Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Điều trị viêm khớp thiếu niên tự phát ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.39 KB, 5 trang )

Điều trị viêm khớp thiếu niên tự phát

Các vị trí khớp lớn trong cơ thể.
Do đặc thù bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát thường bắt đầu ở tuổi thiếu
niên, tổn thương nhiều vị trí, có thể có những biến chứng ảnh hưởng xấu đến việc
học tập, sinh hoạt của trẻ nên việc điều trị cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các
chuyên khoa như thấp khớp học, nhi khoa, phục hồi chức năng, chuyên gia tâm lý
kết hợp với sự chăm sóc của gia đình và hỗ trợ của nhà trường
Mục đích của điều trị là kiểm soát tiến triển của bệnh càng sớm càng tốt
nhằm hạn chế đến mức tối đa những thương tổn gây phá hủy và biến dạng khớp,
tối ưu hóa các vận động khớp nhằm đạt tới chức năng khớp bình thường cho bệnh
nhân. Điều trị bao gồm các biện pháp không dùng thuốc, điều trị dùng thuốc và
các biện pháp điều trị ngoại khoa.
Các biện pháp không dùng thuốc:
Vật lý trị liệu nhằm duy trì đến mức tối đa tầm vận động của khớp, tránh
cứng khớp, dính khớp. Có thể dùng các biện pháp như sóng ngắn, tia hồng ngoại,
tắm suối khoáng, tập các bài tập phục hồi chức năng vận động khớp Tuy nhiên,
trong thời gian đau nhiều có thể tạm thời bất động khớp nhưng cần lựa chọn tư thế
sao cho giữ được biên độ vận động lớn nhất.
Cố gắng duy trì các sinh hoạt thường ngày của trẻ như khuyến khích trẻ
tham gia các hoạt động xã hội, học tập ở trường lớp bình thường như những đứa
trẻ khác. Tuy nhiên trong những đợt tiến triển nên cho trẻ nghỉ ngơi, chế độ dinh
dưỡng tốt và đặc biệt có giấc ngủ đầy đủ.
Các biện pháp dùng thuốc bao gồm 3 nhóm thuốc chính: thuốc giảm đau
thông thường, thuốc chống viêm giảm đau và các thuốc điều trị cơ bản tức thuốc
tác động vào hệ thống miễn dịch của cơ thể nhằm làm giảm, khống chế quá trình
viêm khớp.
Thuốc giảm đau đơn thuần như paracetamol đơn thuần hay phối hợp với
codein.
Thuốc chống viêm giảm đau bao gồm thuốc chống viêm giảm đau không
steroid (NSAIDs) và steroid. Hầu hết trẻ đáp ứng tốt với nhóm thuốc NSAIDs như


aspirin, ibuprofen, naproxen, hoặc các thuốc thế hệ mới hơn như diclofenac,
meloxicam, celecoxib. Chú ý các tác dụng phụ của nhóm thuốc này, đặc biệt tác
dụng độc trên đường tiêu hóa, độc cho gan thận. Thuốc chống viêm nhóm
corticosteroid cũng là một nhóm thuốc quan trọng, thường được chỉ định trong các
đợt tiến triển của bệnh khi sưng đau nhiều khớp hoặc khi viêm khớp thiếu niên tự
phát có tổn thương nội tạng. Thuốc thường được sử dụng trong thời gian ngắn,
thường là prednisolone hoặc các thuốc cùng nhóm khác, dùng một lần vào buổi
sáng, đường uống hoặc tiêm truyền tĩnh mạch. Thường khi kiểm soát tốt tình trạng
viêm cần giảm liều nhanh, chuyển sang thuốc NSAIDs. Chú ý thuốc khi dùng kéo
dài có thể gây nhiều tác dụng phụ toàn thân, thậm chí gây ảnh hưởng đến sự phát
triển thể chất, tinh thần của trẻ. Một dạng khác của nhóm corticosteroid là tiêm
vào khớp hoặc phần mềm cạnh khớp, được chỉ định trong thể viêm một hoặc vài
khớp hoặc trong các thể có viêm điểm bám tận mà đáp ứng kém với điều trị toàn
thân. Chú ý chỉ định tiêm khớp bởi các bác sĩ đào tạo sâu về chuyên ngành cơ
xương khớp và cần đảm bảo điều kiện vô trùng tuyệt đối.
Thuốc điều trị cơ bản hay còn gọi là thuốc thay đổi cơ địa, thuốc điều trị cơ
bản tác dụng chậm do thuốc không có tác dụng ngay khi điều trị mà thường chỉ có
tác dụng sau vài tuần đến vài tháng. Tùy vào thể bệnh mà nhóm thuốc này thường
được khuyến cáo sử dụng ngay từ giai đoạn sớm của bệnh. Một số thuốc trong
nhóm như methotrexat, salazopyrin, thuốc chống sốt rét tổng hợp Methotrexat là
thuốc được dùng phổ biến nhất trong điều trị viêm khớp thiếu niên tự phát. Chú ý
bổ sung acid folic với liều từ 5- 10mg/tuần nhằm hạn chế các tác dụng phụ của
methotrexat, đặc biệt là tác dụng phụ gây tăng men gan. Một số tác dụng phụ khác
như xơ phổi, tổn thương gan, thận có thể nặng nề nên cần phải theo dõi sát sao.
Thuốc chống sốt rét tổng hợp như chloroquin hay hydroxychloroquin là thuốc có
tác dụng điều trị tốt với thể tổn thương da hay viêm một hoặc vài khớp. Các tác
dụng phụ có thể gặp như rối loạn tiêu hóa, nổi ban, suy tủy xương, tổn thương mắt
đặc biệt tổn thương võng mạc không hồi phục có thể gây mù. Vì vậy, cần theo dõi
biến chứng trong quá trình điều trị như kiểm tra mắt mỗi 4 – 6 tháng một lần nhằm
kiểm tra màu sắc, thị lực, thị trường; làm xét nghiệm công thức máu, xét nghiệm

men gan, thậm chí sinh thiết gan để đánh giá tình trạng viêm gan do thuốc Một
thuốc khác là sulphasalazine được lựa chọn đầu tay trong những trường hợp viêm
khớp có HLA B27 dương tính (viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm nhiều điểm
bám tận hay thể viêm cột sống dính khớp). Thuốc có những tác dụng phụ như
buồn nôn, nôn, loét họng, giảm bạch cầu trung tính. Các tác dụng phụ hiếm gặp là
giảm tiểu cầu hay giảm cả ba dòng, tổn thương gan, phổi. Khi dùng thuốc cần theo
dõi công thức máu, men gan, tổng phân tích nước tiểu hàng tuần cho đến khi đạt
được liều duy trì, sau đó kiểm tra hàng tháng. Một số thuốc khác hiện ít được sử
dụng như D- penicillamine, muối vàng, cyclophosphamid, cyclosporin A Ngày
nay, một số thuốc mới được đưa vào sử dụng và cho những hiệu quả tốt như
etanercept, infliximab: đây là những thuốc tác nhân sinh học có tác dụng chẹn các
cơ quan thụ cảm của yếu tố hoại tử u (TNFa) không cho chúng tương tác với các
TNF trên tế bào bề mặt từ đó cắt đứt quá trình viêm. Thuốc đang được nghiên cứu
sử dụng điều trị cho trẻ em bị viêm khớp nặng và không đáp ứng điều trị với
methotrexate. Thuốc chứng tỏ có hiệu quả cao đối với những trường hợp viêm
khớp có tổn thương nội tạng. Tác dụng phụ hay gặp là nhiễm trùng nặng, một số
trường hợp có thể gây ung thư. Ngoài ra, một số phương pháp điều trị khác như
truyền tĩnh mạch globulin miễn dịch, dùng kháng thể đơn dòng, kháng cytokin
đang được nghiên cứu để ứng dụng điều trị bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát.
Các biện pháp điều trị ngoại khoa như nội soi khớp, rửa khớp, cắt bỏ màng
hoạt dịch được chỉ định trong những trường hợp viêm khớp kéo dài, không đáp
ứng với các phương pháp điều trị khác đặc biệt là những khớp trung bình và lớn
như khớp gối, khớp vai. Thay khớp một phần hay toàn bộ nhằm giảm đau, gỡ dính
khớp tránh tình trạng bất động kéo dài do khớp bị tổn thương nặng. Chủ yếu là
thay khớp gối và khớp háng.

×