Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài nguyên giáo dục mở - Cơ hội đối với hệ thống thư viện công cộng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.61 KB, 7 trang )

TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ - CƠ HỘI
ĐỐI VỚI HỆ THỐNG THƯ VIỆN CÔNG CỘNG


ThS. Kiều Thúy Nga1, ThS. Lê Đức Thắng1

MỞ ĐẦU

Tài nguyên giáo dục mở (OER) được UNESCO khởi xướng
năm 2002 đã được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ nhiều tổ chức, cá nhân,
trường đại học, cơ sở giáo dục, đào tạo, các thư viện trên toàn thế giới [2].
Ở nước ta, những năm gần đây, nhận thấy tầm quan trọng, vai trò
to lớn và cơ hội của Tài nguyên giáo dục mở đối với giáo dục, đào tạo
nhất là giáo dục đại học, một số mơ hình OER đã xuất hiện, đặc biệt là
sự ra đời của Thư viện Học liệu Mở Việt Nam () bước
đầu đã đạt được những kết quả quan trọng, làm nền tảng cho sự phát
triển OER và cộng đồng OER ở nước ta trong tương lai.
OER ra đời với triết lý “cho đi – nhận lại” trên nguyên tắc cộng
đồng cùng hợp tác [2], mục tiêu chính là cung cấp tài nguyên dạng số
một cách tự do và mở cho giáo viên, người làm công tác giáo dục, sinh
viên, học viên, những người học độc lập có thể sử dụng, chia sẻ, tái sử
dụng cho mục đích giảng dạy, học tập và nghiên cứu.
Tính cộng đồng, phục vụ cộng đồng của OER khá tương đồng với
mục tiêu của các thư viện công cộng (TVCC), mặc dù đối tượng người
sử dụng có sự khác biệt, tuy nhiên TVCC và OER hồn tồn có thể hỗ
trợ lẫn nhau.
Bài viết trình bày một số suy nghĩ về cơ hội và thách thức của
OER đối với hệ thống thư viện công cộng ở Việt Nam trong việc tạo lập
1Thư viện Quốc gia Việt Nam.



512

XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ

nguồn thông tin dạng số, cung cấp thêm điều kiện cho việc học tập suốt
đời của cộng đồng.
1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC

- Nhận thức được tầm quan trọng của Tài nguyên giáo dục mở trong
việc đổi mới giáo dục, ngay từ năm 2005, tại Nghị quyết số 14/2005/
NQ-CP, do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 02/01/2005 “Về đổi
mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006–2020”,
tại Nhiệm vụ và giải pháp đổi mới đã nêu rõ “sử dụng công nghệ thông
tin và truyền thông trong hoạt động dạy và học. Khai thác các nguồn tư
liệu giáo dục mở và nguồn tư liệu trên mạng Internet”, đây được coi là
1 trong 3 tiêu chí quan trọng để đổi mới phương pháp đào tạo [6].
- Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương “Về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã được hội nghị Trung ương 8
(khóa XI) thơng qua ngày 4/11/2013 đã có định hướng cụ thể là “Xây
dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý
tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội
học tập…” và “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ
thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” [5].
- Tại Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 09/01/2013 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 2020” phần Nhiệm vụ, giải pháp cũng xác định: “tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong việc cung ứng các chương
trình học tập suốt đời cho mọi người” [7].
- Về quan điểm của Chính phủ liên quan đến đổi mới giáo dục,

ngày 5/8/2016, tại Hội nghị tổng kết năm học 2015 - 2016, triển khai
nhiệm vụ năm học mới 2016 – 2017, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Xuân Phúc tiếp tục chỉ đạo “Cần tập trung sức lực thực hiện thành cơng
đổi mới căn bản tồn diện nền giáo dục, xây dựng nền giáo dục mở,
thực học và liên thông”. [1]


PHẦN 4. THỰC TRẠNG VÀ KINH NGHIỆM TRIỂN KHAI TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ

513

Như vậy, về chủ trương, Đảng, Chính phủ đã hoàn toàn ủng hộ việc
tăng cường “giáo dục mở”, coi đây là giải pháp quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở nước ta, trong “giáo dục mở” thì “tài
ngun giáo dục mở” đóng vai trò then chốt, vấn đề còn lại phụ thuộc vào
sự hưởng ứng và có chương trình hành động cụ thể của các bên liên quan,
cụ thể là các cơ quan quản lý (cơ chế, chính sách), các trường đại học, các
cơ sở đào tạo, trung tâm giáo dục, viện nghiên cứu, các thư viện…
2. TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ – CƠ HỘI CHO THƯ VIỆN CÔNG CỘNG

Tài nguyên giáo dục mở được coi là bất cứ tài liệu giảng dạy, học
tập và phương tiện nghiên cứu nào trên bất cứ phương tiện nào nằm
trong phạm vi miền công cộng (Public domain) hoặc được phát hành
theo một giấy phép mở cho phép bất cứ ai cũng có thể truy cập, sử dụng,
thay đổi mục đích, sử dụng lại và phân phối lại khơng hạn chế hoặc ít
hạn chế (Atkins, Brown & Hammond, 2007) [3].
Với đặc trưng là “mở”, hiện nay OER đang được xem là một nguồn
tài nguyên thông tin khoa học quan trọng hỗ trợ cho phổ cập giáo dục,
tạo ra sự bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn tài liệu giáo dục có chất
lượng cao và hồn tồn miễn phí với giấy phép mở, như vậy, qua đó

OER đã góp phần tạo ra sự bình đẳng trong giáo dục.
Đối với hệ thống thư viện công cộng, quan điểm về tạo khả năng
truy cập miễn phí và khơng giới hạn phục vụ cộng đồng trong việc nâng
cao kiến thức, học tập suốt đời đã được UNESCO đề cập trong tuyên
ngôn về thư viện công cộng “Tự do, Thịnh vượng và Phát triển của xã
hội và cá nhân là những giá trị cơ bản của con người. Nhưng những
giá trị đó chỉ đạt được khi họ có đầy đủ thơng tin để thực hiện quyền
dân chủ của mình và đóng một vai trị tích cực trong xã hội. Việc tham
gia xây dựng và phát triển dân chủ phụ thuộc vào nền giáo dục đầy đủ
cũng như truy cập miễn phí và khơng giới hạn về kiến thức, tư tưởng,
văn hố và thông tin.
Thư viện công cộng, cổng kiến thức về địa phương, nơi cung cấp
điều kiện cơ bản cho việc học tập suốt đời, quyết định độc lập và phát
triển văn hóa của cá nhân và nhóm xã hội. [4]


514

XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ

Như vậy, xét về mục tiêu tăng cường tiếp cận thông tin, tri thức cho
cộng đồng thì OER và thư viên công cộng là khá tương đồng. Việc các
OER phát triển, đồng nghĩa với việc sẽ hỗ trợ và thúc đẩy TVCC cũng
sẽ phát triển theo, đảm bảo mục tiêu bình đẳng về tiếp cận, sử dụng
thông tin, và học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập.
Học tập suốt đời có thể được định nghĩa là tất cả các hoạt động học
tập có mục đích, được thực hiện trên cơ sở liên tục với mục tiêu nâng
cao kiến ​​thức, kỹ năng và năng lực. Nó có chứa các loại hình giáo dục
và đào tạo, chính quy, khơng chính quy và khơng chính thức.
Vậy, nếu tham gia OER, TVCC có thể hưởng lợi gì từ OER, và

TVCC có thể làm gì để hỗ trợ OER? Với đặc thù về nguồn tài liệu và
thành phần người dùng tin khá khác biệt, tuy nhiên TVCC vẫn có thể
chủ động tham gia và tích cực đóng góp vào OER. Có thể xét trên 2 khía
cạnh: cơ hội và thách thức.
• Cơ hội
- Tham gia mạng lưới OER, thư viện công cộng sẽ được hưởng
lợi từ chính các thành viên tham gia, đây là nguồn thơng tin giáo dục
có chất lượng cao, từ đó thư viện có được nguồn tài liệu số đa dạng và
phong phú, đặc biệt là miễn phí.
- Giảm kinh phí bổ sung tài liệu (giáo trình, sách tham khảo, chuyên
khảo…) bằng việc tận dụng được nguồn thơng tin số hóa của OER, từ
đó thư viện cơng cộng có thể nâng cao số lượng và chất lượng nguồn
lực thông tin phục vụ cộng đồng.
- Vượt qua được rào cản bản quyền tài liệu: với việc sử dụng các
tài liệu của các OERs, tài liệu mặc định được coi là các tài liệu mở với
các giấy phép sử dụng đã được gắn đối với mỗi tài liệu và được sử
dụng miễn phí, do vậy các thư viện không cần quan tâm đến vấn đề bản
quyền, một trong những trở ngại lớn đối với các thư viện công cộng
trong việc phát triển các nguồn lực số hóa.
- Với việc tích cực tham gia vào mạng lưới OER, thư viện công
cộng sẽ được tiếp cận với phương thức tạo lập và khai thác nguồn tài
ngun thơng tin theo hướng hiện đại, từ đó thay đổi quy trình làm việc,


PHẦN 4. THỰC TRẠNG VÀ KINH NGHIỆM TRIỂN KHAI TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ

515

từng bước nâng cao trình độ đội ngũ nhân lực xử lý tài liệu và phổ biến
thông tin, có thêm các kỹ năng về tạo lập và phát triển nguồn thơng tin

trực tuyến trên Internet.
• Thách thức
- Khả năng đóng góp tài liệu, với đặc thù là thư viện công cộng,
phục vụ cộng đồng, cơ cấu, thành phần vốn tài liệu của TVCC là đa
dạng, phong phú, nhưng lại không chuyên sâu vào một lĩnh vực cụ thể,
tuy nhiên, trước mắt, TVCC hồn tồn có thể đóng góp bằng những tài
liệu nằm ngồi phạm vi bảo hộ bản quyền như: văn bản pháp luật, tài
liệu hết thời hạn bảo hộ bản quyền…
- Đóng góp nhân lực tham gia xử lý tài liệu, kiểm soát chất lượng
tài liệu, tư vấn người sử dụng khai thác thông tin và tạo ra thông tin mới:
TVCC với đội ngũ nhân lực được đào tạo về nghiệp vụ thư viện, có kỹ
năng xử lý tài liệu số hồn tồn có khả năng tham gia đội ngũ xử lý tài
liệu số, kiểm soát chất lượng tài liệu góp phần vào việc nhanh chóng
phổ biến tài liệu. Ngồi ra, TVCC có thể tư vấn, định hướng, hỗ trợ
người sử dụng tìm kiếm, khai thác nguồn tài liệu OER tại các TVCC.
- Phối hợp với hệ thống giáo dục tạo ra mạng lưới OER rộng khắp:
Hệ thống thư viện công cộng với thế mạnh là có mạng lưới rộng khắp
cả nước có thể phối hợp với OER tạo ra mạng lưới người sử dụng rộng
lớn, lan tỏa tới cộng đồng, chứ không chỉ ở tại các cơ sở giáo dục.
3. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

• Đối với các cơ quan quản lý các cấp
- Tích cực ủng hộ việc phát triển OER bằng việc ban hành các văn
bản pháp luật công nhận và hỗ trợ cho OER. Có những giải pháp cụ thể
tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong thời điểm hiện tại, tạo cơ sở pháp
lý vững chắc cho OER phát triển.
• Đối với các thư viện cơng cộng
- Tích cực ủng hộ và tham gia vào các mạng lưới OERs bằng việc
tăng cường đóng góp tài liệu (nhất là những tài liệu mới) và đóng góp
nhân lực tham gia và phối hợp thực hiện.



516

XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực về nghiệp
vụ thư viện hiện đại, thư viện số và đội ngũ người làm công nghệ thông
tin, hỗ trợ hiệu quả cho OER.
- Tăng cường tư vấn, quảng bá các nguồn OER tới cộng đồng.
- Tăng cường cơ sở vật chất tại mỗi thư viện, tạo điều kiện thuận
lợi để người sử dụng khai thác OER một cách hiệu quả.
KẾT LUẬN

OER không chỉ tạo ra cơ hội lớn cho việc cải thiện chất lượng
giáo dục tại Việt Nam mà cịn là cơ hội lớn cho các thư viện cơng cộng
trong điều kiện kinh phí cấp cho hoạt động rất hạn chế, ngân sách hằng
năm dành cho công tác bổ sung tài liệu mới, nhất là tài liệu ở dạng giáo
trình, tài liệu tham khảo, chuyên khảo… là rất thấp. Khi OER phát triển,
TVCC sẽ có một nguồn tài liệu dạng số vơ cùng quan trọng và có chất
lượng phục vụ cộng đồng, đáp ứng nhu cầu học tập, tự học tập suốt đời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Lưu Ly, Giáo dục phổ thông chưa coi trọng đạo đức, nhân cách.

2.

URL: (Truy cập ngày 05/09/2016).


3.

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Khoa Thông tin – Thư
viện) (2015). Xây dựng nền tảng học liệu mở cho giáo dục đại học Việt
Nam. Đề xuất chính sách, tạo lập cộng đồng và giải pháp công nghệ.

4.

UNESCO, (2013). Guidelines for Open Educational Resources (OER) in
Higher Education.

5.

Truy cập từ: />publications/full-list/guidelines-for-open-educational-resources-oer-inhigher-education/. (Truy cập ngày 05/09/2016).

6.

UNESCO, Public Library Manifesto (Tuyên ngôn UNESCO về thư viện
công cộng).

7.

URL: />html. (Truy cập ngày 05/09/2016).


PHẦN 4. THỰC TRẠNG VÀ KINH NGHIỆM TRIỂN KHAI TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ

517

8.


Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 29NQ/TW ban hành ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương “Về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

9.

Việt Nam, Chính phủ (2005), Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính
phủ, ban hành ngày 02/01/2005 “Về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo
dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006–2020”.

10. Việt Nam, Chính phủ (2013), Quyết định số 89/QĐ-TTg của Chính phủ
ban hành ngày 09/01/2013 “Về phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học
tập giai đoạn 2012 – 2020”.



×