Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Để dùng thuốc chữa gút hiệu quả và tránh tai biến doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.22 KB, 5 trang )

Để dùng thuốc chữa gút hiệu
quả và tránh tai biến
Người bị bệnh gút thường điều trị ngoại trú. Do không được chẩn đoán
chắc chắn, không khám định kỳ, làm các xét nghiệm cần thiết, nên việc dùng
thuốc đôi khi chưa đúng, làm hạn chế hiệu quả điều trị, đôi khi gây tai biến
cho người dùng.
Các thuốc điều trị
Colchicin
Môi trường acid dễ làm kết tủa urat gây bệnh gút. Colchicin ức chế sự thực
bào của bạch cầu trung tính với tinh thể urat (tạo ra chất ngăn cản sự vận chuyển
các vật liệu bị thực bào đến các thể tiêu bào, giữ cho môi trường bình thường) nên
được dùng điều trị cơn cấp tính và dự phòng khởi phát đợt cấp. Muốn có hiệu quả
phải dùng ngay khi khởi phát đợt cấp. Thuốc có thể gây nôn, tiêu chảy (xảy ra
trước khi giảm triệu chứng đau). Thận trọng với người có bệnh về dạ dày, ruột,
thận, gan, tim, loạn thể tạng máu và không dùng khi các bệnh này ở mức trầm
trọng. Thận trọng khi dùng cho người già, sức yếu, thai nghén, nuôi con bú.
Không dùng thuốc lâu dài vì có thể gây bệnh về cơ.
Kháng viêm không steroid (NSAID)
Là thuốc chọn lựa đầu tiên, thường dùng ít nhất là 5-7 ngày khi người bệnh
bị đau mà chưa điều trị hoặc dùng phối hợp với thuốc dự phòng. Các NSAID thế
hệ cũ (ức chế COX1,COX-2) và mới (ức chế chọn lọc COX-2) có hiệu quả như
nhau. Lựa chọn thuốc phải căn cứ vào chống chỉ định thuốc đối với từng cá thể
(ví dụ người bị bệnh tim, không nên dùng các NSAID thế hệ mới). Không dùng
NSAID cho người suy thận, loét dạ dày đang tiến triển, suy tim sung huyết hay có
mẫn cảm với thuốc.
Các coricoid
Khi bệnh có ảnh hưởng đến khớp thì có thể dùng tiêm vào khớp hoặc khi bị
gút đa khớp khó điều trị bằng các phương pháp khác thì dùng tiêm bắp hay uống.
Việc tiêm vào khớp chỉ dùng theo chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa, khi chắc
chắn không bị nhiễm khuẩn khớp, không bị nhiễm khuẩn da ở chỗ tiêm (nếu
không sẽ gây nhiễm khuẩn tại khớp hoặc lan rộng ra toàn thân, gây nhiễm khuẩn


huyết). Việc tiêm corticoid vào khớp phải được thực hiện bởi người biết giải phẫu
để tiêm đúng vào vị trí (nếu không sẽ không có hiệu quả, tiêm chệch vào cơ,
xương, mạch máu, dây thần kinh quanh khớp có thể gây teo cơ, xốp xương, mất
chức năng vận động khớp). Cần tiêm đúng liều, đúng số lần, khoảng cách giữa các
lần. Đối với thuốc uống cần uống theo liều giảm dần, chỉ trong thời gian ngắn
(không quá 10 ngày) theo chỉ định để tránh tác dụng phụ (giữ nước muối, gây rối
loạn chức năng thận).

Hình ảnh ứ đọng tinh thể acid uric.
Thuốc dự phòng
Các thuốc dự phòng gút gồm các thuốc allopurinol, các thuốc thải acid uric.
Chỉ dùng thuốc dự phòng cho những người có hơn 3 đợt cấp trong năm. Với người
không có triệu chứng chỉ dùng thuốc dự phòng khi xét nghiệm thấy lượng acid
uric ở nước tiểu trong 24 giờ lớn hơn 1.100mg, hoặc khi nồng độ acid uric trong
máu cao, kéo dài.
Allopurinol
Allopurinol ức chế enzym xanthin oxidase (đây là enzym chuyển xanthin,
hydroxanthin thành acid uric) và giảm sản xuất acid uric nên được dùng dự phòng
khởi phát đợt cấp. Chỉ dùng thuốc khi lượng acid uric ở nước tiểu trong 24 giờ
vượt quá 800mg ở nam và 750mg ở nữ. Không nên dùng ngay hoặc trong vòng 3-
4 tuần đầu sau khi khởi phát đợt cấp (nhằm tránh kéo dài đợt cấp). Trong dự
phòng, cần dùng kèm với colchicin hoặc NSAID (liều thấp) cho đến khi nồng độ
acid uric máu trở về bình thường, sau đó tiếp tục dùng ít nhất một tháng nữa hoặc
cho đến khi tan sỏi urat (tổng cộng khoảng 2 - 3 tháng).
Bắt đầu dùng liều thấp (thường liều duy nhất 100mg/ngày), sau tăng dần
mỗi 3-4 tuần một lần cho đến khi nồng độ acid uric máu trở lại bình thường (liều
thường dùng đạt đến 200-300mg/ngày, đôi khi phải dùng đến liều cao 600-
900mg/ngày). Nếu xuất hiện một đợt cấp phải giữ liều allopurinol không đổi và
đợt cấp được điều trị theo cách thông thường.
Allopurinol gây độc cho thận. Khi độ lọc cầu thận giảm thì phải giảm liều

hoặc giãn khoảng cách giữa các lần dùng. Khi dùng phải uống nhiều nước (để
nước tiểu bài tiết trong 24 giờ đạt khoảng 2 lít), duy trì nước tiểu trung tính hoặc
kiềm.
Các thuốc thải uric: Gồm benzbromaron, probecnecid, sulphipyrazon
Các thuốc trên dùng cho người không dung nạp allopurinol hoặc phối hợp
với allopurinol khi dùng đơn độc một loại kém hiệu quả.
Khi dùng thuốc, phải uống nhiều nước để có đủ lượng nước tiểu thải ra, nếu
không thì sẽ kết tinh urat, gây sỏi. Có thể dùng natri bicarbonat với liều 1-2-
3g/ngày để làm giảm sự kết tinh urat. Trừ benzbromaron đôi khi có thể gây suy
gan tối cấp, cả ba thuốc này chỉ gây rối loạn tiêu hoá và dị ứng nhẹ. Không dùng
thuốc cho người có sỏi urat.
Đối với người bị gút, người bệnh cần khám lâm sàng, xét nghiệm chắc chắn
mới dùng thuốc. Khi dùng thuốc, bệnh nhân cần dùng đúng từng loại thuốc cho
mỗi giai đoạn, đúng thời điểm, đúng liều, đúng thời gian. Trong quá trình điều trị,
cần khám định kỳ cả lâm sàng và xét nghiệm (chỉ số chức năng gan thận, đếm
máu, đo lượng acid uric trong tiểu, máu ) để điều chỉnh liều thuốc cho phù hợp.

×