Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 141 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

PHẠM THỊ NGUYỆT

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO HỌC SINH HỆ ĐÀO TẠO TRUNG CẤP AN NINH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ MINH TÂM

Hà Nội - 2012


2

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do chính tơi thực hiện, các số liệu
trong luận văn là hồn tồn trung thực. Luận văn khơng sao chép dưới bất kỳ
hình thức nào. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên!



Tác giả

Phạm Thị Nguyệt


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
Chƣơng 1: TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG, YÊU CẦU GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO HỌC SINH HỆ ĐÀO TẠO .................. 12
TRUNG CẤP AN NINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................ 12
1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh
hệ đào tạo trung cấp an ninh ở Việt Nam hiện nay. ........................................ 12
1.2. Yêu cầu, nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh hệ đào
tạo trung cấp an ninh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ........................... 40
Chƣơng 2: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO HỌC SINH
HỆ ĐÀO TẠO TRUNG CẤP AN NINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ......................................................... 63
2.1. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho học sinh trung cấp an ninh ở Việt Nam hiện nay (Qua khảo sát thực
tế ở trường Trung cấp An ninh nhân dân II) ................................................... 63
2.2. Phương hướng và một số giải pháp giáo dục đạo đức cách mạng cho
học sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh ở Việt Nam hiện nay .......................... 94
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 124
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 130


4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANQG:

An ninh Quốc gia

ATXH:

An toàn xã hội

CAND:

Cơng an nhân dân

CNH, HĐH: Cơng nghiệp hố, hiện đại hố
CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

GCCN:

Giai cấp cơng nhân

GCVS:

Giai cấp vơ sản

KTTT:


Kinh tế thị trường

TTATXH:

Trật tự an toàn xã hội

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức là một hệ thống các giá trị xã hội, là một phương thức điều
chỉnh hành vi của con người. Giáo dục đạo đức là giải pháp phát huy chức
năng nhận thức, giáo dục, điều chỉnh hành vi của đạo đức, nhằm nâng cao ý
thức đạo đức của con người, qua đó nâng cao khả năng, hiệu quả điều chỉnh
của đạo đức đối với các thành viên trong xã hội. Nhận thức đạo đức của cá
nhân là q trình chuyển hóa đạo đức xã hội thành đạo đức cá nhân. Con
người nhận thức, tiếp nhận, lĩnh hội các kinh nghiệm, các giá trị, các chuẩn
mực, biến chúng thành sức mạnh đạo đức cá nhân, từ đó định hướng, điều
chỉnh hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu xã hội.
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, cùng với Quân đội nhân dân Việt Nam, CAND Việt Nam là lực lượng
quan trọng đóng vai trị xung kích, nịng cốt, ln hoàn thành tốt nhiệm vụ
bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự xã hội, đem lại cuộc sống bình yên
cho mọi gia đình và xã hội. Chức năng cơ bản của lực lượng CAND là tham

mưu cho Đảng, Nhà nước về lĩnh vực an ninh quốc gia ANQG, trật tự an toàn
xã hội TTATXH, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực ANQG,
TTATXH, đấu tranh, phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về
ANQG, TTATXH.
Để lực lượng Công an thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình,
cùng với việc xây dựng lực lượng CAND Việt Nam trở thành chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, thì đội ngũ này cần phải quan tâm đào tạo một cách
toàn diện cả về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức để có những cán
bộ, chiến sĩ CAND vừa "hồng" vừa "chuyên", vừa có năng lực chun mơn
nghiệp vụ giỏi, vừa có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, đáp ứng yêu


6

cầu của sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật an tồn xã hội trong
thời kỳ hội nhập quốc tế. Đối với người cán bộ, chiến sĩ CAND, đạo đức cách
mạng là gốc, là nền tảng của người cách mạng, vì thế, nó có vai trị hết sức
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng lực lượng CAND. Tuy nhiên, do ảnh
hưởng của quá trình hội nhập, quá trình phát triển KTTT đã có một bộ phận
cán bộ, chiến sĩ CAND đã bị tha hoá về mặt đạo đức; mặt khác, các thế lực
thù địch đang gia tăng hoạt động "diễn biến hồ bình", làm tha hố đạo đức và
lối sống của cán bộ, đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang. Trong đó,
CAND là lực lượng mà các thế lực tập trung tấn công, nhằm "phi chính trị
hố", làm suy giảm bản chất cách mạng và sức chiến đấu của lực lượng này.
Vì vậy, cơng tác giáo dục đạo đức cách mạng càng trở lên cấp bách đối với
Đảng, Ngành Công an và các ngành hữu quan.
Học sinh, sinh viên CAND là bộ phận quan trọng, là đội ngũ trí thức
tương lai, gánh vác những trọng trách to lớn trong sự nghiệp bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự an tồn xã hội. Đội ngũ này càng cần phải được
thường xuyên chăm lo, giáo dục, rèn luyện để trở thành những người có đủ

đức, đủ tài thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, nhân dân và của Ngành
giao phó. Nhận thức được tầm quan trọng, Đảng và Ngành Công an đã
thường xuyên quan tâm đến cơng tác giáo dục phẩm chất chính trị, chăm lo,
bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ học sinh, sinh viên, coi
đây là nhiệm vụ then chốt, trọng yếu của các trường CAND. Nhưng trong
thực tiễn giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho học sinh, sinh viên các
trường CAND cho thấy chất lượng, hiệu quả của giáo dục đạo đức cách
mạng cho học sinh, sinh viên các trường CAND còn nhiều hạn chế, một bộ
phận học sinh, sinh viên cịn có những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo
đức, lối sống.


7

Là một giáo viên, cán bộ làm công tác giáo dục, đào tạo ở một trường
trung cấp an ninh nhân dân, với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức cách mạng cho học sinh nhà trường, nên tác giả đã chọn đề tài:
Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh hệ đào tạo trung cấp an
ninh ở Việt Nam hiện nay làm luận văn thạc sỹ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đạo đức và giáo dục đạo đức là vấn đề từ trước đến nay đã và đang
được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Trong những năm gần đây, có nhiều
cơng trình nghiên cứu của tác giả trong và ngồi nước được cơng bố liên quan
đến vấn đề này. Trong cơng trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, đáng
lưu ý là: "Đạo đức học" của G. Bandzeladze (NXB Giáo dục, 2 tập, Hà Nội,
1985); "Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường" của các nhà
khoa học Trung Quốc, do Viện Thông tin khoa học xã hội thuộc Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia của Việt Nam sưu tập và xuất bản
1999; "Tu dưỡng đạo đức tư tưởng" do La Quốc Kiệt chủ biên (người dịch
Nguyễn Công Qùy, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003).

Trong các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước, đáng lưu
ý là nhóm các cơng trình nghiên cứu về vấn đề đạo đức như: "Các giá trị đạo
đức truyền thống và con người Việt Nam hiện nay" (Đề tài khoa học cấp Nhà
nước mang mã số KHXH.07.02); "Xây dựng lối sống. Đạo đức và chuẩn giá
trị xã hội mới trong điều kiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phát triển kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" (Đề tài khoa học cấp Nhà
nước mang mã số KHXH.04.03); "Sự chuyển đổi thang giá trị đạo đức trong
nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở
nước ta hiện nay" (Đề tài khoa học cấp Bộ do Khoa Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện); "Đạo đức người cán bộ lãnh đạo
chính trị hiện nay - Thực trạng và giải pháp", GS. Nguyễn Thế Kiệt (chủ


8

biên), Nxb CTQG, Hà Nội, 2005; "Văn hoá đạo đức và tiến bộ xã hội". Nxb
Văn hố thơng tin (1998); "Quyền lực và đạo đức", Bùi Đình Phong, Báo Lao
động, 22/10/2010.
Nhóm các cơng trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho học sinh,
sinh viên có: "Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng,
biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên" (Đề tài khoa học cấp Bộ mang mã
số B94 - 38 - 32); "Đạo đức sinh viên trong quá trình chuyển sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Thực trạng và giải
pháp", (Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt mang mã số QG.01.18, Đại học
quốc gia Hà Nội, 2003); "Giáo dục đạo đức và sự hình thành phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Trần sỹ Phán, Luận án
Tiến sỹ Triết học, 1999; "Đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường
hiện nay ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp", Vũ Thanh Hương, Luận văn
thạc sỹ triết học, 2004; "Một số biểu hiện của sự biến đổi đạo đức trong nền
kinh tế thị trường hiện nay và giải pháp khắc phục", Nguyễn Đình Tường.

Tạp chí Triết học 10/2012.
Nhóm các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề đạo đức cách
mạng và giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh, sinh viên CAND thì có
các cơng trình tiêu biểu như: "Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán
bộ, chiến sĩ công an trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay", Giáp Văn Thông, Luận văn thạc sỹ Triết học,
2004; "Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ Hậu cần Quân đội nhân
dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Hà Nguyên Cát, Luận án Tiến sỹ
Triết học, 2000; "Giá trị đạo đức truyền thống trong việc giáo dục đạo đức
cho sinh viên Công an nhân dân Việt Nam hiện nay", Phạm Bá Lượng, Luận
án Tiến sỹ Triết học, 2009. "Cảnh báo sự xuống cấp đạo đức lối sống trong
giới trẻ", Trần Tuấn, Báo Công an nhân dân, 30/11/2010;


9

Có thể nói, vấn đề giáo dục đạo đức nói chung, giáo dục đạo đức cách
mạng nói riêng từ trước đến nay luôn là vấn đề được các nhà khoa học quan
tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, việc giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh hệ
đào tạo trung cấp an ninh ở Việt Nam trong bối cảnh mới hiện nay, cho đến
nay vẫn chưa có một cơng trình khoa học có sự nghiên cứu mang tính chun
sâu. Vì thế, việc chọn đề tài nghiên cứu "Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng
cho học sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh ở Việt Nam hiện nay" nhằm mục
đích góp phần bổ sung nhận thức cho vấn đề nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ tầm quan trọng, nội dung, yêu cầu và
thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh hệ đào tạo trung cấp an
ninh nhân dân Việt Nam hiện nay, luận văn phân tích một số vấn đề đặt ra
trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh hệ đào tạo trung cấp

an ninh, từ đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đối tượng này ở nước ta trong
điều kiện hiện nay.
3.1. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ tầm quan trọng, nội dung, yêu cầu của việc giáo dục đạo đức
cách mạng cho học sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục
đạo đức cách mạng cho học sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh ở trường Trung
cấp An ninh nhân dân II hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh hệ đào tạo trung
cấp an ninh ở Việt Nam hiện nay.


10

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học
sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh nhân dân nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học
sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh, phạm vi khảo sát thực tiễn chủ yếu được
thực hiện ở trường Trung cấp An ninh nhân dân II. Giai đoạn hiện nay được
giới hạn từ năm 1986 (khi đất nước bắt đầu thực hiện đổi mới) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước, đồng thời kế thừa có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu
của các nhà khoa học trong và ngoài nước có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến các phương pháp
như lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp
hệ thống và phương pháp điều tra xã hội học...
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng, nội dung và yêu
cầu của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh hệ đào tạo trung cấp
an ninh ở Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho
học sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh tại trường Trung cấp An ninh nhân dân
II hiện nay và những vấn đề đặt ra, luận văn đề xuất phương hướng và một số


11

giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho
học sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.


12

Chƣơng 1
TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG, YÊU CẦU
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO HỌC SINH

HỆ ĐÀO TẠO TRUNG CẤP AN NINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh
hệ đào tạo trung cấp an ninh ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Giáo dục đạo đức và đạo đức cách mạng
1.1.1.1. Giáo dục đạo đức
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt chỉ có trong xã hội lồi
người, là nhu cầu không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Giáo dục nảy sinh, biến đổi và phát triển cùng với sự nảy sinh, biến đổi và
phát triển của xã hội. Bản chất giáo dục là sự truyền thụ và lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người. Chức năng trọng yếu của
giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách con người.
Ngày nay, khái niệm giáo dục được sử dụng trong khoa học sư phạm là
quá trình tác động có định hướng của nhân tố chủ thể (gồm các thiết chế xã
hội, nhà trường, gia đình) lên đối tượng giáo dục nhằm đạt được các mục đích
nhất định. Theo từ điển Tiếng Việt: "Giáo dục là hoạt động nhằm tác động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng
nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực
như yêu cầu đề ra” [74; 612].
Trong mọi thời đại, vấn đề giáo dục đạo đức cho con người là vấn đề
ln được gia đình, xã hội, nhà trường đặc biệt quan tâm, coi trọng.
Gia đình là trường học đầu tiên, là mơi trường trực tiếp tác động đến sự
hình thành, phát triển nhân cách con người. Sự tác động của giáo dục đạo đức
trong gia đình thơng qua hành vi “mẫu”, thơng qua sự làm gương trong ứng


13

xử của cha mẹ, trong lối sống, trong gia phong và được thực hiện trực tiếp
bằng việc hướng dẫn, dạy dỗ những hành vi, thói quen, tình cảm đạo đức về
sự hiếu thuận, tình cảm yêu thương, che chở đùm bọc lẫn nhau, sự kính trên

nhường dưới, lịng vị tha, sự thủy chung, sự đoàn kết, chăm chỉ học hành,
siêng năng lao động…
Ở phương Tây, khái niệm đạo đức bắt nguồn từ từ mos trong từ vựng La
tinh, có nghĩa là lề thói, moralis có nghĩa là thói quen. Thuật ngữ “luân lí”
thường xem như đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc chữ Hy Lạp là Êthicos
nghĩa là lề thói, tập tục, tập quán trong quan hệ giao tiếp giữa người với
người. Hiện nay, moral là khái niệm được sử dụng để chỉ đạo đức, còn
Êthicos dùng để chỉ đạo đức học.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại như Socrate (469 - 399TCN), Epiquya
(341 - 271TCN), Aristote (384 - 322TCN) đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo
đức và giáo dục đạo đức. Trong hệ thống triết học của Socrate, triết học về
con người, triết học về đạo đức, về đức hạnh chiếm một vị trí quan trọng, ơng
được coi là người đầu tiên đặt nền móng cho khoa học đạo đức. Trong hệ
thống triết học của Aristot, tư tưởng về đạo đức được phản ánh tập trung trong
bộ sách “Đạo đức học” (gồm 10 quyển), ông xác định mục đích của bộ sách
này là: “Chúng ta bàn về đạo đức khơng phải để biết đức hạnh là gì mà là để
trở thành con người có đức hạnh”.
Ở Phương Đông, thời kỳ cổ đại, các học thuyết Nho giáo, Phật giáo,
Đạo giáo đều lấy đạo đức làm cơ bản trong đối nhân xử thế, khuyên răn, giáo
dục con người làm điều thiện, tránh điều ác và đề xuất các quy tắc, chuẩn mực
đạo đức trong đời sống xã hội. Các học thuyết về đạo đức ở Trung Quốc cổ
đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức. Đạo có nghĩa là đường đi, là hướng
cần theo, là điều nên làm. Đạo là là khởi nguyên của mọi vật. Trong Đạo đức
kinh của Lão Tử, đạo là nguồn gốc của vũ trụ. Đức là biểu hiện bên ngoài của


14

của đạo. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính, là biểu hiện của đạo, là đạo
nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Khổng Tử (551 - 479TCN), người sáng lập Nho

giáo, chủ yếu quan tâm đến đạo làm người, đã đề xuất đường lối “Đức trị”,
mà nền tảng là thuyết Tam Cương, Ngũ Thường xác định cách cư xử và nghĩa
vụ của con người trong các mối quan hệ xã hội và gia đình, xác lập hệ giá trị
đạo đức định hướng điều chỉnh hành vi con người trong các mối quan hệ với
các đức tính nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Trong Phật giáo, khái niệm đạo gắn liền với tâm, là một phép tu tâm.
Trong cuộc sống hàng ngày, đạo đức được hiểu là phép ứng xử có nhân
phẩm giữa con người với con người. Các quy tắc, nguyên tắc đạo đức điều
chỉnh hành vi đạo đức của con người, được con người thực hiện như một sự
chấp nhận tự nguyện, dựa trên cơ sở niềm tin cá nhân, phong tục, tập quán
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Mỗi thời đại kinh tế - xã hội
nhất định có những địi hỏi tương ứng về mặt đạo đức đối với con người.
Trong quan niệm mácxít, đạo đức được xem là một cơ chế đặc thù điều
chỉnh các hành vi của con người trong sinh tồn và giao tiếp theo yêu cầu xã
hội nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội loài người. Đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, bao gồm toàn bộ những quan niệm về thiện - ác,
tốt - xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, hạnh phúc, công bằng... cùng
những nguyên tắc nhằm điều chỉnh, đánh giá hành vi ứng xử của con người
trong các mối quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng,
với xã hội.
Theo chúng tơi, có thể định nghĩa giáo dục đạo đức như sau: Giáo dục
đạo đức là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo
dục (gồm các thiết chế xã hội, nhà trường, gia đình) tác động tới ý thức cá
nhân, nhằm cung cấp tri thức đạo đức, bồi dưỡng tình cảm đạo đức cho đối


15

tượng giáo dục với mục đích hình thành ở họ ý thức đạo đức, tình cảm đạo
đức, hành vi đạo đức phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội.

Sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức trong gia đình, trong xã hội ở
mọi thời đại là do vai trò quan trọng của đạo đức, do chức năng của đạo đức
trong đời sống xã hội quy định. Đó là:
Một là, đạo đức là một hệ thống các giá trị xã hội, là một phương thức
điều chỉnh hành vi của con người. Giáo dục đạo đức là giải pháp nâng cao ý
thức đạo đức của con người, qua đó nâng cao khả năng, hiệu quả điều chỉnh
của đạo đức.
Trong đời sống của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được
đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân và cộng đồng tồn tại và phát
triển. Mỗi cá nhân sống trong xã hội phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức
để tìm ra những con đường, cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết
hợp lợi ích của mình và cộng đồng, từ đó đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển
của chính mình và cộng đồng.
Đạo đức ra đời từ rất sớm, cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người
gắn với lao động và các hoạt động sống, giao tiếp của con người. Trong quá
trình lao động, con người buộc phải hợp tác, liên kết, nương tựa nhau đã hình
thành nên những nguyên tắc ban đầu điều chỉnh hành vi đạo đức của con
người, do vậy, đạo đức tồn tại khách quan trên cơ sở nhu cầu của xã hội trong
việc duy trì trật tự chung, trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, được mọi
người tự nguyện, tự giác tuân theo. Xã hội càng phát triển, các quan hệ xã hội
của con người ngày càng trở nên phong phú và phức tạp, những quy tắc,
chuẩn mực đạo đức cũng hình thành, biến đổi, ngày càng có nội dung phong
phú, sâu rộng hơn. Những quy tắc, chuẩn mực đạo đức xác định giới hạn cho
phép nhất định của cộng đồng, của dân tộc…nhằm đảm bảo quyền lợi cho tất
cả các thành viên, tạo thành động lực phát triển của xã hội, đòi hỏi mỗi cá


16

nhân phải tự giác thực hiện và điều chỉnh hoạt động, hành vi của mình. Các

hoạt động sống của cá nhân trong xã hội có liên hệ mật thiết với cái được làm
và không được làm, nên làm và không nên làm. Đó là các chuẩn mực của
hành vi cá nhân. Các chuẩn mực đạo đức là các chuẩn mực nên làm và không
nên làm. Giá trị đạo đức là một yếu tố cấu thành của hệ thống các giá trị tinh
thần trong đời sống xã hội. Sự tiến bộ của xã hội, sự phát triển của xã hội
không thể thiếu vai trị của đạo đức. Khi xã hội có giai cấp, tình trạng áp
bức bất cơng đã thơi thúc con người chiến đấu vì cái thiện, đẩy lùi cái ác.
Chân - thiện - mỹ đã trở thành ước mơ, khát vọng, động lực cổ vũ con
người hành động.
Về mặt cấu trúc, nếu xem xét từ mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động
thì đạo đức bao gồm ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức; nếu xét từ quan hệ
thì đạo đức là một loại quan hệ xã hội đặc thù, quan hệ đạo đức. Xét từ mối
quan hệ giữa cái riêng và cái chung thì có thể phân thành đạo đức cá nhân và
đạo đức xã hội. Ý thức đạo đức bao gồm cấp độ cảm tính (tình cảm đạo đức:
bao gồm tình cảm nghĩa vụ, lương tâm, tình cảm nhân cách), cấp độ lý tính
(bao gồm tri thức đạo đức, chuẩn mực đạo đức, lý tưởng đạo đức). Theo đó,
đạo đức là một hệ thống các giá trị. Giá trị được hiểu là cái có ý nghĩa và đáng
quý, có ảnh hưởng đến sự lựa chọn phương thức, phương tiện, mục tiêu, hành
động của con người. Giá trị đạo đức là những phẩm chất của con người có tác
dụng tích cực đối với đời sống xã hội, được xã hội thừa nhận, nó cũng giữ ý
nghĩa chuẩn mực xã hội trong việc định hướng phương thức ứng xử chung,
phổ biến cho mọi cá nhân trong cộng đồng; trong điều tiết, thẩm định đánh
giá tính thiện (hoặc ác), tốt (hoặc xấu), nên làm hoặc không nên làm đối với
hành vi của các cá nhân, của xã hội (về nhu cầu, sở thích, niềm tin, lẽ sống, lý
tưởng…). Giá trị đạo đức được đánh giá là cái có ý nghĩa tích cực đối với đời
sống xã hội, được lương tâm đồng tình, dư luận biểu dương. Giá trị đạo đức,


17


vì thế, có ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xã hội, gắn với lợi ích xã hội. Các
nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức chính là cơ sở khách quan để điều
chỉnh hành vi con người.
Sự đánh giá hành vi đạo đức của con người theo khuôn phép chuẩn
mực và quy tắc biểu hiện thành những khái niệm về thiện ác, vinh và nhục,
chính nghĩa và phi nghĩa. Những chuẩn mực và qui tắc đạo đức của xã hội
hoặc của một giai cấp nhất định đề ra nhằm điều tiết hành vi của cá nhân
đối với xã hội (đối với Tổ quốc, Nhà nước, giai cấp mình và giai cấp đối
địch…) và đối với người khác. Quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ của
mình (khn phép hành vi) đối với xã hội, đối với người khác là tiền đề của
hành vi đạo đức của cá nhân.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Điều chỉnh đạo đức
được thực hiện dưới tác động của ý thức đạo đức, trong đó chuẩn mực đạo
đức, lý tưởng đạo đức và tình cảm đạo đức có vai trị quan trọng. Sự điều
chỉnh hành vi làm cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan
hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng. Lồi người sáng tạo ra nhiều phương thức
điều chỉnh hành vi, trong đó có chính trị, pháp quyền, đạo đức… Chính trị
điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia bằng biện pháp
đặc trưng như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực... Pháp quyền điều
chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng bằng các biện
pháp đặc trưng là luật pháp và dư luận xã hội, lương tâm.
Điều chỉnh hành vi của đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đòi
hỏi và phương thức điều chỉnh. Pháp quyền thể hiện trong pháp luật, là ý chí
của giai cấp thống trị buộc mọi người phải tuân theo. Những chuẩn mực của
pháp luật được thực hiện bằng ngăn cấm và cưỡng bức (quyền lực công cộng
cùng với đội vũ trang đặc biệt, quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù…). Pháp
quyền là đạo đức tối thiểu của mỗi cá nhân sống trong cộng đồng. Đạo đức


18


đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa với các hành vi cá nhân. Phương thức điều
chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm. Khác với các quy phạm pháp luật,
những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn mực
khuyến khích.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và lương
tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở thành đặc trưng
riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức khác, các hiện tượng xã
hội khác và làm thành cái khơng thể thay thế của đạo đức.
Mục đích điều chỉnh của đạo đức nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển
xã hội bằng việc tạo nên quan hệ lợi ích và nghĩa vụ theo nguyên tắc hài hịa
lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân (và khi cần, phải ưu tiên lợi ích cộng
đồng). Đối tượng điều chỉnh của đạo đức là hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó
điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng (gián tiếp). Cách thức điều chỉnh
được biểu hiện là sự lựa chọn giá trị đạo đức; xác định chương trình của hành
vi theo lý tưởng đạo đức; xác định phương án cho hành vi theo chuẩn mực
đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi là niềm tin, lý tưởng, tình cảm đạo đức
và kiểm sốt uốn nắn hành vi bằng dư luận xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hình thức chủ yếu:
Xã hội và tập thể tạo dư luận khen ngợi khuyến khích cái thiện, phê phán
mạnh mẽ cái ác; Bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi trên cơ
sở những chuẩn mực đạo đức xã hội.
Là thành viên của xã hội, con người bao giờ cũng phải chịu sự giáo dục
nhất định về ý thức và trách nhiệm đạo đức, chịu sự đánh giá đối với hành vi
đạo đức của mình và sự phản tư của lương tâm. Cá nhân phải chuyển hóa
những yêu cầu của xã hội thành nhu cầu, mục đích, hứng thú trong hành vi
tuân thủ những ngăn cấm, những chuẩn mực xã hội... Do vậy, sự điều chỉnh
đạo đức mang tính tự nguyện, và vì vậy, xét về bản chất, đạo đức là sự lựa



19

chọn của con người trên cơ sở tự giác, tự nguyện và ưu tiên lợi ích cộng đồng,
xã hội.
Hiệu quả và phạm vi điều chỉnh đạo đức phụ thuộc vào cả nhân tố chủ
quan và nhân tố khách quan.
Nhân tố khách quan nâng cao hiệu quả và phạm vi điều chỉnh đạo đức
chính là các quan hệ kinh tế - xã hội, đến lượt nó lại quy định tính tích cực xã
hội của con người trong hoạt động sống của họ. Đó chính là sự thực hiện chức
năng điều chỉnh của đạo đức.
Nhân tố chủ quan quy định hiệu quả và phạm vi điều chỉnh của đạo đức
là trình độ phát triển của ý thức đạo đức. Sự phát triển ý thức đạo đức cá nhân
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận và nội tâm hóa những yêu cầu đạo
đức xã hội, biến những yêu cầu đó thành nhu cầu bên trong, kích thích tính
tích cực của con người đối với việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức. Sự phát triển
ý thức đạo đức cá nhân vừa là sự phát triển tình cảm, sự quan tâm của con
người đối với người khác, phát triển tri thức đạo đức, khả năng đánh giá, lựa
chọn những phương án hoạt động đáp ứng yêu cầu đạo đức xã hội.
Sự phát triển của ý thức đạo đức cá nhân lại bị quy định bởi quá trình
giáo dục và phạm vi hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, tạo ra những
điều kiện để con người tham gia sâu rộng vào các quan hệ xã hội, các hoạt
động xã hội và tăng cường giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức chính là giải
pháp nâng cao ý thức đạo đức của con người, qua đó mở rộng khả năng và
nâng cao hiệu quả điều chỉnh của đạo đức.
Hai là, sự cần thiết giáo dục đạo đức cịn do chính chức năng nhận thức
và chức năng giáo dục của đạo đức quy định.
Đạo đức có chức năng nhận thức bởi với tư cách là một hình thái ý thức
xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội. Các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo
đức chính là sự phản ánh đặc thù các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.



20

Mục đích của nhận thức đạo đức khơng phải là phát hiện quy luật, hướng tới
chân lý mà là đánh giá giá trị thiện (hoặc ác), tốt (hoặc xấu) của các sự kiện,
các hành vi, tư tưởng, tình cảm của con người. Sự nhận thức đạo đức có
những đặc điểm:
Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số
trường hợp có sự hịa quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức. (Khác
những khoa học và ứng dụng nghiên cứu thành tựu khoa học có khoảng cách
về khơng gian và thời gian). Nhận thức đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại
vừa hướng nội tự nhận thức - hướng vào chính mình, chính chủ thể. Nhận
thức hướng ngoại là lấy chuẩn mức, giá trị, đời sống đạo đức của xã hội làm
đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ, hạnh
phúc và ý nghĩa cuộc sống…, những “cách thức và phương tiện” tạo ra các
giá trị đạo đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển hóa
đạo đức của xã hội như là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân như là
cái riêng.
Nhận thức hướng nội là tự nhận thức bản thân, là quá trình tự đánh giá,
tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với
những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ đó chủ thể hình thành phát
triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống hy sinh hay hưởng thụ, vị tha
hay vị kỷ, hướng thiện hay ác…
Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là to lớn.
Dư luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn
lương tâm là sự phản tư. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức của
mình - giá trị mà xã hội mong muốn.
Nhận thức đạo đức ở hai trình độ: trình độ thơng thường và trình độ lý
luận. Nhận thức đạo đức ở trình độ thơng thường là ý thức thơng thường,
những giá trị riêng lẻ được hình thành một cách tự phát từ chính cuộc sống



21

hàng ngày của con người để đáp ứng đòi hỏi khách quan của sinh hoạt cộng
đồng. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường, đủ để chủ thể xử lý kịp thời
trong cuộc sống và sự phát triển bình thường của xã hội. Mọi cá nhân đều có
thể và cần phải phản ánh đạo đức ở trình độ này. Nhận thức đạo đức ở trình
độ lý luận là những nhận thức có tính ngun tắc được chỉ đạo bởi những giá
trị đạo đức có tính tổng qt, được hình thành và phát triển chủ yếu bằng con
đường giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng. Trình độ này đáp ứng
được những đòi hỏi của sự phát triển đạo đức và tiến bộ xã hội. Đây là yếu tố
không thể thiếu được trong hệ tư tưởng và hành vi của giai cấp cầm quyền.
Nhận thức đạo đức đưa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức và kết quả
của nó trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi đạo đức.
Tác động của hệ thống đạo đức xã hội tới sự hình thành đạo đức cá
nhân chính là sự thể hiện và thực hiện chức năng giáo dục của đạo đức.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, con người là sản phẩm
của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người tạo ra hồn cảnh đến
mức nào thì hồn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy. Hệ thống đạo đức
do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái
khách quan hóa tác động, chi phối con người. Hệ thống ấy tác động đến con
người và con người tác động lại hệ thống. Trong xã hội có giai cấp tồn tại
nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác động.
Dưới tác động của đạo đức xã hội, sự hình thành và phát triển đạo đức
cá nhân được thực hiện bằng hai con đường, hai phương thức là nhận thức
đạo đức của cá nhân và hoạt động thực tiễn đạo đức của họ. Nhận thức đạo
đức của cá nhân là q trình chuyển hóa đạo đức xã hội thành đạo đức cá
nhân. Con người nhận thức, tiếp nhận, lĩnh hội các kinh nghiệm, các giá trị,
các chuẩn mực, biến chúng thành sức mạnh đạo đức cá nhân, từ đó định

hướng, điều chỉnh hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu xã hội, chính là thực


22

tiễn đạo đức của cá nhân. Thực tiễn đạo đức là hiện thực hóa nội dung bằng
hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và
cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và xã hội được củng cố, phát triển thành thói
quen, truyền thống, tập quán đạo đức.
Hiệu quả của giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội,
cách thức tổ chức giáo dục, mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục
trong quá trình giáo dục.
Giáo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức, nhân đạo hóa các quan hệ xã
hội, sự hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó…sẽ giúp
chủ thể lựa chọn, đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá đúng tư cách
của người khác hay của cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng. Thơng qua
mục đích, u cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hình thức, các bước
giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân và cả cộng đồng tạo ra các hành vi thực tiễn đạo
đức đúng.
Chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt “giáo dục lẫn
nhau trong cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng;
mặt khác, là sự “tự giáo dục”.
Bà là, do hệ thống giá trị đạo đức xã hội ln vận động, biến đổi theo
trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ nhận thức, nhu cầu phát triển của
cá nhân và cộng đồng nên cần thiết giáo dục đạo đức để điều chỉnh hành vi
đạo đức xã hội theo những biến đổi này.
Một mặt, sự hình thành phát triển và hồn thiện hệ thống giá trị đạo đức
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác phụ thuộc vào sự
phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ
thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ, thì hệ thống ấy có tính

tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại, thì hệ thống ấy mang tính tiêu cực,
phản nhân đạo, phản tiến bộ. Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng xã hội


23

có những quan niệm giá trị đạo đức nhất định. Đạo đức phản ánh đời sống xã
hội hiện thực, phản ánh mối quan hệ về lợi ích và nghĩa vụ giữa cá nhân cộng đồng - xã hội trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Trong sự
phát triển xã hội, sự thay thế nhau của các chế độ xã hội đã làm những chuẩn
mực đạo đức cũ luôn bị phá vỡ, được thay thế bằng những chuẩn mực đạo
đức mới. Mỗi giai đoạn lịch sử phát triển xã hội có mục tiêu, nội dung,
chương trình, phương pháp, hình thức giáo dục cụ thể, trong đó có giáo dục
đạo đức nhằm xây dựng nhân cách đáp ứng u cầu, địi hỏi của xã hội.
Hình thức giáo dục đạo đức là hình thức tổ chức hoạt động phối hợp
giữa chủ thể và đối tượng giáo dục, có thể phân thành các nhóm sau:
Hình thức giáo dục trường quy (giảng dạy đạo đức trong nhà trường).
Đây là hình thức giáo dục đạo đức trực tiếp giữa các chủ thể chuyên nghiệp là
nhà trường, giáo viên với các đối tượng xác định theo nội dung, chương trình
xác định. Phương pháp chủ yếu được thực hiện ở hình thức giáo dục này là
dạy và học. Thông qua đạo đức học, trong nhà trường thực hiện giáo dục các
chuẩn mực, các nguyên tắc, các quan niệm đạo đức một cách hệ thống.
Những tri thức này có ý nghĩa rất lớn đối với sự hình thành xu hướng chung
của nhân cách.
Hình thức giáo dục không trường quy:
- Trước hết là giáo dục đạo đức trong gia đình. Chính trong gia đình,
con người có được những hiểu biết đầu tiên về ứng xử đạo đức, hình thành
những tình cảm đạo đức đầu tiên và thường xun củng cố, ni dưỡng tình
cảm đạo đức.
- Con người cũng tiếp nhận đạo đức qua các thiết chế xã hội, qua đồng
nghiệp, bạn bè…nghĩa là qua môi trường xã hội.

- Tự giáo dục cũng là phương thức chuyển đạo đức xã hội thành đạo
đức cá nhân. Về bản chất tự giáo dục đạo đức cũng chính là giáo dục đạo đức.


24

1.1.1.2. Đạo đức cách mạng và giáo dục đạo đức cách mạng
Đạo đức là một phạm trù lịch sử. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có
những chuẩn mực đạo đức phù hợp. Khi hình thái kinh tế - xã hội thay đổi thì
những chuẩn mực đạo đức cũ cũng dần dần mất đi nhường chỗ cho những
chuẩn mực đạo đức mới. Theo sự phân tích của những nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin, trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội có những yếu tố của ba loại
đạo đức: đạo đức cũ (tồn tại như là tàn dư), đạo đức hiện tại (có địa vị thống
trị) và đạo đức mới (là cái mới xuất hiện, đang lớn lên). Trên cơ sở nghiên
cứu các kiểu đạo đức trong lịch sử loài người, những nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin đã đưa ra quan niệm về đạo đức mới - đạo đức cộng sản.
Khẳng định sự tiến bộ của đạo đức và chỉ ra tính quy luật của sự vận
động đạo đức, C. Mác và Ph, Ăngghen đã dự báo về sự xuất hiện nền đạo đức
mới với tư cách là biểu hiện về mặt đạo đức của xã hội mới, xã hội cộng sản
chủ nghĩa và sự hình thành đạo đức mới - đạo đức cộng sản, trên cơ sở gắn đạo
đức vô sản với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vơ sản và do đó, giải phóng
nhân loại khỏi sự phân biệt giai cấp. Cùng với thắng lợi của chủ nghĩa cộng
sản, đạo đức cộng sản là một thứ "đạo đức thực sự có tính người, đứng trên
những đối lập giai cấp và trên mọi hồi ức về những đối lập ấy" [46; 137].
Tuy nhiên sự hình thành đạo đức mới - đạo đức cộng sản, là một quá
trình lâu dài. Thắng lợi của cách mạng vơ sản chỉ là nền móng đầu tiên cho sự
xác lập đạo đức cộng sản. Sự nghiệp xây dựng đạo đức mới, đạo đức cộng sản
là một quá trình lâu dài, phức tạp và là một quá trình tự giác.
V.I.Lênin là người đầu tiên lĩnh sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa cộng sản và đạo đức cộng sản. Từ lập trường của chủ nghĩa duy vật

lịch sử, ông đã khẳng định rằng: Đạo đức cộng sản "là những gì góp phần phá
hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao
động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới" [31; 369] và


25

"cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và hồn thành cơng
cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản" [31; 369 - 372]. Như vậy, tính chất và nội
dung đạo đức mới - đạo đức cộng sản, được quy định bởi yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
cộng sản làm cho phạm vi thể hiện hiện thực của nền đạo đức này trở nên phổ
biến hơn bao giờ hết. Nó được thể hiện trong toàn bộ hoạt động tinh thần - thực
tiễn của con người và trở thành một thành tố, một phương diện (phương diện
đạo đức) của hoạt động đó.
Đạo đức cộng sản là đỉnh cao của đạo đức trong lịch sử xã hội lồi
người. Đạo đức ln mang tính giai cấp. Đạo đức của giai cấp vô sản trong xã
hội tư bản là mầm mống của đạo đức cộng sản trong tương lai, giai đoạn đầu
là đạo đức XHCN. Nếu quan niệm “đạo đức cộng sản là toàn bộ những
nguyên tắc sống và những quy phạm phù hợp với hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa” [65; 185] thì đạo đức xã hội chủ nghĩa là toàn bộ những
nguyên tắc sống và những quy phạm đạo đức phù hợp với điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội của XHCN, là nền đạo đức được xây dựng và hoàn thiện
trong XHCN, khi CNXH thắng lợi, thì đạo đức XHCN được toàn dân thừa
nhận và trở thành đạo đức thống trị. Đạo đức XHCN là giai đoạn đầu của của
đạo đức cộng sản. Các giai đoạn vận động của đạo đức cộng sản bao gồm:
Đạo đức cách mạng của
giai cấp vô sản

Đạo đức XHCN


Đạo đức CSCN

Đạo đức Cộng sản (Theo nghĩa rộng)
Đạo đức mới


×