MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
… …
1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế xã hội hiện nay đang phát triển rất nhanh chóng, điều đó kéo theo giáo
dục cũng phát triển theo một cách năng động. Cho nên, để đáp ứng được nhu cầu
mới và tình hình hiện nay của xã hội thì mỗi người trong xã hội phải làm sao chọn
cho mình một nghề nghiệp phù hợp với sở thích, năng lực cá nhân, cũng như là đáp
ứng đúng nhu cầu của xã hội đặt ra, có như vậy thì trong xã hội chúng ta mới thật
sự đứng vững vàng và tạo điều kiện cho xã hội ngày càng phát triển.
Hầu hết mọi người đều trải qua những năm tháng học tập trong các trường trung
học phổ thông (THPT). Khi rời ghế nhà trường, ai cũng phải tính đến việc tìm cho
mình một nghề để học và làm, tạo cho mình có một cuộc sống tự lập. Để giúp học
sinh (HS) chọn nghề phù hợp thì nhất thiết phải cần đến công tác giáo dục hướng
nghiệp (GDHN), công tác này giúp cho HS phổ thông định hướng nghề nghiệp,
am hiểu về các ngành, nghề, lựa chọn được ngành học, trình độ đào tạo phù
hợp; chủ động, sáng tạo trong học tập, giúp người học có thông tin về thị
trường lao động và tìm được việc làm phù hợp; tăng cường sự phối hợp giữa
cơ sở giáo dục với đơn vị sử dụng lao động để việc đào tạo của nhà trường tiếp
cận với thực tiễn và đáp ứng nhu cầu của xã hội.
1
HN cho HS phổ thông là một vấn đề rất quan trọng nhưng hiện nay chưa được
quan tâm đúng mức. Điều này tạo điều kiện cho HS chọn ngành nghề chưa thật sự
phù hợp với sở thích năng lực của bản thân, làm cho các em không phát huy đúng
mức khả năng của mình, đặc biệt là HS các vùng sâu vùng xa có quá ít thông tin về
tuyển sinh. Trong khi đó các giáo viên (GV) dạy môn "HN - dạy nghề" chỉ dạy
nghề chứ chưa thật sự HN. Các GV dạy môn này chưa được trang bị những kỹ năng
để HN mà chủ yếu truyền cho HS bằng kinh nghiệm của mình.
Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu về: “Vấn đề giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh phổ thông” hiện nay là việc làm vô cùng cần thiết, cấp bách và có ý nghĩa to
lớn đối với sinh viên cũng như là đối với các em HS THPT và đối với xã hội cũng
vậy. Đó cũng chính là lý do em chọn đề tài nghiên cứu này
2. Mục đích nghiên cứu
Định hướng nghề nghiệp, bồi dưỡng, hướng dẫn việc chọn nghề của HS cho
phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội đồng thời phù hợp với năng khiếu cá nhân
của HS.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Việc GDHN.
- Việc tổ chức công tác HN.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề HN.
- Lập kế hoạch, tổ chức tìm hiểu một số ngành nghề để cho HS chọn lựa sau khi
tốt nghiệp THPT.
- Tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của từng HS để khuyến
khích, hướng dẫn, bồi dưỡng khả năng nghề nghiệp thích hợp nhất;
- Tiến hành điều tra bằng phiếu điều tra về vấn đề HN.
- Soạn tài liệu HN cho các trường THPT.
- Tổ chức các nhóm ngoại khoá để giúp HS phát triển hứng thú, năng lực nghề
nghiệp.
- Đề xuất các giải pháp.
2
5. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích tài liệu.
- Phương pháp tổng hợp tài liệu.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra thực trạng.
- Xử lý và đánh giá thực trạng.
6. Cấu trúc của bài nghiên cứu
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Cấu trúc của bài nghiên cứu
Nội dung
1. Cơ sở lý luận của đề tài
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
3. Đề xuất các giải pháp
Kết luận và đề nghị
1. Kết luận
2. Đề nghị
3
NỘI DUNG
… …
1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1 Hướng nghiệp
HN được hiểu là sự tác động của một tổ hợp các lực lượng xã hội vào thế hệ trẻ,
lấy sự chỉ đạo của một hệ thống sư phạm làm trung tâm, giúp cho các em quen biết
với một số ngành nghề phổ biến để khi tốt nghiệp ra trường các em có thể lựa chọn
cho mình một cách có ý thức nghề nghiệp tương lai.
HN là khái niệm chung của một trong những lĩnh vực văn hóa xã hội, thực hiện
dưới hình thức quan tâm của xã hội và tạo nghề cho thế hệ đang lớn lên, hỗ trợ và
phát triển những thiên hướng và thực hiện đồng bộ các biện pháp chuyên môn tác
động đến con người trong việc tự xác định nghề nghiệp và chọn lựa hình thức tối ưu
để có việc làm, có tính đến nhu cầu và năng lực của con người, kết hợp với hoàn
cảnh kinh tế - xã hội trong thị trường lao động. Qua đó đảm bảo lợi ích tối đa của cá
nhân và xã hội, khai thác và sử dụng triệt để khả năng, tiềm năng và ưu thế của cá
nhân trong việc hành nghề trong suốt cuộc đời và đảm bảo sự khai thác hợp lý
nguồn nhân lực trong sự phát triển kinh tế của xã hội.
4
Thực chất, HN không chỉ là đơn thuần là định hướng nghề nghiệp, là chỉ dẫn
cho mỗi cá nhân đi theo một nghề nghiệp định trước và theo đuổi nghề nghiệp đó
suốt cuộc đời, HN còn làm cho cá nhân đó hiểu hệ giá trị của nghề, hình thành hứng
thú, say mê nghề và tâm nguyện cống hiến cuộc đời cho nghề đã chọn, HN làm cho
cá nhân nhận ra chân giá trị của nghề và tìm thấy hạnh phúc khi tận tâm cống hiến
tinh thần và sức lực cho nghề đó, HN tạo điều kiện để cá nhân đó khám phá và phát
huy những năng lực của bản thân để đóng góp tốt nhất cho xã hội trong khả năng có
thể trong quá trình lao động của mình.
HN tốt sẽ tạo điều kiện cho mỗi cá nhân được thử sức mình và khám phá năng
lực bản thân ở những lĩnh vực khác nhau mà cá nhân đó có tiềm năng đóng góp tốt
dựa trên những yếu tố như sở thích, cá tính, khả năng kết hợp với những kỹ năng,
nền tảng học vấn được đào tạo ở trường học và trong quá trình lao động.
Những sai lầm trong việc hiểu về HN đã khiến không ít những em bị bỏ qua
năng khiếu và không phát triển được khả năng của mình một cách tốt nhất, không ít
em hầu như không có sự thích thú, đam mê trong ngành nghề theo học hoặc công
việc mà mình sẽ làm. Về lâu dài dễ dẫn đến sự nhàm chán, bất mãn trong công việc
và hạn chế khả năng sáng tạo, khám phá bản thân và hạn chế sự đóng góp cho xã
hội.
Vì thế, HN là lĩnh vực hoạt động rất quan trọng, cần thiết và phức tạp, các biện
pháp tác động phải được dựa trên những cơ sở về tâm lý học, y học, sinh lý học,
giáo dục học, xã hội học, kinh tế học và nhiều ngành khoa học khác. Cho nên, HN
cho HS cần có sự tham gia đồng bộ của nhiều bộ phận trong xã hội.
1.2 Vai trò, vị trí của công tác hướng nghiệp
HN là phần nội dung gắn bó hữu cơ trong giáo dục toàn diện của trường THPT
nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển nhận thức và khả năng thực hành đối với hoạt
động tương lai của các em HS sao cho phù hợp với những nhu cầu phát triển kinh tế
xã hội của địa phương của đất nước.
Việc xác định cho bản thân một hướng đi, một nghề nghiệp chỉ có thể có được
những cá nhân có khả năng nhận thức và nhận thức một cách hợp quy luật đối với
5
sự vận động của đời sống xã hội, có khả năng xem xét, so sánh đánh giá những
dạng khác nhau của hoạt động lao động để đi tới những quyết định hợp lý cho bản
thân. Sự lựa chọn nghề là quá trình biểu hiện tính năng động của chủ thể, nó liên
quan đến những nội dung hay hình thức của đối tượng lựa chọn và chịu sự chi phối
của chính tính năng động xuất hiện trong bản thân của đối tượng lựa chọn. Điều
chỉnh, hướng dẫn và phát triển tính năng động này cho mỗi HS là trọng trách của
công tác HN, nó tham gia vào hệ thống khách quan trong quá trình điều chỉnh các
điều kiện chủ quan, giúp cho HS có sự định hướng và lựa chọn nghề nghiệp một
cách khoa học và đúng đắn, tạo ra sự thích ứng ở mức độ nhất định với nghề hoặc
lĩnh vực mà HS yêu thích và nếu chọn đúng ngành nghề, việc học tập trở nên hứng
thú hơn, hiệu quả tăng lên và xã hội bớt rất nhiều sự lãng phí do chuyển nghề hoặc
phải hành nghề bất đắc dĩ.
Chính và thế mà hiện nay công tác HN trong trường THPT được xem là việc
làm cần thiết, cấp bách và cần có biện pháp và hướng đi thật sự thích hợp phù hợp
với nhu cầu phát triển của xã hội.
1.3 Mục đích của giáo dục hướng nghiệp
HN có mục đích tổng quan chung là hình thành khả năng tự chủ trong công việc
chọn nghề cho HS trên cơ sở của sự phù hợp giữa năng lực, hứng thú, sở thích con
người với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội. GDHN góp phần nâng cao hiệu
quả lao động xã hội, điều chỉnh lực lượng lao động cho phù hợp.
Đối với HS THPT, GDHN sẽ giúp HS có được ý thức trong chọn nghề, có
định hướng đúng trong chọn nghề dựa trên sự hiểu biết về các nghề nghiệp
được HN, phù hợp với nhu cầu thị trường lao động, năng lực, sự yêu thích của
bản thân.
Trên cơ sở của công tác GDHN còn nâng cao sự nhận thức nghề nghiệp, là
quá trình tạo ra những điều kiện hiện thực để đưa HS vào thế giới của các
nghề nghiệp, tạo sự thích thú tìm hiểu nghề nghiệp một cách tự giác để chọn
cho mình một nghề cho tương lai thật sự phù hợp và có ý nghĩa.
6
Mục đích của công tác HN, tư vấn việc làm là giúp người học định hướng
nghề nghiệp, lựa chọn được ngành học, trình độ đào tạo phù hợp; chủ động,
sáng tạo trong học tập, am hiểu về ngành, nghề đang học để phát huy được
năng lực nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp, giúp người học có thông tin về thị
trường lao động và tìm được việc làm phù hợp, tăng cường sự phối hợp giữa
cơ sở giáo dục với đơn vị sử dụng lao động để việc đào tạo của nhà trường tiếp
cận với thực tiễn và đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Mục đích của môn học này nhằm cung cấp kiến thức cho học sinh hiểu được ý
nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai, có kỹ năng tự
đánh giá năng lực bản thân, điều kiện gia đình khi lựa chọn nghề và có ý thức tích
cực tìm hiểu, thái độ đúng đắn với lao động nghề nghiệp…
Tóm lại, GDHN có mục đích cơ bản là hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn
sàng đi vào các ngành nghề mà đất nước hay ở từng địa phương đang cần. Quá trình
GDHN phải làm cho học sinh có những hiểu biết cần thiết về thị trường lao động,
biết cách lựa chọn nghề nghiệp có cơ sở khoa học, được làm quen với nghề để có
hứng thú và thái độ đúng đắn, yêu quý nghề, và điều quan trọng là HS có được tình
cảm, thói quen lao động để tiến tới có thể biết làm một số nghề truyền thống, nghề
thông dụng đang cần duy trì và phát triển ở địa phương. Đây là việc làm thiết thực
góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng quê hương giàu mạnh, có cuộc sống lành
mạnh để tiếp tục vừa làm vừa học lên.
1.4 Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp
Nhiệm vụ xã hội cơ bản của hướng nghiệp là giúp HS tìm một nghề phù hợp
nhất với những khả năng của cá nhân và thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các
lĩnh vực nghề nghiệp trong xã hội.
- Nhiệm vụ đầu tiên là qua HN, các em được làm quen với những nghề cơ bản
trong xã hội, những nghề có vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, những nghề
cần thiết phải phát triển ở ngay địa phương mình. Nhiệm vụ này được thể hiện trong
suốt những năm còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhiệm vụ đó giúp các em có điều
kiện tìm hiểu nghề của địa phương, trong xã hội. Từ sự làm quen này, sẽ giúp cho
7
các em HS hiểu rằng những nghề nào đang cần phát triển nhất, thái độ đối với nghề
như thế nào là đúng… Đồng thời, HS còn phải biết những yêu cầu tâm sinh lý mà
nghề đặt ra, những điều kiện vào học nghề đó là như thế nào. Tóm lại, nhiệm vụ này
là hình thành ở HS những biểu tượng đúng đắn về những nghề cần phát triển.
- Nhiệm vụ thứ hai là hướng dẫn phát triển hứng thú nghề nghiệp: trong quá
trình tìm hiểu nghề, ở HS sẽ xuất hiện và phát triển hứng thú nghề nghiệp. Em HS
này thích nông nghiệp, em khác thích công nghiệp, có em lại chỉ chú ý đến nghệ
thuật Người làm HN sẽ hướng dẫn sự phát triển hứng thú của các em trên cơ sở
phân tích những đặc điểm, những điều kiện, những hoàn cảnh riêng của từng em
một.
Hứng thú là một động lực hết sức quan trọng để con người gắn bó với nghề. Vì
vậy, hứng thú được coi như một chỉ số quan trọng hàng đầu để xét sự phù hợp nghề
của con người. Song việc giáo dục đạo đức, giáo dục chính trị có ý nghĩa đối với sự
hình thành và phát triển hứng thú. Trong xã hội, không ít nghề ở ngoài sự định
hướng của HS. Nhưng khi thấy được hết tầm quan trọng của một nghề, có những
HS đã dứt khoát chọn nghề ấy, và cảm thấy thoải mái hoặc hài lòng với sự lựa chọn
của mình, từ đó nảy nở hứng thú với nghề.
- Nhiệm vụ thứ ba là giúp học sinh hình thành năng lực nghề nghiệp tương ứng:
Người ta chỉ có thể yên tâm sống lâu dài với nghề nếu họ có năng lực chuyên môn
thực sự, đóng góp được sức lực, trí tuệ một cách hữu hiệu với nghề của mình. Xét
đến cùng, ai cũng muốn có năng suất lao động cao, có uy tín trong lao động nghề
nghiệp. mặt khác, nghề nghiệp cũng không chấp nhận những người thiếu năng lực,
làm việc thiếu hiệu quả và năng suất không cao. Vì vậy, trong quá trình HN, phải
tạo điều kiện sao cho HS hình thành năng lực tương ứng với hứng thú nghề nghiệp
đã có.
Đối với HS THPT, con đường hình thành năng lực nghề nghiệp là tổ chức lao
động sản xuất kết hợp với dạy nghề, HS sẽ được thử sức trong các hình thức hoạt
động nói trên, từ đó năng lực nghề nghiệp sẽ nảy nở và phát triển.
8
- Nhiệm vụ cuối cùng của HN là giáo dục cho HS thái độ lao động, ý thức tôn
trọng người lao động thuộc các ngành nghề khác nhau, ý thức tiết kiệm và bảo vệ
của công… Đây là những phẩm chất nhân cách không thể thiếu được ở người lao
động trong xã hội của chúng ta. Có thể coi đây là nhiệm vụ giáo dục đạo đức và
lương tâm nghề nghiệp, là nhiệm vụ chủ yếu đối với thế hệ trẻ. Cùng với các nhiệm
vụ trên, nhiệm vụ này góp phần vào việc làm cho những phẩm chất nhân cách của
người lao động được hài hòa và cân đối.
Vì thế mà GDHN có một vị trí quan trọng và không thể thiếu trong trường
THPT, công tác này là nguyên nhân của sự phát triển nguồn nhân lực có hiệu quả
cho một xã hội hiện đại.
1.5 Nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong công tác hướng nghiệp
1.5.1 Nhiệm vụ của giáo viên
a. Đối với giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp là người có điều kiện thuận lợi gần gũi, hiểu
biết học sinh về tất cả các mặt, là người hướng dẫn, dìu dắt giúp cho sự phát triển
của tập thể lớp cũng như là của các thành viên trong lớp do giáo viên chủ nhiệm,
GVCN là nhân tố cơ bản gắn liền các các hoạt động giáo dục của xã hội với hệ
thống giáo dục của nhà trường. Chính vì lẽ đó giáo viên chủ nhiệm có một vai trò
vô cùng to lớn đối với HS lớp mình trong công tác GDHN.
GVCN có các nhiệm vụ như sau:
- Tìm hiểu nhu cầu nguyện vọng HS của lớp mình để có các biện pháp thích hợp
đưa và áp dụng để công tác GDHN đạt hiệu quả.
- GVCN giúp HS hiểu biết được ý nghĩa của việc chọn nghề cũng như biết được
một số nghề quan trọng tại địa phương, trong xã hội.
- Cung cấp một số tư liệu có liên quan đến các nghề trong xã hội để HS dể dàng
tìm hiểu.
9
- Phân bổ và tạo ra những điều kiện cần thiết để HS có thể tham gia các hoạt
động lao động ngoại khóa trên cơ sở hiểu biết về hứng thú, sở thích, năng lực, đặc
điểm tâm sinh lí của HS.
- Là người chịu trách nhiệm đứng ra vận động lôi cuốn các tổ chức trong trường
cà ngoài xã hội liên quan đến HS trong lớp mình chủ nhiệm có thể tham gia vào
công tác HN.
- Kết hợp với giáo viên bộ môn (GVBM) của lớp mình tiến hành các hoạt động
GDHN hấp dẫn, gây hứng thú cho HS.
- Kết hợp và đề xuất với cơ quan làm công tác tuyển sinh của trường làm tốt
công tác GDHN cho HS.
b. Đối với giáo viên bộ môn
GVBM là người trực tiếp truyền thụ kiến thức trong lĩnh vưc khoa học cho HS,
lĩnh vực khoa học này được ứng dụng trong trong một số ngành nghề của xã hội.
Nhờ vào quá trình truyền thụ kiến thức đó mà người GVBM đã tạo nền móng cho
HS lĩnh hội kiến thức nghề nghiệp cho bản thân.
Nội dung tài liệu học tập của các bộ môn có thể và cần phải sử dụng vào công
tác HN cho HS. Lực lượng GVBM trong trường là rất lớn, là mạng lưới gắn chặt
các yếu tố thời gian và biện pháp tác động đến HS, làm cho công tác HN được tiến
hành liên tục, đa dạng ở mọi nơi, mọi chổ trong khuôn khổ trường THPT. Nhiệm vụ
GVBM bao gồm một số nội dung như:
- Cung cấp cho HS một số hiểu biết về nghề nghiệp ở địa phương và trong xã
hội.
- Phát hiện kịp thời và và có biện pháp thích đáng, phù hợp bồi dưỡng sự hứng
thú, năng lực của HS đối với bộ môn.
- Hướng dẫn cách tổ chức ngoại khóa về nội dung và phương pháp tiến hành để
đáp ứng sở thích năng lực hiểu biết, sáng tạo kỹ thuật của HS.
- Quan hệ mật thiết vớt một số cơ sở sản xuất và tổ chức xã hội, triển khai chu
đáo và có hiệu quả các buổi tham quan cho HS.
10
- Cung cấp một số tư liệu có liên quan đến các nghề trong xã hội góp phần xây
dựng phương hướng-hướng nghiệp cho nhà trường.
1.5.2 Nhiệm vụ của học sinh
Để công tác GDHN thật sự đạt hiệu quả cao thì bên cạnh việc nhà trường THPT
tổ chức hướng, các GV nhiệt tình tham gia vào công tác này thì các em HS phải
thấy được nhiệm vụ vô cùng quan trọng của bản thân mình nhằm giúp cho GV
hướng dẫn và nhà trường hoàn thành nhiệm vụ HN đồng thời giúp cho công tác
GDHN của nhà trường đạt được hiệu quả cao nhất, giúp các em HS có điều kiện lựa
chọn cho bản thân một ngành nghề phù hợp với tình hình thực tế của gia đình, xã
hội và giống với sở thích các nhân, phù hợp với hoàn cảnh gia đình. Chính vì thế,
trong công tác GDHN HS có nhiệm vụ như sau:
- Tham gia đầy đủ, tích cực các buổi GDHN do nhà trường tổ chức.
- Hợp tác với GV hướng dẫn để công tác HN đạt hiệu quả cao nhất.
- Bản thân chủ động tự tìm hiểu các ngành nghề, các lĩnh vực mà mình yêu thích
để định hướng việc chọn nghề cho bản thân, có thể tìm hiểu thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng, gia đình, bàn bè, các GV trong trường…
- Giúp đỡ các HS khác trong việc tìm hiểu các ngành nghề trong xã hội một cách
tích cực để cùng nhau chọn nghề cho đúng.
- Có các kiến nghị lên GV, nhà trường các biện pháp, nhu cầu, nguyện vọng của
bản thân để công tác GDHN ngày càng hoàn thiện hơn.
- Nếu có tài liệu liên quan có thể cung cấp cho GV, cho nhà trường.
Với những nhiệm vụ này GV và các em HS nên thực hiện thật tốt để GDHN
ngày càng trở nên cần thiết và phát huy được ưu điểm thật sự vốn có của nó, góp
phần vào sự phát triển của nhà trường nói riêng và của xã hội nói chung.
1.6 Sự cần thiết phải hướng nghiệp cho học sinh phổ thông
Trong thực tiễn, để xác định cho mình một nghề phù hợp, cá nhân phải có nhận
thức đúng về nghề và khả năng của bản thân, đáp ứng nhu cầu của nghề đó. Tức là
phải có khả năng xem xét, so sánh, đánh giá những dạng khác nhau của hoạt động
lao động để đi tới một quyết định cho bản thân. Tất nhiên sự lựa chọn này không
11
phải bao giờ cũng do cá nhân quyết định. Sự lựa chọn nghề của mỗi người còn chịu
sự chi phối bởi các điều kiện: kinh tế, chính trị, xã hội và các yếu tố khách quan
khác.
Như vậy chọn nghề là một quá trình nhận thức và quyết định của chủ thể, thể
hiện tính năng động của chủ thể. Đó là quá trình khó khăn và chịu sự chi phối bởi
yếu tố khách quan, vượt ra ngoài sự kiểm soát của cá nhân đó. Vì vậy, cần có sự
định hướng của xã hội. Nói cách khác, cần phải có HN.
Định hướng nghề nghiệp là một điều tối cần thiết ngay từ khi HS còn trên ghế
nhà trường. Nhưng không phải bạn trẻ nào cũng có cái nhìn nghiêm túc về điều này.
Có không ít sinh viên ra trường lúng túng, không biết nên bắt đầu từ đâu, không biết
ngành học của mình sẽ ứng dụng vào những công việc cụ thể nào. Cũng không ít
HS không biết phải chọn ngành nghề nào để học tiếp sau khi học xong THPT.
Theo cô Nguyễn Hồng Mai, giảng viên Đại học Công nghệ Thành Phố Hồ Chí
Minh cho biết: "Nhiều sinh viên bây giờ chọn ngành học theo thời thượng, các em
không hiểu được tiềm năng của mình thực sự muốn gì, thích gì. Tôi nghĩ ngay từ khi
các em còn học phổ thông, gia đình nhà trường nên giúp các em có những định
hướng nghề nghiệp rõ ràng để các em không cảm thấy hối tiếc, cảm thấy chán nản
khi chọn sai ngành học thích hợp".
Thạc sĩ Phạm Công Tín là giảng viên giảng dạy môn Ngôn ngữ học ứng dụng,
Văn hóa và ngôn ngữ châu Á tại đại học Fullerton, với bằng cử nhân Anh văn của
trường San Bernardino và bằng thạc sĩ Ngôn ngữ học xã hội của trường Fullerton,
thuộc đại học California cho rằng: “Đa số các sinh viên dễ dàng chấp nhận những
công việc không phù hợp, trái với chuyên môn vì ngay từ đầu các em đã không xác
định được phương hướng học tập và ngành nghề phù hợp”.
Theo lời nhận xét này thì rõ ràng là các sinh viên này không được HN ngay từ
khi còn ngồi trên ghế trường phổ thông, không hiểu chính xác nghề nghiệp nên đã
chọn nghề không thật sự phù hợp. Từ đó cho chúng ta thấy rằng GDHN là quan
trọng và cần thiêt như thế nào. Nếu khi còn là HS THPT mà các em không được
HN một cách tỉ mỉ, đúng đắn và kỷ lưỡng thì chắc chắn sẽ có nhiều em rơi vào tình
12
cảnh của một số sinh viên như trên, từ đó không có động lực trong học tập và kết
quả học tập sẽ không sao có thể đạt cao được. Khi đó các em sẽ biết phải làm như
thế nào với công việc của chính bản thân đang theo học, một số trường hợp còn sinh
ra chán nản, không chủ động sáng tạo, tìm tòi học hỏi trong học tập dẫn đến kết quả
học tập kém, trình độ tri thức của các em không cao, nói chung là không đủ kiến
thức cần thiết cho ngành mà các em đang theo học và tất nhiên là không thể đáp
ứng được nhu cầu của xã hội đang cần. Và như thế sẽ không xin được việc làm trở
thành gánh nặng cho gia đình và xã hội, một điều đáng quan tâm hơn là bản thân
các em HS đã bỏ phí một thời gian dài học tập nhưng chẳng mang lại kết quả gì cả.
Xã hội ngày càng phát triển, cơ hội nghề nghiệp cũng vì thế mà rất đa dạng, tuy
nhiên để chọn được cho bản thân một ngành nghề phù hợp không phải là điều đơn
giản và tự mỗi người có thể làm tốt được. Vì vậy, HS cần có sự hỗ trợ của nhà
trường, cha mẹ, các cơ quan, tổ chức giáo dục, đào tạo…,cần phải có sự hướng dẫn
để các em khi chọn nghề biết kết hợp một cách lý tưởng ba yếu tố: nguyện vọng,
năng lực của cá nhân, những đòi hỏi của nghề nghiệp và yêu cầu của xã hội.
Chính vì lẽ, đó GDHN cho HS khi các em đang ngồi trên ghế nhà trường THPT
là điều không gì quan trọng cho bằng. Đây là việc làm giúp các em HS chọn đúng
ngành nghề mà các em yêu thích, đáp ứng được nhu cầu xã hội, đó cũng là việc làm
giúp cho xã hội ngày càng phát triển, cung cấp cho xã hội một lực lượng nguồn lao
động dòi dào có trình độ cao, thúc đẩy sự phát triển của đất nước, đưa nước ta lên
một tầm cao mới.
1.7 Tổ chức hướng nghiệp cho học sinh phổ thông ở trường THPT
Các hình thức GDHN ở trường THPT rất đa dạng, phong phú và có tầm quan
trọng không nhỏ đến kết quả của công tác GDHN ở trường THPT. Các hoạt động
đó có thể là:
- Tổ chức theo lớp (một lớp hay nhiều lớp) các buổi hướng dẫn định kỳ về nghề
nghiệp cho HS.
- Tổ chức tư vấn cho HS của một trường hay nhiều trường cùng một lúc. Đưa ra
những lời khuyên cho HS dựa trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa đặc điểm của
13
hoạt động nghề phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lý, thể chất, dựa trên cơ sở
các kết quả chẩn đoán tâm lý, tâm sinh lý và y tế.
- Tổ chức tư vấn mùa thi cho HS lớp 12. Giải đáp thắc mắc của HS trước
ngưỡng cửa nghề nghiệp.
- HN thông qua tổ chủ nhiệm, GVCN, GVBM, cán bộ của nhà trường.
- Thông qua giờ hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Các buổi sinh hoạt Đoàn, giờ sịnh hoạt lớp.
Các hoạt động này sẽ nhằm cung cấp cho HS về:
+ Thông tin nghề: Là giới thiệu cho HS về những loại hình sản xuất hiện đại,
tình hình thị trường lao động, những yêu cầucủa ngành nghề, về nội dung và triển
vọng phát triển của thị trường nghề nghiệp, những cách và điều kiện tiếp cận chúng,
những yêu cầu do các nghề đòi hỏi đối với con người, những khả năng tăng cường
và tự hoàn thiện trình độ nghề nghiệp trong quá trình hoạt động lao động.
+ Định hướng nghề: Giúp HS tự xác lập nghề nghiệp và đi tới quyết định một
cách có ý thức trong việc chọn lựa con đường nghề nghiệp phù hợp với những đặc
điểm tâm lý và khả năng của các em cùng với yêu cầu của xã hội.
+ Nhu cầu của xã hội đang cần những gì và số lượng như thế nào…
+ Thông tin về tuyển sinh của các năm học trước.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.1 Kết quả điều tra
2.1.1 Điều tra
Sử dụng phiếu điều tra.
Phiếu điều tra (phần phụ lục)
2.1.2 Phương pháp điều tra
Đã tiến hành khảo sát 40 HS ở trường THPT Thống Linh bằng cách
- Sử dụng phiếu điều tra.
- Hỏi ý kiến của một số giáo viên.
- Hỏi một số HS trong lớp chủ nhiệm.
- Phân tích số liệu.
14
- Tổng hợp số liệu.
- Xử lý và đánh giá số liệu.
2.1.3 Kết quả điều tra
Bảng kết quả điều tra tại trường THPH Thống Linh
Câu
hỏi điều
tra
Đáp
án
Số
lượng
Tỷ
lệ %
Câu
hỏi điều
tra
Đáp
án
Số
lượng
Tỷ lệ
%
1
a
b
c
d
e
f
25
14
0
0
0
1
62.5
35
0
0
0
2.5
8
a
b
c
d
25
11
4
0
62.5
27.5
10
0
2
a
b
40
0
100
0
9
a
b
c
e
f
22
6
5
4
15
55
15
12.5
10
37.5
3
a
b
c
29
30
0
97.5
50
0
10
a
b
c
15
25
0
37.5
62.5
0
4
a
b
c
39
1
0
97.5
2.5
0
11
a
b
c
d
5
3
1
31
12.5
7.5
2.5
77.5
5
a
b
c
d
22
16
1
1
55
40
2.5
2.5
12
a
b
c
34
6
0
85
15
0
6 a 37 92.5 13 a 37 92.5
15
b
c
3
0
7.5
0
b
c
d
3
0
0
7.5
0
0
7
a
b
c
d
9
27
4
0
22.5
67.5
10
0
14
a
b
38
2
95
5
2.2 Đánh giá thực trạng
2.2.1 Đánh giá định tính
HN cho học sinh THPT là một vấn đề rất quan trọng nhưng chưa được quan tâm
đúng mức. HS các vùng sâu vùng xa có quá ít thông tin về tuyển sinh. Các GV dạy
môn HN chưa được trang bị những kỹ năng để HN mà chủ yếu truyền cho học sinh
bằng kinh nghiệm, bằng sự hiểu biết của chính bản thân mình.
Nhìn chung, các em HS chưa được cung cấp những thông tin cơ bản về các loại
hình nghề nghiệp trong xã hội hiện nay; có những em chưa nhận thức được việc
định hướng nghề nghiệp, tầm quan trọng của việc tìm hiểu về các ngành - nghề cho
bản thân, từ đó dẫn đến lúng túng và mơ hồ trong việc lựa chọn ngành học, cấp học
phù hợp. Hầu như những chọn lựa của các em còn cảm tính, chưa có sự suy nghĩ
thấu đáo.
Tiến sĩ Lê Thị Thanh Hương nhận xét: “Phần lớn HS THPT hiện vẫn chưa hiểu
hết về ý nghĩa cũng như vai trò của việc giảng dạy các môn GDHN trong trường.
Các chương trình trong môn học này không phải để HS nắm vững nghề, mà chỉ là
tạo cơ hội làm quen với một số nghề mà thôi”.
Sự hiểu biết thiếu chính xác của HS cũng là lỗi của công tác GDHN cho HS.
Còn tồn tại một thực trạng là chương trình dạy không đáp ứng được nhu cầu của
HS. Hình thức và nội dung tư vấn HN khá phong phú nhưng có sự mất cân đối rõ
16
rệt giữa các hình thức tư vấn, vì các hoạt động này mới chỉ tập trung vào mùa thi và
dừng lại ở việc cung cấp thông tin.
Tiến sĩ Lê Thị Thanh Hương cho rằng, “tư vấn hướng nghiệp không chỉ dừng lại
ở việc cung cấp thông tin cho học sinh mà đòi hỏi người làm công việc này phải có
kiến thức về tâm lý, nắm vững các trắc nghiệm để tiến hành quá trình tư vấn hướng
nghiệp đầy đủ và chuyên nghiệp”. Có như vậy thì công tác GDHN mới thật sự đạt
hiệu quả cao được.
Một thực tế thường thấy là khi chuẩn bị rời ghế phổ thông, phần đông HS đến
đầu lớp 12 khi đặt bút làm hồ sơ thi vào ĐH-CĐ mới vỡ lẽ rằng các em biết quá ít
về các nghề nghiệp trong xã hội. Có lẽ hầu hết sự quan tâm của giới HS dồn vào
những nghề mà theo các em là hấp dẫn: lập trình viên, tiếp viên hàng không, phóng
viên, kỹ thuật viên… mà các em ít quan tâm đến các vấn để khác, ví dụ như năng
lực của bản thân chẳng hạn.
Theo nhận định của tôi thì nhiều HS mơ hồ, lúng túng trước việc chọn trường,
chọn nghề, chọn việc, không hiểu ngành học, việc làm có phù hợp với năng lực hay
không. Lẽ ra HS phải được định hướng, trang bị hiểu biết ngay ở THPT. Có nhiều
em chỉ nghe theo gia đình để chọn nghề, vì sợ thất nghiệp, các em thiếu tự tin vào
bản thân mình khi quyết định chọn nghề.
Một số HS cũng biết nhờ cậy vào sách vở, tài liệu để tìm hiểu về ngành nghề,
nhưng một thực tế là những vùng sâu vùng xa thì đây là vấn đề hạn chế, các em ít
được tiếp xúc với nhiều thông tin nghề nghiệp.
Nếu công tác GDHN ở nhà trường không đạt hiệu quả, không đáp ứng được nhu
cầu của các em HS thì trách nhiệm lại được đặt lên vai phụ huynh và HS. Tuy
nhiên, việc này không hề dễ dàng. Cho nên, nhiều HS rất khó khăn trong việc ra
quyết định cho nghề nghiệp tương lai. Vì thế có thể khẳng định rằng GDHN và tư
vấn học đường là một nhu cầu không thể thiếu của HS. Vì vậy đa số HS bày tỏ nỗi
khát khao được tư vấn, HN để các em vững tin khi lựa chọn.
Học sinh THPT nói chung và học sinh lớp 12 nói riêng là lứa tuổi bắt đầu bước
vào ngưỡng cửa cuộc đời. Một cuộc sống tương lai đầy hấp dẫn, lý thú song cũng
17
đầy bí ẩn và khó khăn đang chờ đợi các em. Khác với thiếu niên, thanh niên HS có
sự chuẩn bị về tâm thế nên suy nghĩ của các em chín chắn hơn khi quyết định kế
hoạch đường đời của mình. Tuy nhiên trong thực tế, việc chọn nghề, quyết định
đường đời của HS THPT không đơn giản chút nào bởi vì ngành nghề trong xã hội
rất phong phú, mỗi ngành nghề đều có những yêu cầu riêng…
Hầu hết các em có mơ ước vào các trường đại học, trong khi xã hội đang cần rất
nhiều công nhân kỹ thuật lành nghề tham gia trực tiếp trong một số lĩnh vực nghề
nghiệp. Ước mơ của các em đôi khi còn rất xa với thực tế lao động, hoạt động nghề
nghiệp, chưa thấy được giá trị đích thực của các nghề. Các em có kỳ vọng quá cao
vào một số nghề nhưng khi tiếp xúc với nghề nghiệp trong thực tế thường làm các
em thất vọng. Chọn nghề mà hiểu biết quá ít, thậm chí không hiểu nghề định chọn
thì sớm muộn sẽ gặp trở ngại lớn trong hoạt động nghề nghiệp của cá nhân, tạo sự
hẫng hụt, bi quan chán nản, miễn cưỡng trong lao động, nhiều khi lỡ dở cả cuộc
đời.
Chính vì thế nhà trường cần phải quan tâm nhiều hơn công tác GDHN cho các
em HS được yên tâm hơn. Ngoài các thầy cô giáo mang lại cho các em thông tin về
các ngành nghề đào tạo, điều quan trọng hơn là các em cần có cái nhìn đúng về tầm
quan trọng của việc học đại học - cao đẳng - trung học chuyên nghiệp, ý thức sự
khác biệt giữa ba bậc học ấy và xác định cấp học nào phù hợp với mình. Bản thân
các em phải chủ động trong vấn đề này vì các em hiểu mình muốn gì, thích gì. Chỉ
có các em mới có thể đưa ra quyết định phù hợp với năng lực và sở thích của bản
thân của chính mình, giúp mình có được sự chọn lựa một cách đúng đắn.
2.2.2 Đánh giá định lượng
Có tới 62.5% học sinh trung học cho rằng rất quan tâm đến GDHN của trường
THPT và 35% là quan tâm đến vấn đề này. Đặc biệt là có đến 100% cho rằng
GDHN ở trường THPT là rất cần thiết đối với HS. Điều này cho thấy rằng các em
HS rất có nhu cầu học các môn HN để trang bị cho bản thân những kiến thức về
ngành nghề để có thể dể dàng lựa chọn khi học xong bậc THPT.
18
Rất nhiều HS cho rằng GDHN giúp định hướng, hướng dẫn HS chọn ngành
nghề cho phù hợp (97.5%), và có đến 50% HS nói GDHN giúp HS giúp HS năng
động sáng tạo, học tập đạt kết quả cao hơn. Từ đó chúng ta thấy rằng GDHN có một
vai trò thực tế rất lớn đối với HS trong chọn ngành nghề và trong quá trình học tập
nâng cao trình độ, tích luỹ thêm được nhiều kiến thức.
Theo kết quả điều tra cũng cho thấy rằng có 97.5% số học sinh muốn có một
nghề nghiệp phù hợp với sở thích và năng lực và năng lực cá nhân. Trong khi chỉ có
2.5% là cho rằng chọn nghề nghiệp nào không quan trọng, miễn là kiếm ra nhiều
tiền và hấp dẫn là được. Như vậy là các em đã có sự quan tâm rất nhiều đến việc
làm của bản thân sau này sau cho thật phù hợp và có hiệu quả cao nhất. Các em ít
có sự quan tâm đến tiền bạc mà hầu như chỉ muốn chọn một ngành nghề phù hợp để
đem công sức của mình phục vụ cho lợi ích của bản thân, gia đình, xã hội.
Có 55% (được điều tra) HS rất muốn và 40% (được điều tra) HS muốn được GV
hướng dẫn về công tác HN cho mình để bản thân có cách lựa chọn nghề sáng suốt
hơn. Chỉ 2.5% là không muốn GV hướng dẫn mình thôi, vậy là số HS kém quan
tâm đến nghề nghiệp hiện nay còn rất ít, hay nói đúng hơn là số lượng không đáng
kể. Các em đã lo lắng và đã quan tâm nhiều hơn đến nghề của minh.
Để làm tốt công tác hướng nghiệp ở trường THPT, qua điều tra HS lớp 10 có
đến 92.5% HS đề xuất nhà trường nên có kế hoạch, tổ chức các buổi HN cho HS,
trong khi chỉ có 7.5% HS đề nghị để tự HS tìm hiểu lấy. Qua con số này thì rõ ràng
HS đã không còn bỏ qua việc chọn ngành nghề mà đã rất quan tâm ngay cả khi còn
học lớp 10, các em đã có sự quan tâm một cách rất nhiều và có sự chú ý thích đáng
đối với công tác này ở trường THPT mà các em đang theo học.
Kết quả khảo sát HS lớp 10 cho thấy phần lớn (67.5%) các em đang tìm hiểu
ngành nghề để chọn lựa khi ra trường. Một tín hiệu vui chính là ở điểm này, nó góp
phần cho công tác GDHN được tiến hành một cách thuận lợi cho các em HS được
lựa chọn ngành nghề dể dàng hơn.
Không ít (22.5%) HS đã mạnh dạn chọn cho mình một hướng đi cho tương lai.
Đây là số liệu thật đáng mừng vì có đến 62.5% là các em đã biết rất rõ về ngành
19
nghề của mình sẽ theo học sau khi tốt nghiệp THPT, các em đã tìm hiểu thật kỹ
trước khi chọn ngành nghề khi còn đang học lớp 10 là một tín hiệu đáng mừng và
đó chính là một động lực rất lớn giúp các em có ý chí phấn đấu nhiều hơn trong học
tập, và tất nhiên là kết quả học tập chắc chắn sẽ cao hơn. Song cũng không thể
không lo lắng vì có 27.5% chỉ biết sơ sơ, chút ít và 10% là chỉ nghe nói qua mà
thôi. Các em chưa thật sự tìm hiểu thật kỹ ngành nghề mà đã quyết định chọn nó
rồi, 22.5% số lượng này cũng không phải là ít.
Một số em (10%) thì chưa có động tịnh gì, chưa suy nghĩ gì về ngành nghề trong
tương lai cho bản thân. Tuy số lượng này không nhiều nhưng nó cũng là vấn đề
đáng lo ngại và cần quan tâm đối với công tác HN của trường THPT, có lẽ các em
cho rằng là HS lớp 10 thì việc chọn ngành nghề là không cần thiết, việc đó hãy đợi
lên lớp 12 hãy chọn cũng chưa muộn, nhưng các em đâu biết rằng đây là thời điểm
chọn cho mình một hướng đi là cần thiết, là vô cùng quan trọng cho tương lai.
Các ngành nghề mà các em đã lựa chọn cho bản thân đã được các em tìm hiểu
phần lớn thông qua GV hướng dẫn (55%). Điều này cho thấy rằng vai trò của GV
trong hướng dẫn HN là vô cùng quan trọng và không thể thiếu đối với công tác HN
cũng như đối với sự phát triển của địa phương nói riêng và của toàn xã hội nói
chung. GV là người có vai trò quyết định nhất trong công tác này đặc là ở vùng sâu
vùng xa, những nơi mà các phương tiện khoa học kỹ thuật chưa được phát triển.
Bên cạnh tìm hiểu ngành nghề qua GV các em cũng đã tự lực và cố gắng rất nhiều
trong việc tìm hiểu về ngành nghề cho mình (15% qua tivi, 12,5% thông qua
internet, 10% thông qua báo chí và 37.5% các HS tìm hiểu qua người thân). Như
vậy cũng đã nói lên được phần nào về sự quan tâm của HS về tương lai sau này, đến
việc làm của bản để đem lại sự phát triển của xã hội.
Để cho công tác GDHN ngày càng phát triển đáp ứng được nhu cầu và nguyện
vọng của HS thì việc tổ chức thực hiện ở trường THPT là quan trọng. Chính vì thế
qua điều tra các em HS về công tác này phần lớn các em đề xuất nên tổ chức một
tháng một lần chiếm 62.5%, mỗi tuần một lần là 37.5%, 77.5% HS cho rằng nên tổ
chức GDHN cho cả ba khối lớp.
20
Có đến 85% HS tham gia đầy đủ các buổi HN do trường tổ chức, 15% là thỉnh
thoảng tham gia, các em đã tích cực rất nhiều trong công tác HN của nhà trường thể
hiện qua sự tham gia đầy đủ các buổi GDHN tại trường, nhưng vẫn còn một số em
không hề tham gia để tìm hiểu nghề. Thực tế vẫn còn HS lơ là đối với công tác quan
trọng này.
Hầu hết HS đều thấy tham gia các buổi GDHN là hấp dẫn và bổ ích cho chính
mình (92.5%) và có 7.5% là thấy bình thường. Vậy là công tác GDHN ở trường
THPT đã gây cho HS chú ý rất nhiều và đạt hiệu quả hơn trước. Tuy nhiên cũng
không phủ nhận rằng công tác GDHN ở THPT vẫn chưa thực sự hoàn hảo vẫn còn
HS.
GVBM cũng góp phần không nhỏ vào công tác GDHN, theo điều tra thì có 95%
HS được GVBM hướng dẫn HN. Qua các giờ học trên lớp thì vai trò của GVBM đã
đóng góp một phần không nhỏ vào việc HN cho HS, đây là yếu tố cần được phất
huy nhiều hơn giúp HS có hiểu biết nhiều hơn, có sự lựa chọn ngành nghề chính
xác hơn, phù hợp hơn.
Kết quả này phản ánh công tác GDHN ở trường THPT hiện nay đã gây được
nhiều sự chú ý cho các em HS, đã phát huy được vai trò của nó trong việc hướng
dẫn HS. Tuy nhiên đó chưa được xem là tốt nhất và phải cần đặt ra các biện pháp,
hướng đi tốt hơn để giúp cho tất cả HS được hiểu rõ ngành nghề, cũng chọn cho bản
thân một hướng đi phù hợp với sự phát triển của xã hội, của đất nước.
3. Đề xuất các giải pháp
Để một đất nước phát triển thì nhân tố con người được đặt lên hàng đầu, bởi lẽ
nếu không có con người hay có nhưng con người không có hiểu biết không có kiến
thức thì dù có công nghệ phát triển đến đâu đi nữa thì cũng thể nào có thể vận hành
được, và tất nhiên là không thể nào tạo ra của cải vật chất và quốc gia không thể
phát triển được. Việt Nam cũng vậy, con người Việt Nam chính là nhân tố cốt lõi
để đất nước phồn thịnh, để đất nước bay lên như khát vọng của cả dân tộc. Đã
đến lúc chúng ta không thể giàu lên mãi khoáng sản, mà chúng ta phải làm
giàu bằng năng lực trí tuệ, bàn tay, khối óc của con người Việt Nam.
21
Vậy chúng ta đã làm gì để định hướng và phát triển nguồn nhân lực của mình?
Đó chính là tạo ra nguồn lao nhân lực dòi dào nhưng nhất thiết phải có trí tuệ, có
kiến thức, yêu nghề có tâm huyết với nghề và luôn phấn đấu cùng với sự phát triên
của xã hội. Vậy thì bằng cách nào chúng ta mới có thể tạo ra được nguồn nhân lực
tiên tiến như vậy dể phục vụ cho sự phát triển của đất nước? Đó chính là công tác
GDHN, đặc biệt là HN cho HS THPT, một lực lượng to lớn và năng động của đất
nước. Vậy thì chúng ta đã quan tâm đến hoạt động HN cho nguồn nhân lực tiềm
năng ấy đến đâu?
Trên thế giới, để hướng đến một nền kinh tế tri thức, một xã hội tri thức vào
năm 2010, châu Âu đã đề ra những mục tiêu Lisbon 2000, theo đó HN được đặt lên
hàng đầu trong chính sách giáo dục của mình. Mục tiêu đó không phải có được
trong ngày một ngày hai, mà họ đã phải trải qua một quá trình phát triển, từ thử
nghiệm đến rút kinh nghiệm rất nhiều lần.
Ở Việt Nam, hoạt động HN không phải không có, nhưng chưa thực sự đi vào
chiều sâu và chưa thực sự hữu ích cho những ai cần đến nó. Điều này chủ yếu xuất
phát từ nguyên nhân chúng ta chưa thực sự có được các biện pháp chưa có được
hướng đi đúng đắn, chưa có sự quan tâm đúng mức đến vấn đề nầy, đặc biệt là chưa
hiểu đúng và hiểu một cách toàn diện về HN. Vì vậy cần có những biện pháp thích
hợp ngay trong lúc này, để kịp thời đem đến cho HS nhiều sự hiểu biết cho chọn
nghề của mình.
Một số giải pháp về công tác hướng nghiệp ở trường THPT
- Để giải quyết vấn đề này, trường THPT cần thường xuyên mở các lớp tập huấn
cho giáo viên về các hoạt động HN. Mỗi trường nên thành lập một ban tư vấn, chịu
trách nhiệm cập nhật những thông tin về tuyển sinh để giới thiệu cho HS. Cần có
giáo viên hoặc cán bộ chuyên trách để có thời gian tập trung nghiên cứu đầu tư cho
môn học, có bộ phận quản lý, phối hợp với các ban ngành khác để tạo điều kiện cho
công tác giáo dục này tiến hành thuận lợi. Cán bộ làm công tác HN, tư vấn việc làm
phải được đào tạo, bồi dưỡng để có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ
được giao, có kinh nghiệm, nhiệt tình, năng động, tâm huyết với công việc.
22
- Cần có sự kết hợp với Đoàn, hội phụ huynh… tổ chức những diễn đàn, hội
nghị trong nhà trường về vấn đề HN. Diễn giả trong buổi diễn đàn có thể là các cán
bộ HN, những thầy cô có kinh nghiệm, những người đang làm chính cái nghề mà
buổi hướng nghiệp quan tâm
- Nếu có cơ hội, nhà trường - hội phụ huynh - địa phương kết hợp với các cơ
quan, doanh nghiệp đưa HS đến tìm hiểu trực tiếp về công việc, tổ chức các buổi
tham quan các trường đại học, doanh nghiệp, tổ chức xã hội.
- Trong giờ sinh hoạt cuối tuần, GVCN hãy dành một ít thời gian cho việc giải
đáp các câu hỏi của các em HS về vấn đề HN. GVBM cần phát huy vai trò HN của
mình đối với HS qua tiết lên lớp nhiều hơn và có hiệu quả hơn.
- Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về một ngành nghề hay tiêu chí lựa
chọn ngành nghề của các chuyên gia (có thể mời chính từ lực lượng phụ huynh của
nhà trường), các tài liệu về từng ngành, nghề, công việc của các cơ quan giáo dục
hay tổ chức chuyên ngành.
- Cần định kỳ tổ chức các bản báo cáo nghề nghiệp như yêu cầu công việc, kỹ
năng, bằng cấp, phẩm chất, thu nhập, thăng tiến, dự báo khuynh hướng và nhu cầu
của các ngành nghề trong xã hội. Những báo cáo thường niên loại này cung cấp rất
nhiều thông tin quan trọng trong việc chọn nghề của HS và góp phần tư vấn cân đối
cấu trúc nghề nghiệp của xã hội.
- Trường cần xây dựng các chương trình, soạn tài liệu HN dành một số tiết học
thích đáng để giới thiệu những nghề cơ bản đang cần phát triển cho HS. Nội dung
của công tác HN là tập trung giới thiệu ngành, chuyên ngành đào tạo của trường, cơ
hội tìm việc làm sau khi tốt nghiệp cho đối tượng tuyển sinh của trường, có thể giải
thích thêm về công việc của ngành học đó là gì để các em HS dể hiểu.
- Thiết lập hệ thống thông tin về việc làm, thông tin hai chiều giữa nhà trường và
đơn vị sử dụng lao động, giới thiệu việc làm cho người học. Xây dựng cơ sở dữ liệu
về người học đã tốt nghiệp theo từng năm học để cung cấp cho các tổ chức, cá nhân
có nhu cầu sử dụng lao động, khảo sát, thống kê về việc làm của người học sau khi
23
tốt nghiệp Phối hợp với các tổ chức, cá nhân, đơn vị sử dụng lao động trong việc
đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội.
- Có thể tổ chức sự liên kết giữa nhà trường và các trung tâm tư vấn tâm lý, tư
vấn hướng nghiệp của các trường đại học, các viện nghiên cứu hoặc các tổ chức, cá
nhân khác để triển khai ngay công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh, khắc phục
khó khăn về nguồn nhân lực, kinh phí đầu tư xây dựng một phòng chuyên môn mới
trong nhà trường.
- Các trường đại học, cao đẳng… nên xây dựng chuyên ngành về GDHN nhằm
đào tạo ra đội ngũ có kinh nghiệm về công tác này để phục vụ cho công tác GDHN
trong nhà trường nói chung và trường THPT nói riêng.
- Công tác giáo dục HN cho HS nên chuẩn bị từ năm lớp 10, cần phải có sự
chuẩn bị sớm cho HS định hướng nghề nghiệp, giúp các em có hướng phấn đấu để
đạt kết quả học tập ngày càng cao hơn. Chuẩn bị sớm như cũng giúp các em HS có
thể điều chỉnh cách chọn nghề của bản thân một cách kịp thời để không sai lầm khi
quyết định sau cùng là học xong lớp 12. Và như thế đến lớp 12 thì các em đã có sẵn
bầu nhiệt huyết với của tuổi trẻ với nghề mà các đã chọn, khi đó khả năng hoàn
thành ước mơ là rất cao.
- Các buổi học về GDHN nên tổ chức một tháng một lần và tổ chức một cách
liên tục với lượng thời gian hợp lí tùy thuộc vào tình hình chung của nhà trường.
Bằng cách này sẽ đảm bảo cho sự hiểu biết một cách liên tục của HS.
- Tuy nhiên, để cho công tác GDHN cho có hiệu quả, cần có sự đánh giá nghiêm
túc, hệ thống về việc nội dung của môn học này ở nhà trường. Tức là phải bắt buộc
HS theo học và được đánh giá điểm như các môn học khác. Vì thực tế cũng có một
em chưa có sự chú ý đúng mức đến GDHN, bằng cách này sẽ buột các em tìm hiểu
va như thế nhất định sẽ hiêu được nhiều hơn.
- Bên cạnh đó, các bậc phụ huynh cần có sự quan tâm đến con em của mình
nhiều hơn đến việc chọn nghề cho các em sau này. Các em học sinh hãy nói lên
mong muốn của mình, sở thích của mình, năng lực của mình và mọi điều liên quan
24
đến việc chọn nghề đến những người có sự hiêu biết về công tác này như: các GV
trong trường, người thân, bạn bè…
Thực chất, để có chiều sâu và phù hợp với yêu cầu thực tế của nền kinh tế,
hướng nghiệp phải là công việc của toàn xã hội, trong đó phải có sự phối hợp tốt
trong hướng nghiệp giữa gia đình và nhà trường và giữa nhà trường với các cơ
quan, doanh nghiệp để hướng hoạt động đào tạo đi liền với thực tế của thị trường
lao động và cũng để các em có sự chuẩn bị nhất định trong giai đoạn chuyển từ đi
học sang đi làm.
Đây là những công việc rất quan trọng, là một trong những chìa khoá góp phần
đảm bảo chất lượng giáo dục, đào tạo nước ta trong tình hình mới. Song đây cũng là
những công việc nặng nề cần có sự giúp đỡ quý báu của giới khoa học, các chuyên
gia thuộc các ngành và sự ủng hộ của các cấp ở trong nước và các chuyên gia ở
ngoài nước, vì từ nay đến lúc đó, so riêng với nhu cầu thực tiễn giáo dục, mà theo
đó mỗi cơ sở đào tạo, giáo dục phổ thông, dạy nghề hay đại học cần có ít nhất một
cán bộ tư vấn - giáo dục hướng nghiệp, con số cán bộ phải đào tạo đã lên đến rất
nhiều.
25