Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Đảng bộ thành phố hà nội lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể từ năm 1995 đến năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 127 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN TIẾN ĐIỆP

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI SẢN
VĂN HÓA VẬT THỂ TỪ NĂM 1995 ĐẾN NĂM 2008

Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số

: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Phạm Thị Kim Oanh

HÀ NỘI - 2016


2

LUẬN VĂN ĐÃ ĐƯỢC CHỈNH SỬA
THEO Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC


CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS, TS. PHẠM XUÂN MỸ


3

LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam của tôi với đề tài: “Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo công
tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể từ năm 1995 đến
năm 2008” là một cơng trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc trong đó tơi đã
bỏ ra nhiều tâm huyết và cơng sức để hồn thành. Luận văn được hồn thành
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Phạm Thị Kim Oanh.
Trong q trình viết luận văn, bản thân tơi đã đọc nhiều luận án, luận
văn, khóa luận, tạp chí cũng như những sách chuyên khảo khác nhau và lấy
đó làm nguồn tư liệu tham khảo làm cơ sở viết luận văn của mình.
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những kết
luận trong luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ cơng trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Tiến Điệp


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1
Chương 1: ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG
TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI SẢN VĂN

HÓA VẬT THỂ TỪ NĂM 1995 ĐẾN NĂM 2000 .................................13
1.1. Những yếu tố tác động đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di
sản văn hóa vật thể của Đảng bộ Thành phố Hà Nội ..................................13
1.2. Thực trạng về di sản văn hóa vật thể ở Hà Nội ........................................27
1.3. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy
giá trị các di sản văn hóa vật thể ở thủ đô từ năm 2000 đến năm 2005 ......42
Chương 2: ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG
TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI SẢN VĂN
HÓA VẬT THỂ TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2008 .................................53
2.1. Điều kiện lịch sử mới ..............................................................................53
2.2. Thực trạng và vấn đề đặt ra .....................................................................55
2.3. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong công tác bảo
tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể từ năm 2000 đến
năm 2008 ...................................................................................................62
Chương 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ...........................83
3.1. Nhận xét ..................................................................................................83
3.2. Một số kinh nghiệm .................................................................................95
KẾT LUẬN .................................................................................................114
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................116


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Di sản văn hóa là hệ giá trị cơ bản và trọng yếu, bền vững theo thời gian
trong văn hóa của mỗi dân tộc. Di sản văn hoá là nơi lưu trữ kiên cố bản sắc dân
tộc, đồng thời là cơ sở tiền đề quan trọng để sáng tạo những giá trị văn hoá mới
của xã hội hiện đại. Hiện nay, q trình tồn cầu hố, hội nhập quốc tế, giao lưu
văn hố sơi động, phức tạp, đa chiều trên phạm vi toàn thế giới đang đặt ra nhiều

cơ hội cũng như thách thức cho nhân loại, đòi hỏi các quốc gia phải xử lý một
cách hài hoà mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền
thống với quá trình tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội.
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của vấn đề bảo tồn và phát huy các giá
trị di sản văn hóa, Đại hội X của Đảng (6/2006) chỉ rõ:
Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng,
kháng chiến, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc, các
giá trị văn hóa nghệ thuật, ngơn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng
đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hóa, văn nghệ dân gian. Kết
hợp hài hòa việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa với các hoạt động
phát triển kinh tế, du lịch [28, tr.107].
Trong gần 30 năm đổi mới, đặc biệt là trong giai đoạn từ năm 1995 đến
năm 2008, Đảng đã có nhiều chủ trương, chính sách thể hiện rõ sự đổi mới trên
lĩnh vực văn hóa, trong đó, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa là một
điểm nhấn quan trọng trong đường lối xây dựng và phát triển văn hóa thời kỳ đổi
mới, phấn đấu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân các tỉnh,
thành phố trong cả nước nói chung và Thành phố Hà Nội nói riêng, trong nhiều
năm qua đã phát huy những nội lực, khắc phục mọi khó khăn, thách thức, từng
bước thực hiện có hiệu quả chủ trương bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn


2

hóa vật thể ở thủ đơ. Nhờ có chủ trương này mà bộ mặt văn hóa Thủ đơ có nhiều
thay đổi và đạt kết quả to lớn, góp phần làm thay đổi diện mạo văn hóa của đất
nước, góp phần vào sự nghiệp chung đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1995 đến năm 2008, văn hóa thủ đơ đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Các di sản văn hóa vật thể ở thủ đơ khơng những được bảo tồn mà còn được

phát huy đáp ứng yêu cầu của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa từ đó tạo
điều kiện phát triển kinh tế và xã hội. Đạt được kết quả trên là do Đảng bộ Thành
phố Hà Nội đã luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa nói chung,
quan tâm công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể ở thủ đơ
nói riêng phù hợp với định hướng của Trung ương, phù hợp với điều kiện cụ thể
của Hà Nội.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản
văn hóa vật thể ở thủ đơ vẫn cịn một số hạn chế. Việc đánh giá đúng thực trạng
công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể ở thủ đô từ năm
1995 đến năm 2008 của Đảng bộ Thành phố Hà Nội và khẳng định tính đúng
đắn của chủ trương xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng ta là một vấn đề có
ý nghĩa chiến lược để xây dựng và phát triển văn hóa thủ đơ. Mặt khác, thành
tựu, hạn chế và những kinh nghiệm trong sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố
Hà Nội trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể ở thủ
đơ từ năm 1995 đến năm 2008 cũng là vấn đề cần được nghiên cứu, tổng kết, rút
kinh nghiệm để thực hiện thành công việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản
văn hóa vật thể trên từng địa phương cũng như cả nước.
Bản thân học viên là một người công tác trong Bảo tàng Lịch sử quốc gia,
cho nên việc nghiên cứu về công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn
hóa vật thể nói chung, cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật
thể của Đảng bộ Thành phố Hà Nội nói riêng càng cần thiết hơn bao giờ hết vì


3

nó khơng chỉ là một yếu tố thuận lợi trong nghiên cứu khi bản thân đã có
nhiều năm cơng tác trong bảo tàng mà qua việc nghiên cứu này còn giúp cho
học viên nâng cao hơn nữa năng lực làm việc của bản thân, tạo thêm những
kinh nghiệm trong xây dựng và phát triển bảo tàng nói chung, Bảo tàng Lịch
sử Quốc gia nói riêng.

Vì những lý do trên, học viên chọn vấn đề “Đảng bộ Thành phố Hà Nội
lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể từ
năm 1995 đến năm 2008” làm đề tài luận văn thạc sĩ sử học, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa nói chung, di sản văn hóa
vật thể nói riêng là vấn đề chung của cả nước, của tất cả các địa phương, trong
đó Thủ đơ Hà Nội là một trong những nơi có nhiều di sản văn hóa vật thể nổi
tiếng cần được bảo tồn ở tầm quốc gia. Vì vậy, liên quan đến vấn đề này đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học được cơng bố. Có thể khái qt các
cơng trình liên quan đến đề tài như sau:
Thứ nhất, nhóm các cơng trình nghiên cứu về vấn đề bảo tồn, bảo tàng
các di sản văn hóa nói chung
Hồng Vinh (1997), Một số vấn đề về bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa dân tộc, nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Trong cuốn sách này, trên cơ sở
những quan niệm của quốc tế và Việt Nam, tác giả đã đưa ra một hệ thống lý
luận về di sản văn hóa, qua đó bước đầu vận dụng nghiên cứu di sản văn hóa
nước ta.
Luật di sản văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành (2002) được coi là
văn bản pháp quy về di sản văn hóa. Luật này quy định về các hoạt động bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức,
cá nhân đối với di sản văn hóa ở nước Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


4

Ngơ Đức Thịnh (2007), Văn hóa phi vật thể: Bảo tồn và phát huy,
trong tác phẩm này ông đã khái quát về thực trạng công tác bảo tồn và phát
huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể qua đó nêu lên một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác này.

Trưởng Ban Di sản phi vật thể Văn phịng UNESCO Pari - ơng Rieks
Smeets đã nghiên cứu về Bối cảnh, nhận thức và quá trình xây dựng Cơng
ước về bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể. Mục đích của Cơng ước này là: (a)
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể; (b) đảm bảo sự tơn trọng đối với di sản văn
hóa phi vật thể của các cộng đồng, các nhóm người và các cá nhân có liên
quan; (c) nâng cao nhận thức ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế về tầm
quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể, để từ đó đảm bảo sự tơn trọng lẫn
nhau trong lĩnh vực này; (d) tạo ra sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế.
Tổng Giám đốc ACCU - ông Sato Kunio đề cập đến Các chương trình
của ACCU và tầm nhìn về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể trong đó nêu lên
các chương trình quan trọng của ACCU nhằm bảo vệ các di sản văn hóa phi
vật thể đồng thời cũng nêu lên tầm quan trọng của công việc này.
Hai nhà nghiên cứu Trung Quốc là Cố Quân và Uyển Lợi nghiên cứu
về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể và những quy tắc nên theo. Nghiên cứu
quan trọng này của hai nhà nghiên cứu Trung Quốc có giá trị lớn trong việc
đưa ra những lý do cần thiết phải bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, mặt khác
hai ơng cịn đưa ra một hệ thống những quy tắc khi tiến hành việc bảo vệ các
di sản văn hóa phi vật thể.
Partrik J. Bolyan nghiên cứu Di sản văn hóa phi vật thể , cơ hội và
thách thức đối với Bảo tàng và công tác đào tạo cán bộ chuyên môn bảo tàng.
Đây là một đề tài nghiên cứu hay và công phu, qua đó tác giả đã đưa ra những
lí lẽ thuyết phục về cơ hội và thách thức đối với Bảo tàng và công tác đào tạo
cán bộ chuyên môn bảo tàng với di sản văn hóa vật thể.


5

Một con đường tiếp cận di sản văn hóa (2006), do Bộ Văn hóa - Thơng
tin Hà Nội ấn hành là một cơng trình đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu về lý
luận di sản văn hóa cũng như thực tiễn, có thể làm tư liệu nghiên cứu tốt cho

đề tài. Trong đó tiêu biểu nhất là các bài: Khảo cổ học với công tác bảo vệ và
phát huy di sản văn hóa (Vũ Quốc Hiển); Bảo tồn di tích, nhân tố quan trọng
của phát triển bền vững (Lê Thành Vinh); Di tích lịch sử và văn hóa đồng
bằng Sơng Hồng (Đặng Văn Bài); Bảo tồn, tôn tạo và xây dựng khu di tích
lịch sử - văn hóa Đường Lâm (Phan Huy Lê).
Giữ gìn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc Tây Bắc, nhà xuất bản
Văn hóa Dân tộc - Tạp chí Văn hóa nghệ thuật phát hành là cuốn sách có thể
giúp người đọc nhận diện một số vấn đề lý luận về di sản văn hóa thơng qua
việc tìm hiểu về di sản văn hóa các dân tộc Tây Bắc.
Nguyễn Văn Huy (2003), Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di
sản văn hóa các dân tộc hiện nay, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 20. Ở đây,
tác giả bài báo đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trên phạm vi cả nước.
Ngơ Phương Thảo (2008), Bảo vệ di sản, cuộc chiến từ những góc nhìn,
đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 289 tháng 7/2008, bài viết đã đề cập
trực tiếp đến vấn đề bảo vệ di sản văn hóa hiện nay. Theo tác giả thì “Mỗi ngày
di sản văn hóa càng đối mặt với nhiều nguy cơ, xuất phát từ những hệ lụy của
cuộc sống hiện đại. Cũng mỗi ngày, ý thức về trách nhiệm phải giữ gìn các di
sản văn hóa đã tồn tại với thời gian càng lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội, trong
mỗi cộng đồng để dẫn tới những chương trình dự án ngày càng có hiệu quả hơn
trong việc gìn giữ các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể”.
Lưu Trần Tiêu (2002), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam
đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật năm 2002. Trong bài viết này, tác giả
khẳng định tầm quan trọng của công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Việt Nam cũng như những giải pháp để bảo tồn và phát huy những di sản ấy.


6

Năm 2006, nghiên cứu sinh Đàm Hoàng Thụ bảo vệ thành công luận án

tiến sĩ với đề tài Nghiên cứu vấn đề bảo tồn di sản văn hóa nghệ thuật trong
giai đoạn hiện nay. Có thể xem đây là cơng trình nghiên cứu khá cơng phu về
lý luận di sản văn hóa thơng qua bức tranh về thực trạng di sản văn hóa nghệ
thuật trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Chí Bền (2007), Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta
hiện nay đăng trên báo Văn hóa. Trong tư cách một nhà nghiên cứu có nhiều
năm quan tâm đến di sản văn hóa, bài báo bàn sâu về cách thức bảo tồn văn
hóa phi vật thể hiện nay.
Phạm Thị Thu Hương - Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học và Hợp
tác quốc tế trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2013), Nghiên cứu thực trạng và
giải pháp bảo tồn di sản văn hóa tại các vùng đang trong q trình cơng
nghiệp hóa, đơ thị hóa ở đồng bằng Sông Hồng. Đề tài đã đề cập đến một vấn
đề rất cấp thiết hiện nay. Đây cũng là đề tài mà Hội đồng đánh giá là khơng
dễ thực hiện vì khối lượng nội dung mà tác giả phải nghiên cứu và xử lý rất
lớn. Tuy nhiên, bằng các phương pháp nghiên cứu kết hợp như thống kê, đánh
giá, phân tích, điều tra xã hội học, điền dã thực tế, tác giả đề tài đã trình bày
được bức tranh chung, bao quát được tình hình thực trạng bảo tồn di sản trong
q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa ở đồng bằng Sơng Hồng bao gồm cả di
sản văn hóa vật thể (các cơng trình kiến trúc, đền, đình, chùa...) và di sản văn
hóa phi vật thể (lễ hội truyền thống, làng nghề thủ công truyền thống, quan
họ, ca trù...); đưa ra những biến đổi tích cực và tiêu cực, những thuận lợi và
khó khăn của việc bảo tồn di sản văn hóa từ đó có những giải pháp, kiến nghị
với cơ quan quản lý nhà nước để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Thứ hai, nhóm các cơng trình nghiên cứu về các di sản văn hóa vật thể
ở thủ đơ Hà Nội cũng như những cơng trình liên quan đến sự lãnh đạo của
Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di
sản văn hóa vật thể ở thủ đô, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới.


7


Nguyễn Chí Bền (Chủ biên) (năm 2010), Bảo tồn, phát huy giá trị di
sản văn hóa vật thể Thăng Long - Hà Nội, nhà xuất bản Hà Nội là một trong
những cơng trình được biên soạn trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của
chương trình nghiên cứu cấp nhà nước KX.09: Phát huy điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội và giá trị lịch sử văn hóa 1000 năm Thăng Long - Hà Nội phục vụ
phát triển tồn diện Thủ đơ. Cuốn sách Bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn
hóa vật thể Thăng Long - Hà Nội tập trung vào các mục đích sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn kinh nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị
của di sản văn hóa vật thể Thăng Long - Hà Nội, tiếp thu những quan điểm
mới về quản lý di sản của một số nước trên thế giới để vận dụng vào công
cuộc bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa vật thể của Thăng
Long - Hà Nội.
- Làm rõ giá trị của di sản văn hóa vật thể Thăng Long - Hà Nội từ
góc tiếp cận di sản văn hoá, bao hàm cả vật thể lẫn phi vật thể trong thời
kỳ cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, để xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, trên địa bàn Hà Nội.
- Làm rõ những nguy cơ, thách thức của công cuộc bảo tồn di sản văn
hố trong bối cảnh đơ thị hố ở thủ đơ; vai trị của chủ thể văn hố trong cơng
cuộc bảo tồn di sản văn hố Thăng Long - Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp bảo tồn phát huy giá trị của các di sản văn hóa
vật thể tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc
khuyến nghị của UNESCO về bảo vệ di sản văn hoá và thiên nhiên; tiếp thu
có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới; và vận dụng sáng tạo
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta vào sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa vật
thể tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội, hướng tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng
Long - Hà Nội.



8

Võ Quang Trọng nghiên cứu về Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể của Thăng Long - Hà Nội (Đề tài khoa học cấp nhà nước,
Viện Nghiên cứu Văn hóa - Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Trong nghiên
cứu này, tác giả khẳng định tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa phi vật thể của Thăng Long - Hà Nội, đồng thời đưa ra các
giải pháp thiết thực nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật
thể của Thăng Long - Hà Nội.
Hiếu Giang (2003), Giá trị văn hóa phi vật thể Thăng Long - Hà Nội
đăng trên Tạp chí Di sản Văn hóa - Bộ Văn hóa Thơng tin, số 3. Qua bài viết
này, tác giả nêy những giá trị của văn hóa phi vật thể Thăng Long - Hà Nội
cũng như những yêu cầu để tiếp tục phát triển giá trị văn hóa phi vật thể
Thăng Long - Hà Nội.
Hai mươi năm đổi mới ở Thủ đô Hà Nội định hướng phát triển đến năm
2010 (2005), nhà xuất bản Hà Nội, cuốn sách là kết quả củaChương trình
nghiên cứu khoa học trọng điểm 01X13. Đây là cơng trình nghiên cứu công
phu, nội dung phong phú, đề cập đến hầu hết các vấn đề cơ bản của quá trình
đổi mới ở Thủ đơ, trong đó có vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị các di sản
văn hóa. Đây cũng là cơng trình tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển của
Hà Nội.
Các đề tài, cơng trình nghiên cứu trên đây dù tiếp cận ở những góc độ
khác nhau nhưng đều nhằm làm toát lên một nội dung đó là những nét cơ bản về
thực trạng cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể ; những
yêu cầu đặt ra trong công tác lãnh đạo, quản lý công tác bảo tồn và phát huy giá
trị các di sản văn hóa vật thể trước yêu cầu mới; những quan điểm cơ bản của
Đảng nói chung, của Đảng bộ Thành phố Hà Nội nói riêng về lãnh đạo, chỉ đạo
cơng tác này… Những thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước đã tạo cơ
sở quan trọng về lý luận và cung cấp nhiều tư liệu cho việc tiếp tục nghiên cứu



9

của học viên về sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội đối với công tác
bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể ở thủ đô, gợi mở cho học
viên những hướng tiếp cận, những định hướng nghiên cứu quan trọng trong quá
trình giải quyết các vấn đề thuộc về nội dung luận văn.
Tuy nhiên, đây vẫn là đề tài với nhiều vấn đề mà học viên phải thực hiện,
từ sưu tầm, hệ thống hóa tư liệu lịch sử đến việc khơi phục quá trình lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội qua các giai đoạn lịch sử của thời kỳ từ
năm 1995 đến năm 2008 để từ đó rút ra những đánh giá, nhận xét về ưu điểm,
hạn chế và nguyên nhân của các ưu điểm, hạn chế đó đồng thời đúc rút những
kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di
sản văn hóa vật thể ở thủ đơ của Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
Bởi vậy đề tài “Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo công tác bảo tồn
và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể ở thủ đơ từ năm 1995 đến năm
2008” là một nghiên cứu cần thiết nhằm hệ thống lại những thành tựu, hạn
chế, kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn góp phần làm rõ q trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh
đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể tại Thủ đô
Hà Nội từ năm 1995 đến năm 2008, qua đó bước đầu đánh giá những thành
tựu, hạn chế, nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm cần thiết trong công
tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể ở thủ đơ nói riêng,
trong cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Nêu lên những yêu cầu đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành
phố Hà Nội trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật

thể ở thủ đô từ năm 1995 đến năm 2008;


10

- Làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội
trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể ở thủ đô
từ năm 1995 đến năm 2008;
- Đánh giá thực trạng, khái quát những thành tựu, hạn chế, chỉ ra
nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm của Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong
công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể ở thủ đô trong
những năm 1995 - 2008.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ
Thành phố Hà Nội đối với công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn
hóa vật thể ở thủ đơ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về hoạt động lãnh đạo công tác
bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể của Đảng bộ Thành phố
Hà Nội.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu về công tác bảo tồn và phát huy giá trị
các di sản văn hóa vật thể của Đảng bộ Thành phố Hà Nội từ năm 1995 đến
năm 2008.
- Về không gian: Khảo sát đánh giá công tác bảo tồn và phát huy giá trị
các di sản văn hóa vật thể trên địa bàn Thủ đô Hà Nội do Đảng bộ Thành phố
Hà Nội quản lý.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Đề tài dựa trên cơ sở những quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà

nước ta về việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, truyền thống của
dân tộc, những di sản văn hóa vật thể...


11

- Các văn bản, nghị quyết, quyết định của Uỷ ban nhân dân Thành
phố Hà Nội về công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật
thể ở thủ đơ.
- Các văn bản, nghị quyết của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch về
công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể ở thủ đơ
Hà Nội.
- Các văn bản, nghị quyết của Ban Quản lý di tích về cơng tác bảo tồn
và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể ở thủ đơ Hà Nội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu để thực hiện đề tài là phương pháp
lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp hai phương pháp đó.
Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng một số phương pháp khác như phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế… để giải quyết
các vấn đề cụ thể của đề tài.
6. Cái mới của luận văn
- Luận văn hệ thống hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách về cơng
tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể từ năm 1995 đến
năm 2008 của Đảng bộ Thành phố Hà Nội.
- Tiến hành nhận xét, đánh giá kết quả đạt được trong công tác bảo tồn
và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể của Đảng bộ Thành phố Hà Nội
từ năm 1995 đến năm 2008. Từ đó, luận văn rút ra một số kinh nghiệm trong
cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể của Đảng bộ
Thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2008.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoạch định chủ trương và
sự chỉ đạo thực tiễn về công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa
vật thể của Đảng ta nói chung, Đảng bộ Thành phố Hà Nội nói riêng.


12

Luận văn là nguồn tài liệu, tư liệu tham khảo cần thiết, có giá trị lý luận
và thực tiễn đối với công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật
thể của Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong các giai đoạn tiếp theo.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn có nội dung chính bao gồm 3 chương và 8 tiết.


13

Chương 1
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
TỪ NĂM 1995 ĐẾN NĂM 2000
1.1. Những yếu tố tác động đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị
các di sản văn hóa vật thể của Đảng bộ Thành phố Hà Nội
1.1.1. Tình hình nghiên cứu các di sản văn hóa vật thể ở Thủ đô Hà Nội
1.1.1.1. Một số khái niệm về di sản văn hóa vật thể
* Khái niệm “Văn hóa”
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Khi tiếp cận khái niệm văn hóa, tùy từng mục tiêu, mục đích khác nhau
của người nghiên cứu mà dựa trên các cách tiếp cận khác nhau và từ đó hình

thành các định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Ngơn ngữ và Văn hóa Việt
Nam thì văn hóa là những gía trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra
trong lịch sử.
Trong lịch sử, khái niệm văn hóa xuất hiện rất sớm ở phương Đông
cũng như ở phương Tây. Trong thời kỳ Cổ đại ở Trung Quốc, văn hóa được
hiểu là cách thức điều hành xã hội của tầng lớp thống trị dùng văn hóa và giáo
hóa, dùng cái hay, cái đẹp để giáo dục và cảm hóa con người. Văn đối lập với
vũ, vũ công, vũ uy dùng sức mạnh để cai trị.
Quan niệm văn hoá ở phương Tây, văn hoá (Culture - tiếng Anh, tiếng
Pháp) có nguồn gốc từ chữ La tinh “cultus” với nghĩa khởi nguyên là gieo
trồng, vun đắp trong trồng trọt cây lương thực, chăm sóc cây cối từ gieo hạt
nảy mầm, lên cây, đơm hoa kết trái.


14

Sau này chữ “Culture” được mở rộng nghĩa dùng trong xã hội chỉ sự
gieo trồng trí tuệ cho con người, giáo dục đào tạo con người, hình thành phát
triển cộng đồng dân tộc.
Khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng, văn hóa Việt Nam là tổng thể
những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng
tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội; văn hóa là hệ
các giá trị, truyền thống, lối sống; văn hóa là năng lực sáng tạo của một dân
tộc; văn hóa là bản sắc của một dân tộc, là cái phân biệt dân tộc này với các
dân tộc khác.
Trong mục Đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942 - 1943),
Hồ Chí Minh đã viết:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, lồi người mới sáng

tạo và phát minh ra những ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử d ụng. Tồn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó, mà
lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn [46, tr.431].
UNESCO đã đưa ra rấ t nhiề u đinh
̣ nghiã k

hác nhau về văn hóa . Tuy

nhiên, tính đến thời điểm hiện tại , các nhà khoa học Việt Nam mới chỉ chấp
nhâ ̣n mô ̣t đinh
̣ nghiã chin
́ h thức về văn hóa của UNESCO đó là :
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi
mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra
trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng rào thế
kỉ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm


15

mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc
riêng của mình [61, tr.23].
Hiểu một cách đơn giản, văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất, tinh
thần do con người sáng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người.
* Khái niệm “văn hóa vật thể”, “văn hóa phi vật thể”
- Khái niệm “văn hóa vật thể”

Văn hóa vật thể là các giá trị văn hóa tồn tại một cách hữu linh, con
người có thể nhận biết một cách cảm tính, trực tiếp qua các giác quan
(cung điện, chùa tháp, hiện vật trưng bày trong bảo tàng, thắng cảnh thiên
nhiên…) có giá trị văn hóa, lịch sử, khoa học được cộng đồng dân tộc,
nhân loại thừa nhận.
Văn hoá vật thể là một bộ phận của văn hoá nhân loại, thể hiện đời
sống tinh thần của con người dưới hình thức vật chất; là kết quả của hoạt
động sáng tạo, biến những vật và chất liệu trong thiên nhiên thành những đồ
vật có giá trị sử dụng và thẩm mĩ nhằm phục vụ cuộc sống con người. Văn
hóa vật thể quan tâm nhiều đến chất lượng và đặc điểm của đối tượng hiển
nhiên, đến hình dáng vật chất, khiến những vật thể và chất liệu tự nhiên thông
qua sáng tạo của con người biến thành những sản phẩm vật chất giúp cho
cuộc sống của con người. Trong văn hóa vật thể, người ta sử dụng nhiều kiểu
phương tiện: tài nguyên năng lượng, dụng cụ lao động, công nghệ sản xuất,
cơ sở hạ tầng sinh sống của con người, phương iện giao thông, truyền thơng,
nhà cửa, cơng trình xây dựng phục vụ nhu cầu ăn, ở, làm việc và giải trí, các
phương tiện tiêu khiển, tiêu dùng, mối quan hệ kinh tế... Tóm lại, mọi loại giá
trị vật chất đều là kết quả lao động của con người.
- Khái niệm “văn hóa phi vật thể”
Văn hóa phi vật thể là một bộ phận của văn hố nói chung. Theo nghĩa
rộng, đó là tồn bộ kinh nghiệm tinh thần của nhân loại, của các hoạt động trí


16

tuệ cùng những kết quả của chúng, bảo đảm xây dựng con người với những
nhân cách, tác động dựa trên ý chí và sáng tạo. Văn hóa phi vật thể tồn tại
dưới nhiều hình thái. Đó là những tục lệ, chuẩn mực, cách ứng xử... đã được
hình thành trong những điều kiện xã hội mang tính lịch sử cụ thể, những giá
trị và lí tưởng đạo đức, tơn giáo, thẩm mĩ, xã hội, chính trị, hệ tư tưởng,...

Theo nghĩa hẹp, văn hóa phi vật thể được coi là một phần của nền văn hóa,
gắn với cuộc sống tâm linh của con người, thể hiện những giá trị, lí tưởng,
kiến thức.
* Khái niệm “Di sản văn hóa vật thể”
Di sản theo từ điển Tiếng Việt là cái của thời trước để lại. Di sản văn
hóa theo nghĩa Hán Việt là những tài sản văn hóa có giá trị của quá khứ còn
tồn tại trong cuộc sống đương đại và tương lai.
Theo Cơng ước di sản thế giới, di sản văn hóa là các di tích bao gồm
các tác phẩm kiến trúc, tác phẩm điêu khắc và hội họa, các yếu tố hay các cấu
trúc có tính chất khảo cổ học, ký tự, nhà ở trong hang đá và các cơng trình có
sự liên kết giữa nhiều đặc điểm, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm
lịch sử, nghệ thuật và khoa học; các quần thể các cơng trình xây dựng bao
gồm các quần thể các cơng trình xây dựng tách biệt hay liên kết lại với nhau
mà do kiến trúc của chúng, do tính đồng nhất hoặc vị trí của chúng trong cảnh
quan, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật và
khoa học; các di chỉ bao gồm các tác phẩm do con người tạo nên hoặc các tác
phẩm có sự kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo và các khu vực trong đó có
các di chỉ khảo cổ có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, thẩm
mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.
Ở Việt Nam, theo Luật di sản văn hóa năm 2013, di sản văn hóa Việt
Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận
của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước của nhân dân ta.


17

Di sản văn hóa quy định tại luật này bao gồm di sản văn hóa phi vật thể
và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng

hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo Luật di sản văn hóa năm 2013, di sản văn hóa vật thể là sản phẩm
vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn
hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Theo quan niệm của UNESCO, di sản “văn hóa vật thể” (tangible
culture) là những sản phẩm văn hóa hữu hình, tồn tại dưới dạng vật thể có
hình khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng lượng, đường nét, màu sắc và kiểu
dáng…, tồn tại trong không gian và thời gian xác định. Di sản văn hóa vật thể
được tạo tác từ bàn tay khéo léo của con người, để lại dấu ấn lịch sử xã hội rõ
rệt. Văn hóa vật thể được khách thể hóa và tồn tại như một thực thể ngoài bản
thân con người. Di sản văn hóa vật thể ln chịu sự thách thức bào mòn của
quy luật thời gian trong những tác động, chi phối của con người. Di sản văn
hóa vật thể luôn đứng trước nguy cơ biến dạng hoặc thay đổi rất nhiều so với
nguyên gốc.
1.1.1.2. Tầm quan trọng của công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di
sản văn hóa vật thể
Giá trị di sản văn hóa là tổng hợp các giá trị ẩn chứa trong các cơng
trình văn hóa, là kết quả của hoạt động sáng tạo, biến những vật và chất liệu
trong thiên nhiên thành những đồ vật có giá trị sử dụng và thẩm mỹ nhằm
phục vụ cuộc sống con người.
Từ điển Tiếng Việt cắt nghĩa, bảo tồn là giữ lại không để cho mất đi.
Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật, hiện tượng theo dạng thức
vốn có của nó. Bảo tồn là khơng để mai một, khơng để bị thay đổi, biến hóa
hay biến thái. Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, khơng có khái niệm


18

“cải biến”, “nâng cao” hoặc “phát triển”. Hơn nữa, khi nói đối tượng bảo tồn
“phải được nhìn là tinh hoa”, chúng ta đã khẳng định giá trị đích thực và khả

năng tồn tại theo thời gian, dưới nhiều thể trạng và hình thức khác nhau của
đối tượng được bảo tồn.
Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt lan rộng tác dụng và tiếp tục phát
triển thêm. Khái niệm "bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá" theo Luật di
sản văn hóa năm 2013, khái niệm "bảo vệ" được sử dụng nhằm mục đích đề
cao tính pháp lý của hoạt động tổ chức quản lý, giữ gìn, đặc biệt là việc xây
dựng, ban hành và kiểm tra việc thực hiện các văn bản có tính pháp quy để
xác định đối tượng và khu vực bảo vệ của các di sản. Mặt khác, khái niệm này
cũng bao hàm các hoạt động khác như tu sửa, tôn tạo, bảo quản, gia cố...
nhằm duy trì tính ngun gốc và sự tồn vẹn của các di sản văn hố.
Di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) được xác định là bộ phận quan
trọng cấu thành môi trường sống của con người. Di sản văn hóa là loại tài sản
quý giá không thể tái sinh và không thể thay thế nhưng rất dễ bị biến dạng do
tác động của các yếu tố ngoại cảnh (khí hậu, thời tiết, thiên tai, chiến tranh, sự
phát triển kinh tế một cách ồ ạt, sự khai thác khơng có sự kiểm sốt chặt chẽ.
Và cuối cùng là việc bảo tồn, trùng tu thiếu chuyên nghiệp không theo đúng
những chuẩn mực khoa học…).
Việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể chính là một
định hướng quan trọng nhằm hỗ trợ phát triển du lịch. Khoản 3 Điều 10 Pháp
lệnh Du lịch quy định tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch
sử, di tích cách mạng, quá trình lao động sáng tạo của con người có thể được
sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch; hình thành các điểm du lịch, khu du
lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch. Như vậy, nếu làm tốt việc bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa vật thể chính là góp phần bảo tồn và phát huy giá trị
nguồn tài nguyên du lịch của nước ta.


19

Mỗi di sản văn hóa vật thể đều mang trong nó nhiều giá trị khác nhau như

giá trị lịch sử, giá trị giáo dục truyền thống, giá trị văn hóa và cả giá trị kinh tế du
lịch, bởi vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị ấy có ý nghĩa rất quan trọng.
Các di sản văn hóa vật thể chứa đựng những giá trị lịch sử to lớn, là
bằng chứng vật chất phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng.
Việc bảo tồn các di sản văn hóa vật thể cũng chính là lưu giữ và phát
huy những giá trị lịch sử cách mạng của dân tộc qua những khung cảnh, hiện
vật, những hình ảnh chân thực nhất, những bằng chứng sinh động nhất để
minh chứng cho một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc. Bên cạnh đó,
những di sản văn hóa vật thể cũng là bằng chứng, nguồn dữ liệu để các nhà sử
học và khách tham quan có thể nghiên cứu, tìm hiểu, học tập, làm cơ sở
chứng minh cho nhiều vấn đề của lịch sử Việt Nam.
Việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể cịn góp phần
giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ.
Những di sản văn hóa vật thể khơng chỉ giúp thế hệ trẻ ngày nay có
nhận thức đúng đắn về lịch sử mà cịn góp phần làm tăng thêm lịng u nước,
lịng tự hào, tự tơn dân tộc, từ đó tiếp tục phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp
“uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Bên cạnh giá trị về lịch sử, giáo dục truyền thống thì các di sản văn hóa
vật thể cịn chứa đựng giá trị văn hóa. Một bộ phận các di sản văn hóa vật thể
được hình thành từ những cơng trình có sẵn như nhà ở, trụ sở, văn phịng,
những cơng trình kiến trúc, những cơng trình tơn giáo, tín ngưỡng như đình,
đền, chùa… Do vậy, bản thân các cơng trình kiến trúc ấy đã là các di sản văn
hóa chứa đựng trong mình những giá trị văn hóa nhất định.
Chính vì nhận thức được rằng các giá trị văn hóa, thiên nhiên của di sản
văn hóa vật thể khơng phải chỉ nhằm phục vụ cơng tác nghiên cứu, học tập
đơn thuần, mà cịn có khả năng đóng góp vào sự phát triển kinh tế của địa


20


phương và cả nước, nên ngoài sự quan tâm của các cấp chính quyền từ Trung
ương đến địa phương, các di sản văn hóa vật thể cịn nhận được sự tham gia
ngày càng tích cực của cộng đồng vào quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di
sản. Tuy nhiên, tuỳ theo cách hiểu và cách tiếp cận của mỗi đối tượng mà di
sản được đầu tư, khai thác theo những chiều hướng khác nhau, do đó những
tác động tích cực đối với sự phát triển bền vững của di sản cũng nhiều, nhưng
tác động tiêu cực đối với di sản cũng khơng ít. Nhiệm vụ của những tổ chức,
cá nhân làm công tác quản lý liên quan đến di sản văn hóa vật thể là cần xem
xét điều chỉnh để những yếu tố tích cực ngày càng được phát huy, những tác
động tiêu cực đối với di sản văn hóa vật thể ngày càng được kiểm sốt tốt
hơn, giảm thiểu dần theo năm tháng cùng sự phát triển của đất nước, tiến tới
triệt tiêu hẳn, nhằm tạo sự ổn định, bền vững cho di sản văn hóa vật thể.
Sự phát triển du lịch tại các điểm di sản văn hóa vật thể khơng chỉ tạo
điều kiện để các hoạt động dịch vụ du lịch như nhà hàng, khách sạn, qn trọ,
xích lơ, ca nhạc, vũ trường, nhiếp ảnh, hướng dẫn du lịch... phát triển. Di sản
văn hóa vật thể cịn góp phần thúc đẩy các ngành giao thơng, hàng khơng hoạt
động mạnh mẽ hơn.
Ngồi việc tạo cơng ăn việc làm trực tiếp cho người dân địa phương và
gián tiếp cho các ngành nghề khác như nêu ở trên, việc bảo tồn và phát huy
giá trị các di sản văn hóa vật thể cịn thúc đẩy cơng tác nghiên cứu, thúc đẩy
việc học tập ngoại ngữ và chuyên môn nghiệp vụ nhằm phục vụ du lịch của
các cán bộ, nhân viên ngành du lịch, ngành bảo tồn và phát huy giá trị di sản
cũng như cộng đồng cư dân địa phương. Các nội dung chuyên môn liên quan
đến di sản cũng được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn, qua đó trình độ chun
mơn của đội ngũ cán bộ nghiệp vụ được nâng lên rõ rệt. Điều đó góp phần
khơng nhỏ vào chất lượng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
vật thể cũng như công tác phát triển du lịch.


21


Giữa bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể có mối quan
hệ mật thiết với nhau. Xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị
các di sản văn hóa vật thể Việt Nam là nhằm mục đích xây dựng văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bởi vì việc bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn
hóa truyền thống chính là để làm cho văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Bảo tồn văn hóa khơng phải là hoạt động cản trở sự phát huy giá trị văn
hóa, mà trong một chừng mực nào đó cịn là cơ sở cho sự phát huy giá trị văn
hóa theo đúng hướng. Bản thân quá trình phát huy giá trị văn hóa có sự đào thải
yếu tố văn hóa lỗi thời, lạc hậu, không phù hợp với hiện thực khách quan. Sẽ là
sai lầm khi coi bảo tồn văn hóa triệt tiêu sự phát huy giá trị văn hóa và ngược
lại phát huy giá trị văn hóa sẽ triệt tiêu bảo tồn văn hóa. Bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa có thể được coi là thúc đẩy nhau; bảo tồn văn hóa giữ vai trị là
cơ sở góp phần thúc đẩy phát huy giá trị văn hóa. Bên cạnh đó, thơng qua phát
triển văn hóa, con người nhận thức và thực hiện hoạt động bảo tồn văn hóa
nhằm thể hiện bản sắc riêng của mình. Cũng bởi tầm quan trọng của việc bảo
tồn văn hóa mà trong quá trình phát triển chứa đựng sự đánh giá, xác lập vị thế
của yếu tố văn hóa mới dựa trên nền tảng giá trị đã được bảo tồn.
1.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với công tác bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa từ năm 1995 đến năm 2000
1.1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử
Sau 10 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, Việt Nam từng
bước khẳng định vị thế của quốc gia trong xu thế phát triển chung của khu
vực và thế giới. Thành tựu to lớn, quan trọng của 10 năm đổi mới đã làm thay
đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của Việt Nam, chính trị - xã hội ổn định, quốc
phịng - an ninh được củng cố, quan hệ đối ngoại rộng mở. Đất nước đang
đứng trước những cơ hội phát triển mới, song cũng phải đối mặt với những
thách thức gay gắt. Thời cơ lớn được tạo ra trước hết do thành tựu của công



×