Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Công tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc Long An trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.44 KB, 55 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................6
Chương 1.......................................................................................................................6
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TÔN GIÁO........................................................6
1.1. Quan điểm của chủ nghóa Mác – Lênin và Đảng ta về tôn giáo....................6
1.1.1. Quan điểm của chủ nghóa Mác – Lênin về tôn giáo.............................6
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn
giáo.................................................................................................................7
1.2. Đặc điểm, tình hình tôn giáo và tác động của các tôn giáo trong đời sống xã
hội ở nước ta........................................................................................................11
1.2.1. Vài nét chung về đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam................................11
1.2.2. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay............................................12
1.2.3.Tác động của các tôn giáo trong đời sống xã hội ở nước ta................16
Những tác động tích cực ..............................................................................16
1.3. Vai trò của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đối với công tác tôn giáo trong giai
đoạn hiện nay.......................................................................................................21
Chương 2.....................................................................................................................24
CÔNG TÁC TÔN GIÁO CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỈNH LONG
AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .....................................................................24
2.1 Điều kiện tự nhiên – tình hình kinh tế xã hội và đặc điểm, tình hình tôn giáo
của tỉnh Long An..................................................................................................24
2.1.1. Điều kiện tự nhiên – tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Long An........24
* Tình hình kinh tế – xã hội tỉnh của Long An ...........................................25
2.1.2.Tình hình, đặc điểm tôn giáo của tỉnh Long An hiện nay .................27
Trang 1
2.2.1 Những kết quả đạt được trong công tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc
tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay..........................................................32
2.2.2. Những hạn chế trong công tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc tỉnh
Long An trong giai đoạn hiện nay.................................................................43


Chương 3.....................................................................................................................46
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TÔN GIÁO CỦA
MẶT TRẬN TỔ QUỐC TỈNH LONG AN...............................................................46
3.1. Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ
thống chính trò và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo...............................................46
3.2. Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trò ở
cơ sở.....................................................................................................................47
3.3. Kiện toàn công tác tổ chức, công tác lãnh đạo và bồi dưỡng cán bộ làm
công tác tôn giáo..................................................................................................49
3.4 Nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào có đạo.............................................51
KẾT LUẬN................................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................54
Trang 2
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Hơn mấy nghìn năm lòch sử, đời sống tinh thần của xã hội ta luôn bò chi phối
bởi nhiều học thuyết tư tưởng và tôn giáo. Điều đó cho thấy rằng tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, nó liên quan đến các lónh vực
của đời sống xã hội, tác động đến văn hóa, đạo đức, kinh tế, xã hội, an ninh và
quốc phòng.
Chính vì vậy mà sau ngày về nước, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy được tầm
quan trọng của tín ngưỡng, tôn giáo và Người đã tuyên bố khẳng đònh chính sách
về “Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo ở nước ta”. Và chính sách đó đã góp phần
quan trọng vào việc tập hợp toàn bộ các tầng lớp, giai cấp, cộng đồng xã hội tạo
nên sức mạnh dẫn đến thắng lợi vang dội của cách mạng Việt Nam. Quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn khẳng đònh vò trí và tầm quan
trọng của quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo là một nhân tố góp phần bảo đảm cho sự
phát triển của xã hội và cho sự thành công của cách mạng nước ta. Trải qua hơn 80
năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhất quán vận dụng sáng tạo và
không ngừng bổ sung đường lối phát triển chính sách tôn giáo để phù hợp với tiến

trình phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta. Hơn nữa, Việt Nam là một nước có
nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo và đang có xu hướng phát triển cho nên Nghò
quyết 24 về công tác tôn giáo của Bộ Chính trò 1990 đã khẳng đònh: “Tôn giáo là
vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân
dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”.
Nhằm cụ thể hơn Nghò quyết 24, Bộ Chính trò đã họp và ra Chỉ thò 37CT/TW ngày
2/7/1998 về “Công tác tôn giáo trong tình hình mới” tạo thêm động lực cho công
tác tôn giáo trong giai đoạn hiện nay, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghóa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Trang 3
Trong mấy thập kỷ gần đây, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo được nhiều người quan
tâm, theo dõi trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Thực tiễn làm công
tác tôn giáo sẽ rất khó khăn và lúng túng nếu không có ánh sáng của lý luận soi
đường và lý luận về tôn giáo sẽ xơ cứng nếu không bắt rễ được vào thực tiễn công
tác tôn giáo.
Vấn đề đặt ra cần phải quan tâm, giải quyết vấn đề tôn giáo và công tác tôn
giáo như thế nào cho phù hợp với tình hình mới và ở từng đòa phương cụ thể. Làm
sao để công tác tôn giáo thực sự là động lực để phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân. Tất cả những vấn đề đó đòi hỏi cần phải nghiên cứu và tìm hiểu
một cách cụ thể ở từng đòa phương. Do đó, từ những lý luận chung và trên cơ sở
thực tiễn cụ thể ở tỉnh Long An, chúng ta tổng kết được những thành tựu và hạn
chế, từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm huy động toàn xã hội tham giai vào
công tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Long An. Đây là một nhiệm
vụ quan trọng góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân nhằm thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Từ những nhận thức trên, tác giả đã chọn vấn đề “Công tác tôn giáo của Mặt
trận Tổ quốc tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài tiểu luận cho mình.
II. Tổng quan nghiên cứu
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, gắn liền với sự hình thành và phát triển của
nhân loại. Trước đây vấn đề công tác tôn giáo chưa được quan tâm và nghiên cứu

một cách cụ thể. Từ khi Bộ chính trò ra nghò quyết về công tác tôn giáo thì vấn đề
tôn giáo mới thực sự được quan tâm nghiên cứu một cách sâu sắc và rộng rãi hơn.
Gần đây đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo như là:
- Đề tài cấp Nhà nước “Điều tra cơ bản về tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của
Viện nghiên cứu tôn giáo
Trang 4
- “nh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam
hiện nay”. Công trình nghiên cứu của tập thể : PGS. Nguyễn Tài Thư, PGS – TS.
Nguyễn Văn Huyên.
- Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam – Đặng Nghiêm Vạn -
Nxb Chính trò quốc gia, 2003.
- Tôn giáo và mấy vấn đề về tôn giáo Nam Bộ – Nxb Khoa học xã hội, 2001.
- Về tôn giáo và tôn giáo ở Việt Nam – Nxb Chính trò quốc gia, 2004.
- Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển ở Việt Nam – Nguyễn
Dương Hồng – Nxb Khoa học xã hội, 2004.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo – Lê Hữu Nghóa –
Nguyễn Đức Lữ – Nxb Tôn giáo, 2003.
Ngoài ra còn có nhiều bài báo, bài viết và các công trình nghiên cứu khác bàn
về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Trên cơ sở kế thừa những công trình
nghiên cứu, tác giả đã đi sâu nghiên cứu việc triển khai Nghò quyết của Đảng ở
tỉnh Long An để từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp và kiến nghò nhằm
đẩy mạnh hơn nữa công tác tôn giáo ở cơ sở.
III. Những đóng góp mới của tiểu luận
Khái quát tình hình, thực trạng công tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc tỉnh
Long An trong việc triển khai Nghò quyết của Đảng.
Đề xuất một số giải pháp góp phần đẩy mạnh công tác tôn giáo nhằm phát huy
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng đất nước văn
minh, giàu đẹp.
IV. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3 phần chính:

Phần mở đầu, phần nội dung và kết luận.
Trong phần nội dung gồm: 3 chương, 7 mục và 13 tiểu mục.
Trang 5
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TÔN GIÁO
1.1.
1.1.
Quan điểm của chủ nghóa Mác – Lênin và Đảng ta về tôn giáo
Quan điểm của chủ nghóa Mác – Lênin và Đảng ta về tôn giáo
1.1.1. Quan điểm của chủ nghóa Mác – Lênin về tôn giáo
Tôn giáo theo học thuyết Mác là thuật ngữ có nhiều sự biến đổi, nó được sản
sinh trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Mác xem xét vấn đề tôn giáo
như một hình thái ý thức xã hội, trên quan điểm lòch sử cụ thể và có liên hệ với
các giai đoạn phát triển của xã hội loài người. Các Mác không bao giờ coi tôn giáo
như một hiện tượng xã hội độc lập tách khỏi lòch sử loài người mà ngược lại, sự
hình thành, tồn tại và mất đi của tôn giáo đều bắt nguồn từ nguyên nhân trần thế.
Suy cho cùng, sự biến động của tôn giáo với mọi hình thức của nó được quy đònh
bởi sự tồn tại xã hội. Như vậy, theo Mác, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội,
một mặt nó phản ánh tồn tại xã hội, mặt khác, nó lại có xu hướng phản kháng lại
xã hội đã sản sinh ra nó. Vì tôn giáo là một thuật ngữ có nhiều sự biến đổi cho nên
khó có thể đưa ra một đònh nghóa chung về tôn giáo nhưng về cơ bản tôn giáo là
niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên và được chấp nhận một cách trực giác và tác
động qua lại một cách siêu thực nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như
thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng tuỳ thuộc vào những thời
kỳ lòch sử và hoàn cảnh đòa lý khác nhau. Cho nên, xét về mặt chất thì theo Mác,
tôn giáo là sản phẩm của lòch sử, tôn giáo là sự tự ý thức và là sự tự cảm giác của
con người. Tôn giáo là tình cảm tự thân của con người khi họ chưa làm chủ được
bản thân, Mác khẳng đònh: Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng

tạo ra con người. Tôn giáo là một thực thể khách quan của loài người. Chính vì vậy
Trang 6
mà vấn đề tôn giáo được đặt ra với chủ nghóa Mác như một yếu tố của triết học xã
hội và của chủ nghóa xã hội khoa học.
Về nọâi dung của tôn giáo, đó là niềm tin tác động mạnh mẽ lên các cá nhân,
lên cả cộng đồng, tôn giáo thường đưa ra các giá trò có tính tuyệt đối làm mục đích
cho con người. Cho nên, nói đến tôn giáo là nói đến mối quan hệ giữa hai thế giới
thực và hư, tức là giữa con người với cái siêu nhiên, cái trần tục với cái thiêng
liêng, cái trần gian với cái siêu trần gian.
Như vậy theo quan điểm của chủ nghóa Mác – Lênin, tôn giáo là một loại hình
thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan, và
qua hình thức phản ánh của tôn giáo những hiện tượng tự nhiên trở thành siêu
nhiên. Điều này đã được Mác – Angghen khẳng đònh: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng
qua là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người, của những lực lượng ở
bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh qua đó những
lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu nhiên ở trần thế” [3,
437]. Qua đó, ta thấy chủ nghóa Mác – Lênin đã xem xét vấn đề tôn giáo như là
một hiện tượng xã hội đa chiều.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn
giáo
Theo Hồ Chí Minh, toàn bộ công tác tôn giáo phải hướng đến mục tiêu cơ bản
và cấp thiết là độc lập, tự do cho dân tộc.
Để công tác tôn giáo tôn giáo phục vụ tốt hơn mục tiêu độc lập, tự do, hạnh
phúc cho đồng bào giải quyết hàng loạt các vấn đề trọng yếu mà trước hết, phải
nhận thức về tôn giáo một cách đúng đắn. Nghiên cứu chủ nghóa Mác – Lênin,
nghiên cứu lòch sử dân tộc Việt Nam và lòch sử văn hoá nhân loại, Hồ Chí Minh
cho rằng, tôn giáo là hiện tượng có tính lòch sử, xã hội và văn hóa, tham gia vào
quá trình sáng tạo văn hoá nhân loại.
Trang 7
Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ngoài việc góp phần

thỏa mãn nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân loại, trong xã hội có áp bức giai
cấp thì tôn giáo còn bò các giai cấp thống trò lợi dụng. Tôn giáo trở thành một công
cụ để bảo vệ lợi ích giai cấp. Vì vậy, vấn đề bức thiết đặt ra là làm sao để đoàn kết
lương – giáo, đoàn kết dân tộc, tăng cường sức mạnh dân tộc, hướng sức mạnh đó
vào mục tiêu chủ yếu của cách mạng, đấu tranh thắng lợi với âm mưu chia rẽ của
kẻ thù.
Vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của nhân dân ta được Đảng và
Nhà nước rất quan tâm và đã trở thành chính sách nhất quán xuyên suốt trong mọi
thời kì do Đảng lãnh đạo. Và trong mọi thời kì Đảng ta điều khẳng đònh: “Đảng lấy
chủ nghóa Mác - Lênin và Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động” chính vì vậy mà tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở của Đảng ta trong việc
đề ra các chính sách về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Theo Hồ Chí Minh thì tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền rất tiêu biểu
của mọi người dân. Do đó, theo Người phải bảo đảm mọi điều kiện cho quyền đó
được thực thi trong thực tế Hồ Chí Minh đã xem xét vấn đề tôn giáo với tinh thần
biện chứng mác xít một cách sáng tạo. Người nhấn mạnh: “ Tôn giáo là duy tâm,
cộng sản là duy vật nhưng trong điều kiện hiện tại, người theo đạo vẫn vào Đảng
được” [15,115].
Người khẳng đònh tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận dân cư vì thế người nói: người dân đi theo cách mạng nhưng vẫn đồng thời
theo các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau được xem là bình thường. Cho nên Người
rất đúng khi nhận thấy sự hòa hợp giữa đạo và đời. Không những thế chính sách tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của Người đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc cách
mạng tháng Tám năm 1945. Bên cạnh đó Người còn chú trọng đến việc khẳng đònh
tính pháp lý của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Người thấy được rằng bọn thực
dân phong kiến đang thực hiện chính sách chia rẽ tôn giáo cho nên Người đã cho
Trang 8
rằng dưới chế độ thực dân phong kiến đồng bào các tôn giáo đều bò áp bức, bóc lột
nặng nề. Khi tổ quốc bò ngoại bang đô hộ thì các tôn giáo cũng không được tự do,
cho nên Người nói rằng đồng bào các tôn giáo cần đoàn kết lại và đoàn kết toàn

dân đấu tranh chống lại kẻ thù để giành lại độc lập cho Tổ quốc và tự do cho tôn
giáo. Ở đây, theo Người không chỉ có đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau mà còn đoàn kết toàn dân, thấy được sức mạnh của sự đoàn kết này góp
phần đem đến thắng lợi cho cách mạng, không chỉ thế Hồ Chí Minh còn chỉ rõ:
Công giáo hay không Công giáo, Phật giáo hay không Phật giáo đều phải nên nỗ
lực đấu tranh cho nền độc lập của nước nhà.
Bên cạnh đó, Người đã quan tâm đến việc giải quyết những vấn đề liên quan
đến tín ngưỡng, tôn giáo và Người cho rằng cần phải bảo vệ và tôn trọng tất cả
những nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo và các ngày lễ lớn của tôn giáo.
Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán tư tưởng của Người trong việc tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo. Người
cho rằng cần phải tôn trọng đức tính của mỗi người cho nên Người đã nhấn mạnh
rằng: “Tín đồ phật giáo tin ở Phật, tín đồ Gia - tô tin ở Đức chúa trời, cũng như
chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là những vò chí tôn nên chúng ta tin tưởng” [14, 148].
Sau ngày đọc “Tuyên ngôn độc lập” tại phiên họp đầu tiên cuả Hội đồng Chính
phủ, Người đã tuyên bố: “Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”. Và ngay trong
Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã ghi nhận: “Nhân dân có quyền tự do tín
ngưỡng” và các Chính cương sau này cũng đã ghi nhận “Tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người dân”. Tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong tư
tưởng của Người đó là quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng, quyền được theo
hoặc không theo một tôn giáo nào không ai có quyền xâm phạm cả. Đồng thời kiên
quyết đấu tranh trừng trò những kẻ lợi dụng tôn giáo để phá hoại sự nghiệp cách
mạng của nhân dân, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đoàn kết. Ngoài ra Người
rất chú trọng đến tín ngưỡng truyền thống, đó là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Người
Trang 9
cho rằng tín ngưỡng này phù hợp với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn
quả nhớ kẻ trồng cây”. Như vậy, Người đã khẳng đònh được tính pháp lý của quyền
tự do tín ngưỡng tôn giáo. Đó là một trong những việc làm phù hợp với đặc điểm
của tình hình tín ngưỡng, tôn giáo của nước ta trong thời kì đó.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã không đưa ra một đònh nghóa nào về tín ngưỡng, tôn

giáo nhưng Người đã đi sâu giải quyết những vấn đề thuộc quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân ta và ngay từ đầu Người đã nhìn thấy được con đường phát
triển của tôn giáo và Người cũng vạch ra được những nội dung cốt lõi trong công
tác tôn giáo đó là: Thứ nhất, phải quan tâm chăm lo đến phần đời và phần đạo của
quần chúng tín đồ các tôn giáo. Thứ hai, tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo
nhưng kiên quyết xử lí những phần tử lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, vi phạm pháp
luật. Thứ ba, quan tâm đối với tín đồ tôn giáo và chân thành đối với chức sắc tôn
giáo động viên họ tham gia vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Thứ tư,
cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng có tín ngưỡng. Và
theo Người muốn thực hiện tốt công tác tôn giáo phải nghiên cứu sâu sắc tình hình
thực tế và phải biết đoàn kết, thu hút mọi người dù có đạo hay không có đạo để
phấn đấu cho mục tiêu chung của dân tộc. Quán triệt tư tưởng đó của Hồ Chí Minh,
Đảng và Nhà Nước ta tiếp tục cũng cố, vận dụng sáng tạo nó và trong công cuộc
đổi mới đất nước. Điều đó đã được thể hiện trong Văn Kiện Đại Hội đại biểu toàn
quốc của Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI và VIII. Đó là: “Công dân Việt
Nam có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng,
tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được tự do xâm phạm tự do tín ngưỡng,
tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách
hiện hành của nhà nước”. Như vậy, qua đó ta thấy được rằng quan điểm về tôn
giáo và công tác tôn giáo của Đảng và Nhà Nước ta là dựa trên nền tảng của chủ
nghóa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng sáng tạo vào trong tình
Trang 10
hình mới. Từ đó có thể nói tôn giáo là hệ thống các quan niệm tín ngưỡng sùng bái
một hay nhiều vò thần linh nào đó. Và nó là một hình thái ý thức xã hội, nó mang
đậm tính lòch sử và tính quần chúng rộng rãi. Cho nên khi nghiên cứu tôn giáo cần
phân biệt được tôn giáo với các hình thức mê tín dò đoan. Ngoài ra, tôn giáo còn là
vấn đề tồn tại lâu dài, tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng chủ
nghóa xã hội. Ngày nay, các giáo hội và các tổ chức tôn giáo có đường hướng hành

đạo gắn liền với dân tộc, phù hợp với pháp luật Nhà Nước; có tổ chức bộ máy phù
hợp. Cho nên, công tác tôn giáo hiện nay có ý nghóa quan trọng sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.
1.2.
Đặc điểm, t
Đặc điểm, t
ình hình tôn giáo và tác động của các tôn giáo trong
ình hình tôn giáo và tác động của các tôn giáo trong


đời sống xã hội ở nước ta
đời sống xã hội ở nước ta
1.2.1. Vài nét chung về đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là nước có vò trí đặc biệt của khu vực Châu Á, là nơi giao lưu giữa
văn hóa Đông và Tây. Từ rất sớm, cùng với tôn giáo nguyên thủy nội sinh, đồng
thời có sự du nhập của nhiều tôn giáo nên Việt Nam là nước đa tôn giáo. Tuy
nhiên, phần lớn dân cư nước ta chòu ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo. Hầu hết
các tôn giáo được du nhập vào nước ta đều mang dấu ấn Việt Nam. Do sự khoan
dung, lòng độ lượng, tính nhân ái của dân tộc, do yêu cầu đoàn kết toàn dân bảo vệ
độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ mà người Việt Nam chấp nhận một sự hòa nhập,
đan quyện các yếu tố tôn giáo khác nhau vào mình, miễn là nó không vi phạm đến
lợi ích quốc gia và đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc. Các tôn giáo chung
sống bên nhau trong cộng đồng dân tộc, trên cùng đất nước. Trong lòch sử Việt
Nam không có chiến tranh tôn giáo như một số nước khác. Chính vì vậy mà tín
ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam mang tính dung hợp đan xen, hòa đồng lẫn nhau.
Ở Việt Nam hệ thống tín ngưỡng tôn giáo còn có đặc điểm đó là tính trội của
yếu tố nữ. Từ Bắc đến Nam ở đâu cũng có nơi thờ tượng nữ thần: Phật bà, Thánh
Trang 11
mẫu. Dù cho bản thân Phật giáo, Thiên chúa giáo, nhất là Hồi giáo và Nho giáo coi

thường phụ nữ, song đến Việt Nam các tôn giáo ấy đã phải thay đổi ít nhiều cho
phù hợp với vai trò, vò trí của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam. Đã từ lâu trong
đời sống của nhân dân ta vai trò của người phụ nữ không bò hạ thấp, khinh miệt như
nhiều nước khác, ngược lại còn được coi trọng, đề cao trong xã hội. Nhiều nơi như
đình, chùa, miếu, điện, thánh thất, nhà thờ là chốn hương hoa, oản quả thờ phụng
những bậc thánh thần, tiên phật thuộc giới nữ. Vì lẽ đó người ta nói ở nước ta có
đạo thờ Mẫu.
Đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam đó là thờ cúng tổ tiên,
những người có công với gia đình, làng, nước… Đây là một nét đặc sắc của tín
ngưỡng, tôn giáo truyền thống của nước ta.
Chính vì tôn giáo là vấn đề tâm linh huyền bí nên các thế lực phản động trong
và ngoài nước thường lợi dụng tôn giáo vì mục đích chính trò của chúng. Những
năm gần đây, các thế lực thù đòch đặc biệt coi trọng vấn đề lợi dụng tôn giáo, coi
đây là biện pháp đột phá, chỉa mũi xung kích trong việc thực hiện chiến lược “diễn
biến hoà bình” nhằm xoá bỏ chủ nghóa xã hội ở Việt Nam. Chúng tăng cường phát
triển đạo Tin Lành ở các vùng dân tộc miền núi. Đối với vùng Tây Bắc, chúng tăng
cường phát triể đạo Tin Lành trong đồng bào Mông, Dao… âm mưu thành lập
“Vương quốc người Mông”. Đối với vùng Tây Nguyên, chúng tuyên truyền, phát
triển đạo Tin Lành và chủ trương tách “Tin Lành người Thượng” ra khỏi “Tin Lành
người Kinh”, lập ra “Tin Lành Đềga” làm ngọn cờ tư tưởng tập hợp lực lượng, âm
mưu thành lập nhà nước “Đềga độc lập”.
1.2.2. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời và là một quốc gia đa dân tộc, đa
tôn giáo. Cũng như nhiều nước trên thế giới, mỗi dân tộc trong cộng đồng 54 dân
tộc Việt Nam có những tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau gắn với đời sống kinh tế,
văn hóa và xã hội.
Trang 12
Nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, ngay từ Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946) đến Hiến pháp của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghóa Việt Nam ngày nay (1992) đều luôn khẳng đònh

quyền “tự do tín ngưỡng, tôn giáo ” là một trong các quyền cơ bản của con người.
Ở Việt Nam không có sự phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo; các tín đồ theo tôn giáo
khác nhau cùng chung sống hài hòa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Văn kiệân Đại hội Đại biểu toàn quốc lần X của Đảng cộng sản Việt Nam nêu
rõ: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đòan kết toàn dân
tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo pháp luật”; đồng thời khẳng đònh chủ trương ngăn chặn các hoạt động mê tín
dò đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung
của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân; nhằm đáp ứng nhu cầu
đời sống tâm linh, tôn giáo của người dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng phát triển, dân chủ, công bằng và
văn minh.
Bên cạnh đó, trong thời kỳ hiện nay, nền kinh tế thò trường phát triển cũng đã
tác động mạnh mẽ vào tôn giáo, làm xuất hiện những hiện tượng tôn giáo mới. Vì
vậy, trong những năm gần đây tình hình tôn giáo có những chuyển biến phức tạp
và nhìn chung tình hình tôn giáo nước ta có chiều hướng phát triển.
Những thập niên gần đây Việt Nam có sự gia tăng tín đồ tôn giáo một cách
đáng kể, đặc biệt là tín đồ đạo Tin Lành ở các khu vực miền núi và vùng dân tộc ít
người.
Theo ước tính hiện nay, ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo, trong có có khoảng 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo lớn.
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có 3 tôn giáo mới
được công nhận (Tứ Ân Hiếu Nghóa, Tònh Độ Cư Sỹ Phật Hội, Baha’i) và một số
Trang 13
nhóm tôn giáo đòa phương hoặc mới thành lập có liên quan đến Phật giáo hoặc mới
du nhập ở bên ngoài vào như:
- Bửu Sơn Kỳ Hương
- Tổ tiên chính thống giáo.
- Ngũ chi Minh đạo.

- Bà – la – môn.
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tôn giáo như trên, người ta thường ví
Việt Nam như bảo tàng tôn giáo thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng các
loại hình tín ngưỡng, tôn giáo sẽ góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong
phú và đặc sắc. Tuy nhiên, đó là những khó khăn đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta
trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung và đối với
từng tôn giáo cụ thể.
* Ở Việt Nam, tôn giáo không chỉ có trong người Kinh mà còn có cả trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cụ thể:
- Dân tộc Khơ-me theo Phật giáo Nam tông.
- Hồi giáo có mối quan hệ đặc biệt với dân tộc Chăm.
- Đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên và Tây Bắc theo đạo Công giáo,
đặc biệt là đạo Tin Lành.
Khoảng 20 năm trở lại đây, có trên 100 nghìn đồng bào người Mông, Dao theo
đạo Tin Lành, sự phát triển nhanh chống như vậy đang là vấn đề rất lớn liên quan
đến vần đề tư tưởng, vần đề tôn giáo và an ninh chính trò ở khu vực Tây Bắc.
* Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là người nông
dân.
Theo ước tính của Ban Tôn giáo Chính phủ, tín đồ là nông dân của đạo Phật,
Công giáo chiếm 80% - 85%; của Cao Đài, Hòa Hảo là 95%; của Tin Lành là
65%...
Trang 14
* Lực lượng chức sắc, nhà tu hành – những người hoạt động tôn giáo chuyên
nghiệp khá đông đảo. Các chức sắc, nhà tu hành là lực lượng quan trọng trong mối
quan hệ giữa Giáo hội với Nhà nước và là đầu mối quan trọng trong quản lý Nhà
nước và hoạt động tôn giáo.
* Tôn giáo ở Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi:
Trong 6 tôn giáo ở Việt Nam thì có 4 tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào là:
Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành và Hồi giáo. Điều đó cũng có nghóa là tôn
giáo Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi.

Vấn đề quan hệ quốc tế với các tôn giáo phải được xem xét, giải quyết thỏa
đáng trong điều kiện chính sách đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nước ta trong
xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa các vấn đề kinh tế, chính trò – xã hội. Do
vậy, vấn đề quan hệ quốc tế của các tôn giáo đang là vấn đề rất lớn và rất quan
trọng trong chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
* Các tôn giáo ở nước ta luôn là đối tượng trong chính sách lợi dụng của các thế
lực thù đòch.
Ngày nay, Mỹ và các thế lực thù đòch ở trong và ngoài nước đang thực hiện
chiến lược “diễn biễn hòa bình” để chống phá cách mạng nước ta. Chúng đặc biệt
quan tâm lợi dụng vấn đề tôn giáo. Vấn đề tôn giáo được chúng gắn với vấn đề
nhân quyền, qua các thủ đoạn chính như sau:
Một là, khai thác những sai sót trong việc thực hiện chính sách tôn giáo ở cơ sở
để xuyên tạc tình hình tôn giáo, vu khống ta đã hạn chế, gò bó tôn giáo, vi phạm
nhân quyền.
Hai là, thao túng và lợi dụng các diễn đàn quốc tế, các tổ chức quốc tế để
thông tin sai lệch về tình hình tôn giáo, bôi nhọ các chính sách tôn giáo của Đảng
và Nhà nước nhằm cô lập ta trên trường quốc tế.
Ba là, lôi kéo, mua chuộc, nuôi dưỡng các phần tử cực đoan, ly khai trong các
tôn giáo ở trong nước và nước ngoài.
Trang 15
Bốn là, khai thác lợi thế của một nước có tiềm lực về kinh tế, quân sự, trong
điều kiện thế giới một cực và xu hướng toàn cầu hóa.
Năm là, tìm cách chính trò hóa các vấn đề tôn giáo, nhất là vấn đề tôn giáo
trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc.
Sự lợi dụng tôn giáo của Mỹ và các thế lực thù đòch như nói trên, đặt ra cho
công tác tôn giáo vừa phải đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng
tín đồ vừa phải cảnh giác, đấu tranh làm thất bại âm mưu và những hoạt động lợi
dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam của Mỹ và các thế lực thù đòch.
Thông qua việc trình bày một số đặc điểm cũng như tình hình tôn giáo Việt
Nam hiện nay có thể thấy phần nào bức tranh toàn cảnh về tôn giáo ở Việt Nam.

Đó cũng chính là cơ sở thực tiễn để Đảng và Nhà nước hoạch đònh chủ trương,
chính sách đối với tôn giáo ở tầm vó mô.
1.2.3.Tác động của các tôn giáo trong đời sống xã hội ở nước ta
Những tác động tích cực
* Về chính trò
Việc thực hiện các giáo lý tôn giáo góp phần ổn đònh trật tự an ninh xã hội và
hạn chế tệ nạn xã hội.
Không ai phủ nhận được vai trò của tôn giáo trong việc dệt nên những sợi dây
vô hình gắn kết cộng đồng, những cái phanh hãm về mặt tâm linh với một bộ phận
không nhỏ quần chúng. Pavlov – một nhà khoa học Nga từng phát biểu đại ý: Tôi
là một nhà khoa học, một con người duy lý, không liên quan gì đến tôn giáo nhưng
tôi luôn kính trọng tôn giáo bởi vì rất nhiều người thân của tôi họ không thể sống
thiếu tôn giáo… Tôn giáo trong chừng mực nào đó là một thứ kỷ cương của tâm
linh. Do đó, khi thực hiện tốt các giáo lý cũng như thực hiện tốt sinh hoạt lễ nghi,
phụng sự và hội nhập văn hóa của Công giáo; nhập thế, hiện đại hóa và đạo pháp
- dân tộc – chủ nghóa xã hội của Phật giáo; nước vinh, đạo sáng của đạo Cao Đài;
Trang 16
phụng đạo, yêu nước, gắn bó với dân tộc của Phật giáo Hòa Hảo; và đối với đạo
Tin Lành thì mục tiêu sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và
dân tộc… sẽ là chất xúc tác giúp các tín đồ có những việc làm, hành động đúng đắn,
góp phần giảm thiểu những tệ nạn xã hội như: trộm cắp, ma túy, cờ bạc,… ổn đònh
an ninh, trật tự xã hội.
* Về kinh tế
Với quan niệm “tốt đời, đẹp đạo” các tổ chức tôn giáo đã kêu gọi, giúp đỡ
những người theo đạo xây dựng đời sống kinh tế, nâng cao thu nhập, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế. Trong những năm qua đã xuất hiện hàng ngàn hộ đồng bào
các tôn giáo đạt nhiều thành tích xuất sắc trong phong trào xóa đói, giảm nghèo,
thi đua làm kinh tế giỏi, thực hiện tốt chính sách phát triển văn hóa – xã hội, xây
dựng đòa phương, cơ sở vững mạnh. Nhiều làng nghề truyền thống ở vùng đồng bào
theo đạo đã được khôi phục với đội ngũ lao động có tay nghề cao, thu hút và giải

quyết việc làm cho hàng ngàn lao động. Nhiều nơi đã hỗ trợ vốn sản xuất cho
người nghèo với nhiều hình thức khác nhau góp phần tích cực giúp đỡ các gia đình
khó khăn vươn lên thoát nghèo. Thông qua các phong trào thi đua đã xuất hiện
những tấm gương mẫu mực trong sản xuất, tận tụy trong công tác xã hội, đóng góp
sức người, sức của với khả năng lớn nhất của mình cho sự nghiệp phát triển chung
của quê hương, đất nước.
Các tổ chức tôn giáo thường xuyên tham gia các hoạt động cứu trợ, giúp đỡ
các mãnh đời bất hạnh…Tín đồ các tôn giáo luôn sẵn sàng tích cực tham gia các
hoạt động xã hội từ thiện, cứu trợ đồng bào vùng bò thiên tai… Nhiều chức sắc, nhà
tu hành đã có thành tích xuất sắc trong các phong trào: Mở sổ vàng tình nghóa, xây
dựng nhà Tình nghóa, nhà Tình thương… đóng góp nhiều tiền của, công sức, giúp đỡ
trẻ em nghèo, chăm sóc trẻ mồ côi và người già không nơi nương tựa. Tại nhiều cơ
sở chăm sóc, điều trò bệnh nhân, trong đó các các cơ sở của các tôn giáo như: Các
trại phong, các khoa truyền nhiễm, da liễu… đã có nhiều vò chức sắc, nhà tu hành
Trang 17
không ngại vất vả, hiểm nguy tình nguyện vào để giúp đỡ bệnh nhân, nhất là các
bệnh nhân nghèo khó.
* Về văn hóa – tư tưởng
Do tôn giáo có sự đồng hành lâu dài cùng với con người trong lòch sử, nên có
thể xem tôn giáo như một phần tài sản văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát
triển, lan truyền trên bình diện thế giới, tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải
niềm tin của con người mà còn có vai trò chuyển tải, hòa nhập văn hóa và văn
minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế. Tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ
đến đời sống tinh thần của con người. Với tư cách là một bộ phận của ý thức hệ,
tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập
quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần.
Hoạt động của các tổ chức tôn giáo tạo nên những nét đẹp trong đời sống văn
hóa. Chính thông qua các phong trào “Đền ơn đáp nghóa”, hoạt động từ thiện nhân
đạo truyền thống đoàn kết, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau với tinh thần “lá lành

đùm lá rách” của dân tộc lại được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ.
Phong trào “Xây dựng đời sống văn hóa” ở khu dân cư được quần chúng tín
đồ các tôn giáo tích cực hưởng ứng và đạt nhiều danh hiệu “Cơ sở tôn giáo văn
hóa” và “Gia đình văn hóa”. Nhiều tổ chức giáo hội có chương trình, kế hoạch cụ
thể để hưởng ứng và tham gia như phong trào xây dựng “Chùa cảnh tinh tiến” hay
“Chùa cảnh văn hóa” trong Phật giáo. Đồng bào Công giáo ở nhiều đòa phương đã
có những sáng kiến hay và đề ra những nội dung, tiêu chuẩn cụ thể gắn với đặc
điểm sinh hoạt tôn giáo, đồng thời vận động từng gia đình giáo dân phấn đấu thực
hiện để đạt các danh hiệu “Xứ họ đạo tiên tiến”, “Gia đình Công giáo gương mẫu”
Điều chỉnh, hoàn thiện tính cách con người, hướng con người tới những điều
tốt thông qua những điều răn dạy trong giáo lý của các tôn giáo.Tôn giáo nào cũng
dạy con người làm điều lành, tránh làm điều dữ; gạt điều dở, giữ điều hay, hướng
Trang 18
con người vươn tới chân, thiện, mỹ. Nếu Khổng giáo dạy con người về nhân, nghóa
thì Đạo giáo giáo dục con người biết quý trọng và sống hài hòa với tự nhiên, nếu
Công giáo dạy con người bác ái thì đạo Phật dạy người ta về từ bi, hỷ xả, vô ngã vò
tha, gạt bỏ tham, sân, si.
Ví dụ: Vào những ngày rằm, mồng một âm lòch, những ngày lễ tết hay những
ngày đại lễ Phật Đản, Vu Lan đông đảo khách thập phương với đủ mọi thành phần
đã quy tụ về chùa. Thông qua các đại lễ, họ cảm thấy gắn bó với nhauhơn, tình yêu
quê hương, đất nước được khơi dậy, nhớ ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã có công nuôi
lớn, dưỡng dục mình.
Phản ánh một khát vọng vươn tới một xã hội tốt đẹp. Tôn giáo đã làm tốt
nhiệm vụ của mình đó chính là nơi mà con người có thể tìm đến để được xoa dòu
những nỗi đau tinh thần, những mất mát trong cuộc sống… điều đó đã được các tôn
giáo thể hiện như: Đạo Thiên chúa với từng bàn tay nhân ái của tu só đã và đang
xoa dòu những nỗi đau bệnh tật cũng như nhọc nhằn trên nhân thế. Những đoàn cứu
trợ, những trại mồ côi, những mái ấm cưu mang những kiếp số lỗi lầm. Còn đạo
Phật với tư tưởng từ bi, cứu khổ, những ngôi Chùa đã dang rộng vòng tay đón các
bác xe ôm, xích lô, các bà bán hàng rong, các cháu bán báo, vé số, đánh giày…vào

nghó trưa ở ghế đá, dưới bóng mát của các tán cây và họ thường được mời ăn những
bữa cơm chay đạm bạc cùng các tăng ni trong chùa. Nhiều người coi Chùa là ngôi
nhà thứ hai của mình, những ngôi Chùa ấy trở thành nơi nghỉ ngơi, nơi chia sẻ bớt
những khó khăn của họ lúc thiếu thốn, ốm đau, căng thẳng của cuộc sống đời
thường.
Ở khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là ở các thành phố, các trung tâm tôn
giáo lơn như: Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Đònh, Ninh
Bình, Tây Ninh, Cần Thơ… các sinh hoạt tôn giáo đã trở thành sinh hoạt văn hóa
cộng đồng được đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia với tinh thần phấn khởi, yên
tâm và tin tưởng. Các lễ hội như lễ Phật Đản của Phật giáo, lễ Noel của Công giáo
Trang 19
và đạo Tin Lành, lễ kỷ niệm ngày khai đạo của đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo,
tháng ăn chay Ramadan của Hồi giáo được tổ chức trọng thể, trang nghiêm và đảm
bảo an ninh, trật tự…
Những tác động tiêu cực
Bên cạnh những yếu tố tích cực thì song song đó vẫn có những “hạt sạn” mà
nếu Đảng và Nhà nước không có chính sách tôn giáo đúng đắn sẽ tác động xấu
không nhỏ đến đời sống, an ninh, trật tự xã hội.
* Về chính trò
Tạo quan hệ rạn nứt trong khối đại đoàn kết toàn dân, gây mất ổn đònh xã hội
và kẻ thù lợi dụng để tấn công vào chính sách, hệ thống chính trò của Đảng và Nhà
nước.
Nếu không có chính sách tôn giáo đúng đắn sẽ làm rạn nứt mối quan hệ giữa
các quốc gia.
Nếu tiếp thu một cách thụ động các giáo lý tôn giáo sẽ ảnh hưởng đến đời
sống tôn giáo.
Nếu không hạn chế được tệ nạn xã hội, người ta tìm đến tôn giáo ngày càng
nhiều dẫn đến số lượng tín đồ tăng lên gây mất bình thường trong đời sống tôn
giáo, làm ảnh hưởng đến trật tự, ổn đònh quốc gia.
* Về kinh tế

Nếu dành quá nhiều tiền của, thời gian cho việc đi lễ, cúng bái sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi ích kinh tế của các cá nhân.
Nhiều người lợi dụng nơi thiêng liêng, đức tin của người khác để bày chuyện
quyên góp trục lợi về kinh tế.
Một số người lợi dụng viện trợ tôn giáo để gây mất ổ đònh đời sống tôn giáo,
phục vụ cho âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù đòch.
* Về văn hóa – tư tưởng
Trang 20
Hạn chế khả năng vươn lên của con người, không đánh giá đúng năng lực của
các cá nhân, làm cho con người an phận, không phấn đấu cải tạo tự nhiên, xã hội.
Các tôn giáo đều muốn san bằng mọi bất công, mâu thuẫn trong xã hội bằng đạo
đức. Ý tưởng đó dù rất đẹp nhưng khó có thể hiện thực hóa trong đời sống trần thế.
Bởi vì, về bản chất, chúng ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là thế
giới quan tiêu cực. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người, nó sẽ làm cho con
người lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà
họ tin đó là giá trò đích thực. Chức năng thế giới quan của tôn giáo là dẫn dắt các
tín đồ theo một triết lý sống không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy
tu dưỡng tâm tính làm điều cốt yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực
tại, nơi Thiên đường của Chúa hay Niết bàn của Phật.
Tôn giáo hướng con người tới khát vọng hạnh phúc nhưng là hạnh phúc hư ảo.
Tôn giáo không đề cao cuộc sống trần gian. Tôn giáo làm cho nhân dân đắùm chìm
vào đam mê, làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp cũng chính vì thế mà Các Mác đã
gọi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
1.3.
1.3.
Vai trò của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đối với công tác tôn
Vai trò của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đối với công tác tôn


giáo trong giai đoạn hiện nay

giáo trong giai đoạn hiện nay
Trong tất cả các thời kỳ của cách mạng dân tộc dân chủ, dựa trên khối liên
minh công nông vững chắc, Đảng ta đã tập hợp được tất cả mọi tầng lớp nhân dân
yêu nước và tiến bộ, đoàn kết các dân tộc trong nước, đoàn kết các tôn giáo, các
lực lượng có thể đoàn kết được, tranh thủ tất cả các lực lượng có mâu thuẫn với kẻ
thù chung của dân tộc để hình thành nên Mặt trận dân tộc thống nhất rộng lớn,
chính những chính sách của Mặt trận đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Trong cuộc xây dựng chủ nghóa xã hội và bảo vệ tổ quốc, nhất là
những năm đổi mới vừa qua thì Mặt trận đã không ngừng mở rộng, đổi mới nội
dung ngày càng phong phú và đa dạng hơn và đã đạt được nhiều thành tựu vô cùng
Trang 21
to lớn, đó cũng là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Chính vì vậy mà điều 9 của Hiến pháp Việt Nam 1992 đã đề cập về vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Theo đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trò, liên hiệp trên cơ
sở tự nguyện phối hợp thống nhất hành động là đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của các tầng lớp nhân dân, là cơ sở chính trò của chính quyền nhân dân.
Qua đó cho thấy nhiệm vụ chủ yếu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cũng cố
và tăng cường phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong đó việc thực
các nghò quyết của Đảng và Nhà nước về công tác vận động đồng bào có đạo, các
tín đồ, chức sắc tôn giáo hưởng ứng tham gia phong trào thi đua yêu nước góp phần
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là nhiệm vụ rất quan trọng. Bởi hiện nay,
trong một công đồng dân cư thì bên cạnh những người không theo đạo thì luôn có
một phần dân cư tin theo một tôn giáo nhất đònh không những thế mà họ còn chiếm
một số lượng lớn trong xã hội. Vì thế, công việc vận động đồng bào có đạo xây
dựng cuộc sống “ tốt đời đẹp đạo” là phần không thể thiếu trong công cuộc đổi mới
và xây dựng đất nước. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá cao về công
tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ đó ta
thấy vai trò của Mặt trận đối với công tác tôn giáo hiện nay là rất to lớn.
Mặt trận tích cực, chủ trương triển khai và thực hiện các chủ trương, chính

sách và các chương trình phát triển kinh tế xã hội với đồng bào có đạo và chức sắc,
cơ sở tôn giáo.
Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, đưa nhanh nghò quyết của Đảng vào
đời sống của đồng bào tôn giáo, khuyến khích vận động các tín đồ tham gia vào
việc đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Đồng thời chống lại âm
mưu phá cách mạng của các thế lực phản động và thù đòch. Chú trọng thu hút
những người cao tuổi, nhân só, trí thức chuyên gia thuộc các tôn giáo khác nhau vào
tham gia công tác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như phong trào chống tội phạm ,
Trang 22
ma túy, tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự an toàn xã hội và giải quyết việc làm… cảm
hóa giáo dục những người có đạo mà vi phạm pháp luật hòa nhập cộng đồng.Thực
hiện phát động các chương trình từ thiện vào trong đồng bào có đạo và các chức
sắc tôn giáo như : ngày vì người nghèo, ủng hộ thiên tai lũ lụt, xây dựng nhà tình
thương, thăm các bà mẹ Việt Nam anh hùng, khuyến khích tăng gia sản xuất trong
các đồng bào có đạo, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghóa…Tích cực vận động
mọi tín đồ, chức sắc tôn giáo tham gia bầu cử, tuyên truyền trong nước và ngoài
nước về truyền thống đoàn kết dân tộc, tôn giáo, ngăn chặn và đấu tranh các luận
điệu xuyên tạc về tôn giáo của các thế lực thù đòch, đưa báo người Công giáo Việt
Nam đến các tổ đoàn kết, các vò chức sắêc trong xứ đạo. Đồng thời trong mọi điều
kiện Mặt trận cũng đều phải đảm bảo cho việc thực hiện sắc lệnh của Chủ tòch
nước về vấn đề tôn giáo chính như “đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ
cúng của nhân dân không ai được xâm phạm quyền tự do đó. Mọi người Việt Nam
đều có quyền tự do theo tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào” để làm tốt vai
trò của mình thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phải phối hợp chặt chẽ với Đảng
và Nhà nước, đặc biệt là đồng bào có đạo và các vò chức sắc tôn giáo. Qua đó góp
phần vào việc phát huy khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng đất
nước.
Trang 23
Chương 2
CÔNG TÁC TÔN GIÁO CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỈNH

LONG AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Điều kiện tự nhiên – t
2.1 Điều kiện tự nhiên – t
ình hình kinh tế xã hội và đặc điểm, tình hình
ình hình kinh tế xã hội và đặc điểm, tình hình


tôn giáo của tỉnh Long An
tôn giáo của tỉnh Long An
2.1.1. Điều kiện tự nhiên – tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Long An
* Điều kiện tự nhiên của tỉnh Long An
Long An là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, phía Đông giáp thành
phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh, giáp Vương Quốc Campuchia về phía Bắc,
giáp với tỉnh Đồng Tháp về phía Tây và giáp tỉnh Tiền Giang về phía Nam. Ngoài
ra Long An còn là tỉnh có vò trí đòa lý đặc biệt tuy nằm ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long nhưng lại thuộc vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam, là vùng
giãn nỡ công nghiệp và đô thò của thành phố Hồ Chí Minh nên Long An có lợi thế
rất lớn trong mời gọi đầu tư.
Long An có khoảng cách 47 km đường bộ với thành phố Hồ Chí Minh ,có
đường ranh giới quốc gia với Campuchia dài ;137,7 km với hai cửa khẩu Bình Hiệp
(Mộc Hóa) và Tho Mo (Đức Huệ). Long An là ngõ nối liền Đông Nam Bộ với
đồng bằng sông Cửu Long ; các trục giao thông liên vùng như : Quốc lộ 1A ,Quốc
lộ 50 , đường cao tốc và đường Xuyên Á đi xuyên qua Long An . Hệ thống giao
thông thủy có hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây hợp lưu qua cửa sông Soài
Rạp thông ra biển Đông với chiều dài khoảng 15 km có thể vận chuyển hàng hóa
phục vụ xuất nhập khẩu . Hiện nay , Tỉnh có chủ trương xây dựng cảng Đông Nam
Á nằm trong hệ thống cụm cảng số 5 của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với
quy mô là 15000 tấn (giai đoạn I:2010); và trên 30000 tấn (giai đoạn II:2015) rất
Trang 24
thuận tiện cho các nhà đầu tư trong việc giao thông .Ngoài ra, hiện nay còn có cảng

sông Bourbon do Pháp đầu tư với tàu có tải trọng khoảng 5000 tấn nhập cảng.
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 4491,221 km
2
chiếm tỉ lệ 1,3% so với diện tích cả
nước và bằng 8,74% diện tích của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tọa độ đòa lý :
105030’30” đến 106047’02’’ kinh độ Đông và 10023’40’’đến 1102’00’’ vó độ
Bắc.Trên đòa bàn Tỉnh có một thò xã và 13 huyện trong đó có 6 huyện nằm trong
khu vực Đồng Tháp Mười đòa hình trũng bao gồm Tân Hưng,Vónh Hưng, Mộc Hóa,
Tân Thạnh, Thạnh Hóa và Đức Huệ với diện tích đất tự nhiên là 298.243 ha chiếm
66,4% diện tích đất tự nhiên thường xuyên bò ngập lụt hằng năm. Đòa hình bò chia
cắt bởi hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây với hệ thống kênh rạch chằng chòt
nằm ở phía Bắc và Đông Bắc của Tỉnh. Các huyện còn lại là khu vực phát triển
khá ổn đònh và đa dạng .
* Tình hình kinh tế – xã hội tỉnh của Long An
Những năm gần đây, tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Long An có
những chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao đạt 9,7%
(trong đó năm 2006 đạt 11,2%). Tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm
2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 14,3% trong đó khu vực I tăng trưởng đạt 5,7%,
khu vực II tăng 25,7%, khu vực III tăng trưởng 11,2% - 11,5%; thu hút vốn đầu tư
phát triển đạt mức kế hoạch đề ra, bằng 45,5% GDP. Thu ngân sách Nhà nước ước
vượt 23,5% dự đoán Hội đồng nhân dân Tỉnh giao. Tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 5,2%,
giải quyết việc làm cho 35000 người,… Công nghiệp - xây dựng khẳng đònh vai trò
đóng góp quyết đònh vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, tăng trưởng
mạnh với tốc độ 18,5%/năm. Nông nghiệp nông thôn có nhiều chuyển biến tích
cực, tăng trưởng bình quân đạt 5,2%; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dòch theo
hướng công nghiệp hóa; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được
xây dựng khá đồng bộ, bộ mặt nông thôn được đổi mới. Môi trường đầu tư thông
Trang 25

×