
- Luận án: Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt nam trong thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
2.3 Một số cơng trình nghiên cứu về quan hệ giữa Đảng và Mặt trận
- Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, các đồn thể nhân dân cấp xã ở
nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 của Dương Xuân Ngọc.
- Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2008 do Lê Hữu Nghĩa, Hồng Chí Bảo, Bùi Đình Bơn (đồng chủ biên).
- Kết hợp chế độ tập trung dân chủ với chế độ hiệp thương trong tổ
chức Mặt trận, Hà Nội, 2008 của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.
- Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị - Từ nhận thức đến
thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia - Hành chính, Hà Nội, 2009 do Dương

Xuân Ngọc chủ biên.
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cơng cuộc đổi mới, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2009 do Bùi Kim Đỉnh chủ biên.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các
đồn thể nhân dân – nhìn từ Ban Dân vận cấp uỷ, Tạp chí Mặt trận, số tháng
3- 2009 của Vũ Ngọc Lân.
- Kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị -xã hội
ngày 8-12-2009.


9

- Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt
Nam hiện này, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 do Nguyễn Hữu Đổng
chủ biên.
- Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước và nhân dân,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 của Nguyễn Khánh.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam hiện nay, đăng trên báo Đại đoàn kết ngày 29-4-2011của Đặng Đình
Phú
- Làm gì để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Diễn đàn Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí
Minh của Nguyễn Văn Hùng.
Những nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn về
mối quan hệ của Đảng với Mặt trận. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa luận
giải sâu về bản chất mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận trong thời kỳ đổi
mới; đặc biệt chưa chỉ ra thực chất vai trò của Đảng với tư cách vừa là hạt
nhân lãnh đạo, vừa là thành viên Mặt trận, đồng thời cũng chưa chỉ ra trách
nhiệm của Mặt trận là đại diện dân chủ của các tầng lớp nhân dân trước Đảng

và Nhà nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Trên cơ sở tư duy mới, được hình thành sau hơn 25 năm đổi mới, phân
tích rõ cơ sở lý luận, thực chất, nội dung và hình thức thể hiện mối quan hệ
giữa ĐCS Việt Nam và MTTQ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập
quốc tế, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng cầm quyền và MTTQ - liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu


10

3.2 Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt
Nam với MTTQ Việt Nam nhất là làm rõ thực chất, nội dung mối quan hệ
giữa Đảng cầm quyền và Mặt trận trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với
MTTQ Việt Nam trong thực tế qua các thời kỳ, nhất là từ sau khi đổi mới.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo và Mặt trận hiệp thương trong thực hiện nhiệm vụ của hệ thống chính trị.
4. Đối tượng, giới hạn nghiên cứu của đề tài
4.1 Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận
trong giai đoạn hiện nay (thời kỳ đổi mới).
4.2 Giới hạn nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ chủ yếu ở cấp trung ương, nhưng có đề
cập đến những vấn đề thực tiễn ở địa phương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Luận văn vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền, về MTDTTN, về dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
- Luận văn sử dụng những phương pháp cụ thể như: lịch sử, lo gic,
phân tích, tổng hợp,thống kê, hệ thống.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn đóng góp thêm vào vốn lý luận của
MTTQ Việt Nam (Về mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận trong việc thực thi
dân chủ dưới góc nhìn chính trị học).


11

Những kiến giải trong luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cán
bộ nghiên cứu về Mặt trận và cán bộ hoạt động thực tiễn (làm công tác Mặt
trận ở các cấp).
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.


12

Chương 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1 Một số vấn đề cơ bản về ĐCS Việt Nam và MTTQ Việt Nam
1.1.1 Khái niệm, vị trí và vai trị của ĐCS Việt Nam trong hệ thống

chính trị (HTCT) nước ta
HTCT nước ta về mặt tổ chức bao gồm ba bộ phận cấu thành: ĐCS
Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam và
MTTQ Việt Nam cùng các đoàn thể nhân dân (ĐTND). Trong HTCT, các
thành viên đó có địa vị pháp lý vững chắc, được khẳng định trong Hiến pháp
và các văn bản pháp luật của nước CHXHCN Việt Nam. Việc xác định rõ vị
trí, vai trị, chức năng của từng thành tố trong HTCT Việt Nam sẽ giúp chúng
ta hiểu rõ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa các thành viên trong hệ thống,
bảo đảm cho hệ thống tồn tại, vận động và phát triển.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Đảng chính trị là bộ phận
ưu tú, tích cực nhất của một giai cấp, hoặc một tầng lớp nào đó, được tổ chức
chặt chẽ và được hình thành bởi mục tiêu giành, giữ và thực thi quyền lực nhà
nước. Đảng chính trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, là hình
thức tổ chức cao nhất của giai cấp nhưng không phải là tổ chức quyền lực có
những phương tiện cưỡng chế, mà Đảng chính trị chỉ vận động, thuyết phục,
truyền bá những quan điểm của mình, tập hợp những người cùng chí hướng
nhằm thực hiện mục tiêu, lý tưởng của tổ chức mình. Khi giai cấp có ý thức tự
giác về bản thân mình, về vị trí, thân phận và sứ mệnh lịch sử của mình, thì
giai cấp sẽ tổ chức ra đảng. ĐCS là kết quả của sự kết hợp giữa lý luận cộng
sản với phong trào công nhân; là đội tiên phong có tổ chức của giai cấp cơng
nhân và các lực lượng cách mạng. Đảng cần tiên phong cả về ý thức cách


13

mạng, tinh thần cách mạng và cả về trí tuệ để lãnh đạo xoá bỏ chế độ cũ, xây
dựng chế độ mới.
Kế tục Mác - Ăngghen, V.I Lênin cho rằng: ĐCS là đội tiên phong
chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, cách mạng nhất và
giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Vai trò tiên phong của Đảng thể hiện

trên lĩnh vực lý luận, về mặt tổ chức và hành động gương mẫu của đảng viên
trong thực tiễn. V.I Lênin đã đưa ra một số luận điểm: “chỉ đảng nào được
một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người
chiến sĩ tiền phong”. Đảng phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại
chúng ta”; Không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp cơng
nhân, với tồn bộ giai cấp, mà Đảng là “đội tiên phong giác ngộ nhất của giai
cấp vô sản”.
Phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về ĐCT, Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng của giai cấp công
nhân Việt Nam. Người cho rằng, đây là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, có
tính chất quyết định trước hết đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong tác phẩm "Đường cách mệnh" (1927), Nguyễn Ái Quốc viết:
Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững mạnh thì cách
mạng mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy." [36, t.2, tr.267].
Theo Hồ Chí Minh, ĐCS Việt Nam được xây dựng trên nguyên tắc về
đảng vô sản kiểu mới, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Không những thế, với đặc thù của
một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam, Người đã khái quát được


14

"quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc là
một" [37, t.6, tr. 175]. Chính vì vậy, ĐCS Việt Nam mang bản chất của giai
cấp công nhân, là Đảng của giai cấp công nhân nhưng cũng đồng thời là Đảng
của dân tộc Việt Nam.

Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng đã khẳng định:
“...ĐCS Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp
tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng
sản...”; “...Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp...”; “Đảng phải thu phục
cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ
địa cách mạng...”; và “...Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân
cày khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia...”.
Kể từ khi Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ nhất của Đảng thơng qua
bản Điều lệ Đảng đầu tiên (29/03/1935) đến nay, Đảng ta đã nhiều lần sửa đổi
Điều lệ của Đảng cho phù hợp với tình hình và yêu cầu của cách mạng trong
từng giai đoạn. Đến Đại hội lần thứ XI đã thơng qua Điều lệ của Đảng (sửa
đổi) – trong đó ghi rõ:
...ĐCS Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân
dân lao động và của dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ,
giàu mạnh, xã hội cơng bằng, văn minh, khơng cịn người bóc lột
người, thực hiện thành cơng chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ
nghĩa cộng sản...
Đồng thời khẳng định: ĐCS Việt Nam là đảng cầm quyền, Đảng tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến


15

hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo HTCT, nhưng cũng là một bộ phận
của hệ thống ấy; vì vậy Đảng tơn trọng và phát huy vai trị của Nhà nước,
MTTQ Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội. Qua đó khẳng định tính

mục đích trước sau như một; chính cương, điều lệ của Đảng ln ln nhất
quán và gắn liền với mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh sự lãnh đạo của Đảng đối
với xã hội là một tất yếu khách quan. Ngay từ khi mới ra đời, ĐCS Việt Nam
đã là người duy nhất lãnh đạo cách mạng. Bởi, “...ngồi lợi ích của giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác”; bởi đó
là Đảng của dân, do dân, dựa vào dân và vì dân. Nhờ đó Đảng đã phát huy
được sức mạnh to lớn của nhân dân để làm nên những chiến công vĩ đại, đưa
dân tộc Việt Nam lên ngang tầm với thời đại.
Từ lý luận và thực tiễn, có thể khẳng định rằng: ĐCS Việt Nam là đảng
chính trị duy nhất hợp hiến của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là
lực lượng tinh tú nhất của giai cấp công nhân Việt Nam, là đại biểu trung
thành quyền lợi của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động và của cả
dân tộc Việt Nam. ĐCS Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. ĐCS Việt Nam là đội
tiên phong chính trị của tồn xã hội, là hạt nhân lãnh đạo HTCT.
Vai trò của Đảng gắn liền với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.” [39, t.9, tr.314].
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng quần chúng phải
được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo thì mới trở thành sức mạnh to
lớn. Theo Người, ĐCS Việt Nam ra đời không phải vì lợi ích của một nhóm


16

người và trước hết là để cứu lấy toàn thể quốc dân Việt Nam; làm người dẫn
đường cho cách mạng Việt Nam.

Sự hình thành và phát triển của HTCT Việt Nam gắn liền với quá trình
lãnh đạo của ĐCS nhằm thực hiện mục tiêu giành độc lập dân tộc, xây dựng
xã hội phồn vinh, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, thực hiện dân chủ,
bình đẳng, xã hội khơng cịn sự áp bức, bất cơng. Điều đó cũng chứng tỏ rằng
mục tiêu mà HTCT ở Việt Nam hướng tới cũng chính là mục tiêu mà Đảng ta
đã chọn lựa: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với
vai trị lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội, Đảng đề ra đường
lối, chủ trương, chính sách để các tổ chức đảng, các đảng viên trong các cơ
quan quyền lực nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội thực hiện. Đảng đề
ra những vấn đề, những nhiệm vụ cụ thể, chủ yếu, được xác định ở mục tiêu
trong các đường lối, chủ trương, chính sách nhằm xây dựng và bảo vệ đất
nước. Những nội dung đó có thể nêu ra một cách vắn tắt như sau:
a) Đảng phải xác định rõ ràng mục tiêu lãnh đạo.
Mục tiêu mà Đảng ta đã xác định cũng chính là mục tiêu của tồn thể
dân tộc Việt Nam, của nhân dân Việt Nam; có thể phân chia ra thành mục
tiêu tổng quát hoặc cụ thể, mục tiêu dài hạn hoặc mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu
trước mắt và mục tiêu lâu dài... Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng
đã nêu mục tiêu tổng quát của cách mạng Việt Nam, mục tiêu của CNXH là:
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
b) Đảng phải xác định rõ chức năng và các mối quan hệ của từng tổ
chức trong HTCT.
Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội
phải được xác định rõ trong các văn bản, cương lĩnh, nghị quyết của Đảng, từ
đó Nhà nước thể chế hố thành các văn bản pháp luật. Đại hội lần thứ VI của


17

Đảng – khi bước vào công cuộc đổi mới Đảng ta đã xác định: “...chức năng

của Nhà nước là thể chế hố bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của
nhân dân lao động và quản lý kinh tế - xã hội theo pháp luật.” [12, tr.117].
Đại hội lần thứ X Đảng ta xác định:
MTTQ và ĐTND có vai trị rất quan trọng trong việc tập hợp, vận
động, đồn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, các chương trình kinh tế văn hố, xã hội, quốc
phịng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong
xã hội.... [13, tr.124].
Đảng lãnh đạo bằng quan điểm, cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ
trương, điều lệ, chỉ thị và các quyết định khác của Đảng đối với tổ chức, hoạt
động của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Cương lĩnh chiến lược,
đường lối, chủ trương Đại hội Đảng, các nghị quyết của Trung ương, các
quyết định của Bộ Chính trị, chỉ thị của Ban Bí thư trở thành những ngun
tắc có tính định hướng, lãnh đạo cao nhất, làm cơ sở cho các mặt công tác của
Đảng và Nhà nước, là vấn đề buộc tất cả các cấp bộ đảng, các đảng viên phải
chấp hành triển khai, phổ biến, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Để biến cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng thành chương
trình hành động của Nhà nước và xã hội, Đảng phải lãnh đạo Nhà nước thể
chế hóa các nguyên tắc của cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng. Điều
này đã được quy định ngay trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992 như
sau: "Hiến pháp là sự thể chế hóa mối quan hệ giữa đảng lãnh đạo, nhân dân
làm chủ, Nhà nước quản lý". Nhà nước căn cứ vào Nghị quyết của Đảng cụ
thể hóa thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các đạo luật, pháp lệnh, các
nghị định, thông tư và các văn bản pháp quy. Các hoạt động lập pháp, hành
pháp, tư pháp đều được định hướng theo đường lối chính trị của Đảng.


18


Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội thông qua các
cơ quan, tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở theo mối quan hệ tương
ứng từng cấp. Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII (1997), sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội được thực hiện trực
tiếp thơng qua các ban cán sự, đảng đồn và phối hợp hoạt động giữa các cơ
quan đảng các cấp.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua công tác kiểm tra, giám
sát của các tổ chức đảng. Nội dung của công tác kiểm tra là kiểm tra các tổ
chức đảng và đảng viên chấp hành nghị quyết của đảng. Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của đảng viên. Mục
tiêu của công tác cán bộ là xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh
đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức,
trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn,
gắn bó với nhân dân. Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, tồn diện Qn đội
nhân dân, Cơng an nhân dân và quan hệ đối ngoại.
1.1.2 Khái niệm, vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam trong HTCT
MTTQ Việt Nam- một hình thức, tên gọi của MTDTTN Việt Nam ở
giai đoạn hiện nay, do ĐCS Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập ra
đời ngày 18 tháng 11 năm 1930. Hơn 80 năm qua, trong từng thời kỳ cách
mạng, MTTQ Việt Nam đã có nhiều hình thức và tên gọi khác nhau: Hội
Phản đế đồng minh (1930), Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936), MTDTTN
Phản đế Đông Dương (1939), Mặt trận Việt Minh (1941), Hội Liên hiệp quốc
dân Việt Nam (1946), Mặt trận Liên Việt (1951), MTTQ Việt Nam (1955),
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (MTDTGPMN) (1960), Liên minh
các lực lượng (LMCLL) dân tộc, dân chủ và hịa bình Việt Nam (1968). Từ
năm 1977, MTTQ Việt Nam, MTDTGPMN và LMCLL dân tộc, dân chủ và
hịa bình Việt Nam được thống nhất lại với tên gọi là MTTQ Việt Nam. Sự


19


thay đổi hình thức, tên gọi ở từng giai đoạn của MTTQ Việt Nam nhằm đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn, nhưng tựu chung lại đều
nhằm mục tiêu tập hợp lực lượng to lớn của tồn dân tộc trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì
độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Trải qua các thời kỳ hoạt động với những tên gọi khác nhau, MTTQ
Việt Nam không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đại đoàn
kết dân tộc. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của MTTQ Việt Nam gắn liền với
sự ra đời và phát triển của ĐCS Việt Nam. Ngay từ khi mới thành lập, ĐCS
Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã quan tâm đến việc đoàn
kết, tập hợp lực lượng cách mạng để đấu tranh giải phóng dân tộc. MTTQ
Việt Nam trở thành tổ chức quần chúng rộng rãi nhất, tập hợp, đoàn kết các
thành viên khác nhau (gồm thành viên tập thể và thành viên các nhân) của dân
tộc Việt Nam. Các thành viên có thể khác nhau về lợi ích cụ thể; về chính
kiến, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo... nhưng cùng thống nhất hành động theo
một cương lĩnh chung vì lợi ích chung nhất, cao cả nhất là lợi ích của dân tộc.
Kế tục vai trị lịch sử của các hình thức Mặt trận trước đây, MTTQ Việt
Nam ngày nay là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ
chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề
nghiệp, các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân
tộc, các tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. MTTQ Việt Nam
chủ trương phát huy truyền thống u nước, lịng tự hào dân tộc, ý chí tự lực
tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngồi nước, xố bỏ mặc
cảm, định kiến, khơng phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, ý
thức hệ, tín ngưỡng, tơn giáo trên cơ sở lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống
nhất của Tổ quốc, thực hiện "dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn


20


minh" làm điểm tương đồng, góp phần tích cực vào sự nghiệp hịa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Khoản 1, Điều 1 Luật MTTQ Việt Nam quy định: "Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính
trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài".
Về cấu trúc, MTTQ Việt Nam bao gồm:
- Tổ chức chính trị là: Đảng Cộng sản Việt Nam
- Các tổ chức chính trị - xã hội là: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam,
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
- Các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp: Hội Chữ thập đỏ, Hội
Người cao tuổi, Hội Người mù, Hội Kế hoạch hố gia đình, Hội Khuyến học
Việt Nam, Hội Y học cổ truyền Việt Nam v.v...
Quân đội nhân dân Việt Nam - tiền thân là Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân là thành viên của Mặt trận Việt Minh nay kế tục truyền thống
đó là thành viên của MTTQ Việt Nam.
Các cá nhân tiêu biểu là người có uy tín cao có quan hệ và ảnh hưởng
tốt, có sức thuyết phục đối với một giai cấp, một tầng lớp xã hội, một dân tộc,
một tôn giáo, một cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngồi.
MTTQ Việt Nam khơng chỉ là tổ chức liên minh chính trị, mà cịn là
liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các
dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam sinh sống ở nước ngồi. Tính liên hiệp
tự nguyện thể hiện ở chỗ MTTQ Việt Nam khơng có hội viên, chỉ có các


21


thành viên bao gồm thành viên có tổ chức và thành viên cá nhân, các thành
viên tham gia Mặt trận theo nguyên tắc liên hiệp tự nguyện độc lập về tổ chức
và có địa vị bình đẳng trong mọi sinh hoạt của Mặt trận.
Là một tổ chức liên minh chính trị, hệ thống tổ chức MTTQ Việt Nam
theo cấp hành chính: Trung ương; Tỉnh thành phố trực thuộc trung ương (gọi
chung là cấp tỉnh); Huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung
là cấp huyện); xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Ở mỗi cấp hành
chính có Uỷ ban MTTQ Việt Nam. Dưới cấp xã có Ban cơng tác Mặt trận ở
cộng đồng dân cư.
Vị trí, vai trị của MTTQ Việt Nam đã được luật hóa. Luật MTTQ Việt
Nam được công bố ngày 26-6-1999 quy định:
MTTQ Việt Nam là một bộ phận của HTCT của nước CHXHCN
Việt Nam do ĐCS Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại
đồn kết tồn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp
thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên.
Vị trí, vai trị của MTTQ Việt Nam được thể hiện ở 4 điểm sau:
- Mặt trận Tổ quốc là bộ phận của HTCT của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
MTTQ Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, tất yếu có vị trí trong
HTCT của nước CHXHCN Việt Nam. Sự quy định này là yêu cầu khách quan
của sự nghiệp cách mạng.
Xét từ góc độ lịch sử và hoạt động thực tiễn của Mặt trận: sau khi ĐCS
Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930, chưa đầy 10 tháng sau, ngày 18/11/1930,
MTDTTN Việt Nam được thành lập. Từ đó đến nay, sự lớn mạnh và trưởng
thành của Mặt trận ln gắn bó keo sơn với các chặng đường cách mạng của
Đảng. Khi Đảng chưa giành được chính quyền thì Mặt trận tuyên truyền, vận



22

động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, đoàn kết tập hợp
nhân dân đấu tranh lật đổ chính quyền địch, giành chính quyền về tay nhân
dân, đồng thời thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ của chính quyền ở vùng
mới giải phóng. Như vậy, với tư cách là một tổ chức cách mạng, là tổ chức
liên minh chính trị, MTTQ đã sớm xác định vị trí của mình trên thực tế, được
Đảng và nhân dân thừa nhận. Sau khi Đảng giành được chính quyền, Mặt trận
cùng với Đảng, Nhà nước đều là công cụ để thực hiện và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Vị trí đó khơng chỉ được cơng nhận trong tiềm thức của
nhân dân, trong chủ trương của Đảng mà đã được ghi nhận bằng các qui phạm
pháp luật: Hiến pháp, Luật MTTQ Việt Nam...
Xét từ thể chế chính trị của nước ta: "chế độ ta là chế độ dân chủ, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân" thì vị trí của Mặt trận chính là chủ thể đại diện
cho quyền làm chủ và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân (các đoàn
thể nhân dân chỉ đại diện cho quyền làm chư và lợi ích chính đáng của một
bộ phận quần chúng là những hội viên hay đoàn viên của mình).
Như vậy, cả về vị trí pháp lý và cả hoạt động thực tiễn đã khẳng định
MTTQ Việt Nam là một bộ phận không thể thiếu được của HTCT nước
CHXHCN Việt Nam. Những quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đồn kết dân tộc và MTDTTN đã được thể chế hố thành các chính
sách và các bộ luật tương ứng.
MTTQ Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Vai trị cơ sở chính trị của Mặt trận đối với chính quyền nhân dân được
thể hiện ở những điểm sau:
- Mặt trận là nơi thể hiện ý chí nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết
toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng,
bảo vệ và giám sát Nhà nước của dân, do dân và vì dân.



23

- Mặt trận là nền tảng chính trị, là sức mạnh có tổ chức của tồn dân, là
lực lượng thống nhất hành động giữa các tổ chức chính trị, xã hội trong cả
nước: Nhà nước phải phối hợp với Mặt trận để phát huy quyền làm chủ và sức
mạnh có tổ chức của nhân dân - đó cũng là sức mạnh của bản thân Nhà nước.
- Mặt trận và Nhà nước chăm lo bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân,
động viên nhân dân tham gia xây dựng chủ trương, chính sách pháp luật,
giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ công chức
nhà nước, tổ chức các phong trào hành động của nhân dân, thực hiện thắng lợi
đường lối chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
MTTQ Việt Nam là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại
đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Hiện nay, yếu tố dân tộc trở thành một vấn đề cực kỳ quan trọng. Các
thế lực thù địch đang lợi dụng yếu tố này để gây mất ổn định chính trị dẫn tới
chia rẽ, khủng hoảng và đau khổ cho nhiều dân tộc vốn đã từng chung sống
hồ hợp như anh em. Trong tình hình mới cần thực hiện chiến lược đại đoàn
kết dân tộc, coi đó là đường lối cơ bản của Đảng và Nhà nước ta, là nguồn sức
mạnh to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội IX, Đảng ta xác
định: "động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân".
Theo nhận định của Đảng, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta cịn tồn tại lâu dài, sẽ có nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu
về tư liệu sản xuất, dẫn tới cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã
hội cũng thay đổi. Mối quan hệ giữa các giai tầng xã hội là quan hệ hợp tác và
đấu tranh trong nội bộ nhân dân; đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều tổ chức xã hội, nghề nghiệp ra đời. Sự
phát triển của khoa học cơng nghệ, sự giao lưu văn hố thế giới không ngừng
tác động đến lối sống và nếp nghĩ của mọi tầng lớp trong xã hội. Có thể nói
những yếu tố về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hố, tư tưởng đạo đức, lối sống



24

hết sức đa dạng và phức tạp tác động vào HTCT, đòi hỏi sự tập hợp tối đa các
nguồn lực, tạo nên động lực phát triển đất nước và dân tộc.
Mặt khác, Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, điều đó có nghĩa rằng
sẽ có nhiều thuận lợi cơ bản cũng như nguy cơ chuyên quyền, xa dân. Để
khắc phục nguy cơ đó, đảm bảo mở rộng và thực hiện dân chủ, đòi hỏi phải
phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam trong HTCT và đời sống xã hội. Những
đặc trưng kinh tế, chính trị, xã hội tồn tại suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là tồn tại khách quan; nhu cầu xây dựng liên minh chính trị trong nhiệm
vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng tăng, đòi hỏi sự liên minh rộng rãi
hơn, chặt chẽ hơn, đầy đủ hơn.
MTTQ Việt Nam là nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động
của các thành viên.
Tổ chức và hoạt động của MTTQ Việt Nam theo nguyên tắc tự nguyện,
hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động. Trong hoạt động của
Uỷ ban MTTQ, các thành viên đều có quyền trình bày ý kiến của mình, cùng
trao đổi, bàn bạc, thương lượng, đi đến sự thoả thuận tự nguyện. Mục tiêu của
hiệp thương dân chủ là đi tới sự đồng thuận thống nhất chương trình hành
động chung. Trong chương trình hành động chung đã được thoả thuận, các
thành viên có thể tán thành tất cả hoặc tán thành một số điểm. Nhưng điều
quan trọng là các thành viên phải thực hiện chương trình hành động đã thoả
thuận và có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình tổ chức thực hiện.
1.2 Thực chất, nội dung mối quan hệ giữa ĐCS Việt Nam với
MTTQ Việt Nam
1.2.1 Thực chất của mối quan hệ:
a) Quan hệ giữa Đảng và MTTQ Việt Nam là quan hệ giữa lãnh đạo và
bị lãnh đạo, đồng thời là quan hệ bình đẳng giữa các thành viên trong HTCT;



25

Đảng vừa lãnh đạo vừa là thành viên thực hiện nghĩa vụ, chịu sự phân cơng
của Mặt trận
Chính trị - như Lê nin nói, là cơng việc liên quan đến hàng triệu con
người. Trong đó, các tổ chức, các thể chế và các thiết chế xã hội có chức năng
thực hiện hoặc tham gia vào quyền lực chính trị, thực hiện sự lãnh đạo và điều
hành đất nước. Tất cả các yếu tố, bộ phận trên tạo nên HTCT của một xã hội
cụ thể. Chính vì thế HTCT được coi là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng
xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết chế hợp pháp, có quan hệ với nhau về
mục đích, chức năng thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị.
Khi nghiên cứu về HTCT, không thể không đề cập tới mối liên hệ có
tính chức năng giữa các tổ chức và thiết chế đó, và ngược lại khi nghiên cứu
mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên HTCT của xã hội, chúng ta không
thể nghiên cứu tách rời vị trí, vai trị của yếu tố đó trong một hệ thống thống
nhất. Trong thực tế, do tính đa dạng của HTCT có thể tồn tại 2 loại hình
HTCT: loại hình HTCT lấy nhà nước làm trung tâm và loại hình HTCT có
đỉnh quyền lực (thường tồn tại ở một quốc gia có đảng cầm quyền, một tổ
chức tơn giáo hoặc một tổ chức quân sự giữ vai trò quyết định đường lối
chính trị của đất nước đó).
HTCT Việt Nam được được xác định bao gồm ĐCS Việt Nam, Nhà
nước CHXHCN Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội (MTTQ Việt Nam
và các thành viên của Mặt trận), trong đó, Nhà nước được xác định là trụ cột;
Đảng là lực lượng lãnh đạo.
ĐCS Việt Nam là một bộ phận của HTCT. Cả về lý luận và thực tiễn
lịch sử đã khẳng định ĐCS Việt Nam là đội tiên phong chính trị của tồn xã
hội, là hạt nhân lãnh đạo của HTCT Việt Nam. Đảng lãnh đạo HTCT trên cơ
sở liên minh giữa các giai cấp công nhân, nơng dân và trí thức.



×