Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Bài văn mẫu Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.67 KB, 23 trang )

12 bài văn mẫu Thuyết minh về một
danh lam thắng cảnh hay nhất
Đề bài: Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh
Bài văn mẫu 1 - Vịnh Hạ Long
Nhắc đến danh lam thắng cảnh, những chốn có non nước hữu
tình trên đất nước Việt nam ta khó lịng khơng nhắc đến vịnh
Hạ Long. Cái tên ấy ai là người Việt nam cũng biết đến. Nó
khơng chỉ đẹp trong hiện tại hay tương lai mà nó cịn đẹp từ
thời xưa trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: "Con gà, con
cóc quê hương cũng biến Hạ Long thành thắng cảnh". Mới đây
vịnh Hạ Long cịn dược UNESCO cơng nhận là một trong bảy kì
quan đẹp nhất thế giới. Vậy khơng biết rằng Hạ Long có những
gì mà lại được tơn vinh đến như vậy?
Vịnh Hạ Long cịn có truyền thuyết đó là Ngọc Hoàng sai Rồng
Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt
đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc
đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy
thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường
đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn
đứng bước tiến của ngoại bang.
Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi
tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đồn kết giúp đỡ
nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con khơng trở về trời mà ở lại hạ giới,
nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt.
Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống
là Bái Tử Long và đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch
Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay, với bãi cát dài trên 15 km).
Lại có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước
có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sơng xi về
phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm
thành bức tường thành chắn bước tiến của thủy quân giặc. Chỗ


rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.


Trước hết về vị trí của vịnh Hạ Long thì nó nằm ở vùng Ðơng
Bắc Việt Nam, vịnh Hạ Long là một phần vịnh Bắc Bộ, bao gồm
vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần
của huyện đảo Vân Ðồn. Phía tây nam Vịnh giáp đảo Cát Bà,
phía đơng là biển, phần cịn lại giáp đất liền với đường bờ biển
dài 120 km, được giới hạn từ 106o58′ – 107o22′ kinh độ Ðông
và 20o45′ – 20o50′ vĩ độ Bắc với tổng diện tích 1553 km2.
Tiếp nữa là về đảo ở đây thì có 1969 hịn đảo lớn nhỏ, trong
đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo nơi đây gồm có
hai dạng đó là đảo đá vơi và đảo phiến thạch tập trung ở Bái tử
long và vinh Hạ Long. Ở đây thì chúng ta thấy được hàng loạt
những hang động đẹp và nổi tiếng. Vùng Di sản thiên nhiên
được thế giới cơng nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775
đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Ðầu Gỗ (phía tây),
hồ Ba Hầm (phía nam), đảo Cống Tây (phía đơng) vùng kế bên
là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hóa
Thơng tin xếp hạng năm 1962.
Đến với Hạ Long thì người ta không thể nào rời mắt khỏi
những cảnh vật nơi đây. Nào là núi, nào là nước với những hang
động thật sự hấp dẫn người ta muốn đi tới tận cùng để tìm thấy
cái hữu hạn trong cái vơ hạn của trời nước, núi non ấy. chúng ta
cứ ngỡ rằng ngọn núi kia giống như những người khổng lồ vậy,
ngồi trong thuyền mà ngước lên để đo tầm cao của những ngọn
núi ấy thật sự là mỏi mắt. Đến đây ta mới biết hết thế nào là sự
hùng vĩ, thế nào là sự hữu tình giữa nước và non. Làn nước biển
mặn mà vị xa xăm của muối. Hang động với những nhũ đá như
sắp rơi xuống nhưng thật chất lại là khơng rơi. Nó cứ tua tủa

như mn ngàn giọt ngọc dạng lỏng lấp lánh dính vào nhau
nhưng khơng rơi xuống.
Con người nơi đây cũng thật sự là rất đáng u đáng q. Họ
khơng những mến khách mà cịn như một người hướng dẫn viên
du lịch vừa nói giới thiệu tả cảnh vừa vững tay chèo đẩy lái đến
nơi khách muốn qua. Những con người ở đây nồng nhiệt mỗi khi
có khách đến và khi khách đi thì để lại những ấn tượng khó phai
về những con người miền non nước hữu tình với những tình cảm
mặn mà như là muối biển vậy.


Qua đây ta thấy vịnh Hạ Long rất xứng đáng là một trong bảy
kì quan của thế giới. Nếu những ai đã được đặt chân đến đây thì
chắc hẳn rất ấn tượng bởi cảnh đẹp và con người nơi đây. Cịn
những ai chưa đến thì hãy nhanh chóng đến mà tận hưởng
những gì là tạo hóa ban tặng, những gì là mẹ thiên nhiên.
Bài văn mẫu 2 - Vịnh Hạ Long
Nước ta có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Trong số đó
khơng thể khơng kể đến Hạ Long. Đó là một kiệt tác của thiên
nhiên, được công nhận là một di sản văn hóa thế giới. Người
Việt Nam ta tự hào vì được sở hữu một danh lam thắng cảnh
đẹp như vậy.
Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc Bộ
tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng
Ninh. Vịnh Hạ long được hình thành do sự vận động của đá và
nước, là một tác phẩm nghệ thuật địa lí được hoàn thành sau
hàng triệu năm biến đổi của địa chất. Vịnh Hạ Long giới hạn
trong diện tích khoảng 1.553km² bao gồm 1.960 hòn đảo lớn
nhỏ, phần lớn là đảo đá vơi.
Nói đến vịnh Hạ Long, trước hết phải nói đến vẻ đẹp thần tiên

của non nước mây trời nơi đây. Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ
Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ vơ cùng sống động.
Đó là những tác phẩm tạo hình tuyệt mỹ, tài hoa của tạo hố,
của thiên nhiên biến hàng ngàn đảo đá vơ tri tĩnh lặng kia trở
nên những tác phẩm điêu khắc, hội họa hồn mỹ với mn hình
dáng vẻ u kiều. Hàng ngàn đảo đá nhấp nhơ trên sóng nước
lung linh huyền ảo, vừa khoẻ khoắn hoành tráng nhưng cũng
rất mềm mại duyên dáng, sống động. Đi giữa Hạ Long với muôn
ngàn đảo đá, ta ngỡ như lạc vào một thế giới cổ tích bị hố đá
nơi đây. Đảo thì giống hình ai đó đang hướng về đất liền – hịn
Đầu Người; đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên
mặt nước – Hịn Rồng; đảo thì lại giống như một ơng lão đang
ngồi câu cá – hịn Lã Vọng; và kia hai cánh buồm nâu lực lưỡng
đang rẽ sóng nước ra khơi – hịn Cánh Buồm; rồi hai con gà
đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước – hòn Trống Mái; đứng
giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng


tế trời đất – hòn Lư Hương… Tất cả đều rất thực, thực đến kinh
ngạc. Những đảo đá diệu kỳ ấy biến hố khơn lường theo thời
gian và góc nhìn. Tới đây ta mới nhận ra tất cả chúng không
phải là những hịn đảo vơ tri tĩnh lặng mà như có hồn và đều
sống động.
Tiềm ẩn trong lịng các đảo đá ấy là những hang động tuyệt
đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, hang
Trinh Nữ, động Tam Cung… Đó thực sự là những lâu đài của tạo
hoá giữa chốn trần gian. Từ xưa, Hạ Long đã được đại thi hào
dân tộc Nguyễn Trãi mệnh danh là "kỳ quan đất dựng giữa trời
cao". Du khách từ khắp năm châu khi đặt chân đến đây đều
cảm thấy vô cùng thích thú trước vẻ đẹp kỳ vĩ của Hạ Long.

Biển ở đây còn mang một vẻ đẹp rất riêng khi hồng hơn bng
xuống. Mặt vịnh lúc này được nhuộm một sắc màu đỏ rực của
những tia nắng cuối cùng. Cảnh sắc quyện lại dệt nên những
gam màu tuyệt diệu. Khi màn đêm buông xuống, vào những
đêm trăng, mặt nước như được dát bạc quyện với màu sẫm của
những đảo đá mờ xa khiến cho vịnh Hạ Long trở nên huyền ảo
như thật như mơ.
Hùng vĩ và bí ẩn, đầy cảm hứng và vô cùng độc đáo , vịnh Hạ
Long thật xứng đáng là một trong những kỳ quan thiên nhiên
đẹp nhất. Những hòn đảo nhỏ như được chấm lên trên nền xanh
ngọc của biển, cùng theo đó là những hang động kỳ bí được tạo
nên bởi sóng và gió, những cánh rừng xanh biếc rộn rã tiếng
chim hót, thật kỳ ảo. Sương mù có thể làm cho tầm nhìn bị hạn
chế nhưng lại góp phần làm cho vịnh Hạ Long thêm lung linh kỳ
ảo. Ta đang ngỡ ngàng trước cảnh vật thơ mộng này, thoắt đã
hiện lên cảnh vật khác, mới lạ và đầy vẻ quyến rũ. Các ngõ
ngách lúc khép, lúc mở, lúc là hành lang thẳng tắp lung linh
nước trời, lúc uốn lượn dưới chân những quả núi cao vút đổ
bóng râm huyền bí xuống mặt nước yên ắng. Có khi thuyền ta
đang đi, bỗng nhiên một dãy đảo sừng sững vụt hiện lên trước
mặt, chắn ngang lạch nước, ngỡ đã cùng đường. Nhưng không,
khi thuyền ta lướt tới, dãy đảo như né mình, mở ra các lối ngoặt
bất ngờ dẫn ta đi sâu vào rừng đảo vừa quen thuộc lại vừa xa
lạ. Cảnh vật của biển đảo Hạ long thoắt ẩn,thoắt hiện, với sự
biến đổi chừng như giây lát đã làm cho biết bao du khách ngạc
nhiên, say đắm.


Hạ Long cũng là nơi gắn liền với những trang sử vẻ vang, hào
hùng của dân tộc Việt Nam với những địa danh nổi tiếng như

Vân Đồn – nơi có thương cảng cổ sầm uất vào thế kỷ thứ 12; có
núi Bài Thơ lịch sử; cách đó khơng xa dịng sơng Bạch Đằng – là
chứng tích của hai trận thuỷ chiến lẫy lừng của các thế hệ ông
cha chống giặc ngoại xâm. Khơng chỉ có vậy, Hạ Long cịn là
một trong những cái nôi của con người với nền Văn hố Hạ Long
huy hồng thời Hậu kỳ đồ đá mới tại những địa danh khảo cổ
học nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng…
Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những
hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh
thái san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái rừng cây nhiệt
đới… Với hàng ngàn loài động thực vật vô cùng phong phú, đa
dạng như tôm, cá, mực… Có những lồi đặc biệt q hiếm chỉ
có ở nơi đây.
Với các giá trị ngoại hạng về cảnh quan và địa chất, địa mạo
vịnh Hạ Long hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển
ngành kinh tế du lịch với loại hình đa dạng. Đến vịnh Hạ Long,
chúng ta có thể tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học,
tham quan ngắm cảnh, tắm biển, bơi thuyền, thả dù, lặn khám
phá rặng san hô, câu cá giải trí… Vùng vịnh thích hợp cho việc
ni trồng và đánh bắt hải sản do có các điều kiện thuận lợi:
khí hậu tốt, diện tích bãi triều lớn, nước trong, ngư trường ven
bờ và ngồi khơi có trữ lượng hải sản cao và đa dạng với cá
song, cá giị, sị, tơm, bào ngư, trai ngọc các loại.
Hiện nay, vịnh Hạ Long đã được UNESCO cơng nhận là di sản
văn hóa thế giới . Hạ Long là một điểm du lịch hấp dẫn vì cảnh
quan nơi đây thật đẹp và hữu tình. Phong cảnh Hạ Long không
bao giờ bị tẻ nhạt, mỗi một mùa lại mang đến cho Hạ Long một
sắc thái riêng đầy ấn tượng. Mùa xn giữa sóng nước mênh
mơng trong làn sương bạc che phủ, những đảo đá trở nên uyển
chuyển mềm mại, bồng bềnh trên sóng nước. Mùa hè đến, ánh

bình minh ló rạng nơi chân trời, những đảo đá như vươn dậy, từ
mặt nước bao la. Toàn vịnh mang một màu đỏ rực chuyển dần
sang màu xanh lam. Những gợn sóng lăn tăn ánh bạc đua nhau
lướt trên mặt vịnh xô vào bờ. Vịnh Hạ Long là một di sản văn
hóa đáng tự hào của dân tộc.


Ngày nay, vịnh Hạ Long vẫn đang thu hút rất nhiều khách du
lịch trong và ngoài nước đến tham quan, mang lại nhiều lợi ích
cho nước nhà, chúng ta cần ra sức bảo vệ và giữ gìn vịnh Hạ
Long để vịnh ngày càng xanh tươi hơn, mãi mãi là niềm tự hào
của đất nước.
Bài văn mẫu 3 - Hồ Gươm
Đất nước ta được thiên nhiên ưu đãi có rất nhiều danh lam
thắng cảnh đẹp, ở mỗi vùng miền mỗi tỉnh đều có những danh
lam nổi tiếng và mang những nét đặc trưng riêng, một trong
những danh lam thắng cảnh đẹp của nước ta là Hồ Gươm, bất kì
ai đến thành phố Hà Nội du lịch đều không thể bỏ qua Hồ
Gươm, Hồ Gươm khơng chỉ đẹp bởi cảnh vật, có mực nước hồ
xanh biếc, bóng liễu thướt tha mà Hồ Gươm còn gắn liền lich sử
đấu tranh anh hùng bất khuất của nhân dân ta, là một danh
lam thắng cảnh tự hào của người Hà Nội.
Điểm đặc biệt của Hồ Gươm ngồi là danh lam thắng cảnh
đẹp Hồ Gươm cịn là di tích lịch sử của đất nước ta, truyền
thuyết kể rằng thời giặc Minh đô hộ nước ta, chúng rất hung ác,
gây ra nhiều tội ác với nhân dân ta, làm cho nhân dân sống
trong cảnh khổ cực, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, cuộc
khởi nghĩa ban đầu lực lượng mỏng, yếu thế nên thường bị
thua, Đức Long quân đã quyết định cho nghĩa quân mượn thanh
gươm thần để đánh giạc, và từ lúc có gươm thần, Lê Lợi và khởi

nghĩa Lam Sơn đánh đâu thắng tới đó, đánh tan qn sâm lược,
giúp nước ta thốt khỏi ách đô hộ của giặc Minh, một năm sau
Lê Lợi trả lại gươm thần cho Thần Kim Quy, từ đó hồ Tả Vọng
được đổi tên là Hồ Gươm hay hồ Hồn Kiếm.
Có hai hịn đảo trên hồ là đảo Ngọc và đảo Rùa, đầu thế kỷ 19
người ta đã cho xây dựng một ngôi chùa trên đảo Ngọc, và goi
là Chùa Ngọc Sơn, khơng lâu sau đó Chùa Ngọc Sơn không thờ
phật nữa mà chuyển sang thờ thánh Văn Xương và Trần Văn
Đạo nên đổi tên là Đền Ngọc Sơn, năm 1864 Tháp Bút được xây
dựng trên gò Ngọc Bội đối diện với Đảo Ngọc.
Chúng ta sẽ được tận hưởng những không gian cảnh vật thiên
nhiên tuyệt đẹp, trong Hồ Gươm có cầu Thê Húc và đền Ngọc
Sơn, cầu có một đoạn ngắn, cong cong trơng rất đẹp và là lối
duy nhất để du khách có thể vào đền Ngọc Sơn.


Quanh hồ Hoàn Kiếm những cảnh vật xunh quang cũng rất
đẹp, rặng liễu màu xanh rủ xuống hồ, quanh hồ có những ghế
đá để du khách ngồi nghĩ ngơi, tiếng chim hót líu lo, mặt hồ
xanh biếc, cảnh vật thật đẹp, khơng chỉ đắm chìm trong khơng
khí hơi thở của lịch sử mà thiên nhiên quanh hồ cũng rất đẹp.
Đến Hồ Gươm ta thấy còn thấy những bà lão đứa trẻ ngồi ghế
đá nghỉ ngơi, những cặp tình nhân tay trong tay đi dạo phố,
những cô bật nhạc tập thể dục… họ đều tận hưởng cảnh đẹp
của Gươm theo cách riêng của họ, những hoạt động đó làm cho
Hồ Gươm trở lên tấp nập sinh động hơn.
Hồ Gươm không chỉ mang những nét đẹp cổ kính mà cịn
mang nét đẹp hiện đại, là danh lam thắng cảnh đẹp của đất
nước ta, trải qua bao chặng đường phát triển của đất nước Hồ
Gươm vẫn đẹp và trở thành điểm du lịch hấp dẫn đối với các du

khách trong và ngoài nước.
Bài văn mẫu 4 - Hồ Gươm
Đẹp như một lãng hoa giữa lịng thành phố, Hồ Hồn Kiếm
được bao quanh bởi các đường phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái
Tổ, Hàng Khay dài khoảng 1800m. Mặt nước là tấm gương lớn
soi bóng la đà những cây cổ thụ, những rặng liễu thướt tha tóc
rủ, những mái đền, chùa cổ kính, tháp cù rêu phong, các tòa
nhà mới cao tầng vươn lên trời xanh.
Nước hồ xanh ngắt quanh năm nên xưa hồ có tên là hồ Lục
Thủy. Truyển thuyết kể rằng : Khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn
có tìm được lưỡi kiếm báu. Kiếm theo ông suốt 10 năm dài
chống quân Minh xâm lược (thế kỉ XV). Sau khi giành lại được
thành Thăng Long, vua Lê có một buổi dạo thuyền chơi trên hồ,
gặp rùa vàng nổi lên mặt nước. Vua rút kiếm chỉ cho quân sĩ
thấy, thì con rùa đã nhảy lên đớp lấy thanh kiếm rồi lặn mất
tăm. Vua cho là điẻm lành, đất nước có giặc, rùa thần cho mượn
kiếm, nay đã thanh bình nên lấy lại. Bởi vậy đặt tên hồ là Hồ
Hoàn Kiếm (trả gươm), gọi tắt là Hồ Gươm.
Rùa là một trong bốn vật linh (long, lân, quy, phượng) trong
tâm thức văn hóa dân gian. Giống rùa quý này vẫn còn sinh


sống trong lịng hồ, hằng năm, có địi lần nhơ lên mặt nước,
thật hạnh phúc cho du khách nào nhìn thấy rùa nổi lên mặt hồ.
Trong mặt hồ có hai đảo nổi. Đảo lớn là đảo Ngọc ở phía bắc
hồ, gần bờ đơng, có cây cầu Thê Húc sắc đỏ uốn cong nối ra
đảo. Đảo Rùa nhỏ hơn, trên có ngọn tháp cổ ở phía nam hồ,
giữa bốn bể long lanh bóng nước.
Hồ Hồn Kiếm là nơi hội tụ, điểm hẹn của du khách bốn mùa.
Mùa xuân đâm đà lễ hội truyền thống và rực rỡ sắc hoa đào.

Mùa hạ ùa ra từng cơn gió lồng lộng, quạt đi cái oi bức của phô
phường râm ran tiếng ve. Mùa thu với màn sương huyển ảo,
dáng liễu mơ hồ như thực, như hư đã làm say đắm bao nhà
nhiếp ảnh tài hoa. Mùa đông, đi giữa những cơn mưa lá vàng,
chân nhẹ bước lên thảm lá vừa rụng, xuýt xoa với cái rét vùng
Đông Nam Á và những giọt mưa phùn lất phất bay.
Mùa nào tình nấy, Hồ Gươm mãi mãi là dấu ấn vẻ vang thời
giữ nước và khát vọng hịa bình của tổ tiên ta xưa.
Bài văn mẫu 5 - Hồ Gươm
Nói đến Thủ đơ Hà Nội thân u của chúng ta, có thể nhắc
đến Chùa Một Cột — dáng sen vươn lên từ bùn lầy nghìn năm
Bắc thuộc — tiêu biểu cho ý thức tự cường của dân tộc. Hay
Khuê Văn Các — viên ngọc minh châu kết tinh của một nền
khoa học ngàn đời. Nhưng chúng ta vẫn nghe nhắc đến Hồ
Gươm nhiều hơn cả. Nằm trong lòng Hà Nội, thành phố ngàn
năm văn hiến, thành phố vì hịa bình, nơi đây có Tháp Rùa
tượng trưng cho khát vọng hịa bình. Đài Nghiên, Tháp Bút nhắc
đến nền văn vật lâu đời. Chỉ với ba biểu tượng đó, hồ Hoàn
Kiếm đã xứng đáng là trái tim của Thủ đô rồi!
Hồ Gươm không chỉ là thắng cảnh tô điểm thêm vẻ xinh tươi,
dun dáng cho Thủ đơ, mà cịn là một trong những dấu ấn tiêu
biểu của lịch sử ngàn năm văn hiến đất kinh kì Tháng Long —
Đơng Đô - Hà Nội. Để đến tham quan Hồ Gươm, chúng ta có thể
đi từ nhiều con đường khác nhau như Hàng Bài, Tràng Thi, Hàng
Khay hay các khu phố cổ, Hồ Gươm nằm ở trung tâm quận
Hoàn Kiếm, là nơi kết nối giữa các phô" cổ với khu phố Tây do
người Pháp quy hoạch lại cách đây hơn một thế kỉ. Chắc hẳn
chúng ta đều biết Hồ Gươm chính là một dịng chảy cịn sót lại
của sơng Hồng. Cách đây hàng trăm năm về trước, Hồ Gươm ăn



thông với sông Hồng, là một nhánh nhận nước của sông Hồng,
chạy dài qua các phô" Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lí Thường Kiệt,
Hàng Chuối,.. Từ thê" kỉ XIX, khi nước ta đang bị thực dân Pháp
cai trị, do sông Hồng đổi dâng nên Hồ Gươm chỉ cịn là một
sơng nhỏ chạy qua Hàm Cá Mập (bến tàu điện một thời). Vì
thê", để qua sơng, người Pháp đã bắc một chiếc cầu bằng gỗ và
dần dần san đất. Và ngày nay, nơi đó chính là phơ" cầu Gỗ mà
ai cũng biết.
Từ xưa đến nay, Hồ Gươm đã trải qua lịch sử với bao nhiêu
tên gọi khác nhau. Cách đây khoảng sáu thê" kỉ, Hồ Gươm gồm
hai phần chạy dài từ phô" Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý
Thường Kiệt, rồi tới phố Hàng Chuối. Nước hồ quanh năm xanh
biếc nên trước kia Hồ Gươm được gọi là Hồ Lục Thủy. Sau đó là
cái tên Tả Vọng để phân biệt với Hữu Vọng. Sau khi các triều
đại chọn Thăng Long làm kinh đơ, hồ cịn được dùng làm nơi tập
luyện của thủy quân. Tương truyền vào thê" kỉ XV, hồ được đổi
tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm
thần cho Rùa Vàng, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu chống
giặc Minh xâm lược dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi (1427). Truyền
thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa) có
một người đánh cá là Lê Thận (sau khi gia nhập nghĩa quân
Lam Sơn) đã kéo được một lưỡi gươm, sau đó Lê Lợi lại nhặt
được chuôi gươm ở trên cây, khi ghép chuôi gươm và lưỡi gươm
lại thành thanh gươm, đặt tên là "Thuận Thiên" có nghĩa là
"thuận theo ý trời". Gươm báu đã theo Lê Lợi trong suốt thời
gian kháng chiến chơng giặc Minh. Khi lên ngơi về đóng đơ ở
Thăng Long, trong một lần nhà vua đi chơi thuyền ở hồ Lục
Thủy, bỗng một con rùa xuất hiện, nổi lên khỏi mặt nước. Lê
Thái Tổ rút gươm khỏi vỏ, giơ gươm ra thì gươm bay về phía

con rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ. Chắc hẳn ai cũng
biết hồi tháng 5 âm lịch 2010, khi Hà Nội kỉ niệm 583 năm vua
Lê chiến thắng giặc Minh, chúng ta đã được chứng kiến hình
ảnh Cụ Rùa bị lên mặt nước... Tất cả mọi người đều ngỡ ngàng
và càng tin hơn vào sự linh thiêng của Hồ Gươm — viên ngọc
xanh giữa lịng Thủ đơ này...
Hồ Gươm rất đặc biệt. Nó có một màu sắc riêng, khác hẳn các
hồ khác. Hồ Gươm xưa kia trong lắm, đẹp lắm, có màu nước
xanh biêng biếc... Các bạn có biết màu xanh ấy là do đâu


khống? Trong lớp bùn của Hồ Gươm, có sự sinh sơng của một
lồi tảo. Nhờ sự quang hợp của lồi tảo đó mà Hồ Gươm có màu
xanh như vậy! Đã có lần, các nhà khoa học đã thử lấy thứ tảo
ấy đem đi nơi khác trồng nhưng chúng không sống được! Phải
chăng Hồ Gươm có một điều đặc biệt khác?... Nhưng bây giờ,
màu xanh trong trẻo ấy đã bị ô nhiễm mà nguyên nhân chính là
do con người gây ra. Chính những người dân khơng ý thức, vứt
rác bừa bãi xuống hồ và Nhà nước khơng có biện pháp làm sạch
hồ thường xuyên nên đã làm cho nước hồ đục hơn và bên bờ hồ
vương vãi những túi rác mà người dân đã vứt xuống. Điều đó sẽ
dẫn đơn hậu quả gì? Trước hết, Hồ Gươm đã khơng cịn đẹp như
trước nữa mà đã mất đi vẻ tự nhiên của nó. Và hậu quả thứ hai
là những Cụ Rùa đã bị tổn thương vì mơi trường q bẩn. Ngày
trước, Cụ Rùa chỉ nổi lên vào những dịp lễ, còn thời gian gần
đây, Cụ Rùa nổi lên rất thường xuyên và mọi người đã nhìn thấy
những vết thương trên thân Cụ Rùa. Có lẽ nào những người vứt
rác xuống hồ khơng thể hiểu được những điều này? Và vài ba
năm trước, việc làm sạch Hồ Gươm đã bắt đầu được chú trọng.
Tất cả chúng ta đều đã nhận thây một điều rằng, mặc dù Nhà

nước và Chính phủ đã đưa ra những biện pháp để giải quyết
vấn đề này nhưng thực sự là nước hồ ngày càng bẩn thêm. Vi
vậy, điều quan trọng vẫn là ý thức của người dân, chúng ta phải
giữ gìn hồ sạch sẽ để khơng làm mất đi vẻ đẹp của Hồ Gươm
nói riêng và vẻ đẹp của Thủ đơ Hà Nội và hình ảnh tốt đẹp của
con người Việt Nam nói chung.
Ở Hồ Gươm, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy Đài Nghiên và
Tháp Bút được danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào năm
1864. Thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" nghĩa là "Viết
lên trời xanh", ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút. Tiếp đến là
một cửa cuốn được gọi là Đài Nghiên, trên đó có đặt một cái
nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đơi theo chiều dọc,
ba chân kê nghiên là hình tượng ba con ếch. Sở dĩ có ba con
ếch đội là bởi vì nhà thơ Nguyễn Văn Siêu muốn nhắc chúng ta
đừng kiêu căng rồi dẫn đến hậu quả khó lường như trong truyện
ngụ ngôn Ech ngồi đáy giếng và Nguyễn Văn Siêu cũng muốn
viết lên trời xanh khát vọng hịa bình, truyền thống hiếu học
của dân tộc Việt Nam. Có một điểm đặc biệt giữa Tháp Bút và
Đài Nghiên. Đó là vào những buổi trưa hè, nhìn từ cổng ngồi di
vào có hai bức tường đứng hai bên, cả hai bức tường cao quý ấy


đều khắc tên những người đỗ đạt, khiến cho các sĩ tử đi qua
đều cố gắng học hành. Đi tiếp vào trong ta sẽ thấy cầu Thê
Húc. cầu Thê Húc được làm bằng gỗ rất thô sơ và được sơn màu
đỏ. cầu được thiết kế cong cong và uốn lượn như hình con tơm.
cầu Thê Húc hướng về phía Đơng, phía mặt trời mọc để đón
được tồn vẹn nguồn dưỡng khí và những tia nắng đầu tiên. Với
ý nghĩa ấy, cây cầu mang màu đỏ — màu của sự sống, màu của
hạnh phúc, của sự cao quý, của ước vọng truyền đời từ thời cổ

đại đến ngày nay - cây cầu Thê Húc — đó chính là biểu tượng
của thần Mặt Trời! Tên của cây cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh
sáng Mặt Trời buổi sáng sớm". Đi sâu vào trong, chúng ta sẽ
đến với đền Ngọc Sơn linh thiêng. Ngôi đền được xây dựng trên
đảo Ngọc. Cả khu đền được lợp ngói đỏ trơng tươi tắn với hình
ảnh cong cong trạm trổ tinh tế. Đền thờ Hưng Đạo Đại Vương
Trần Quốc Tuấn, Văn Xương Đế Xuân — vị thánh trụ trì việc văn
chương khoa cử. Ngồi hiên có tủ kính với Cụ Rùa được đặt bên
trong khi các nhà khoa học vớt lên vào những thập niên sáu
mươi của thế kỉ XX. Cụ Rùa có tuổi thọ khoảng 500 - 600 tuổi.
Khơng chỉ có một Cụ Rùa mà dưới Hồ Gươm cịn có vài Cụ Rùa
khác.
Hồ Gươm được du khách coi là một danh lam thắng cảnh.
Quanh hồ là những lồi cây trơng lộng lẫy như: cây phượng, cây
bằng lăng, cây liễu sư. Ngồi ra cịn có nhiều lồi hoa được
trồng và được ghép thành hình chữ ở bên bờ hồ. Ngày nay,
chúng ta đều thấy rất nhiều du khách nước ngoài cũng như
trong nước và người dân Hà Nội đi dạo quanh hồ. Họ chụp ảnh,
họ bàn tán và họ cũng cảm thấy thanh thản... Chắc chắn là như
vậy!... Bên Hồ Gươm khơng chỉ có du khách đi dạo, chúng ta
còn thấy cả các cụ già ngồi chơi cờ, cịn các bác, các cơ thì tập
thể dục cho cơ thể săn chắc, khỏe mạnh. Những đứa trẻ cũng
thường ra bờ hồ đùa nghịch, vui chơi tận hưởng không khí
thống mát. Từ Hồ Gươm, chúng ta cũng có thể nhìn được
những địa điểm nổi tiếng của Hà Nội như Tượng đài Lý Thái Tể,
Bưu điện Hà Nội với đồng hồ cổ kính được đặt ở trên nóc hay
những khu phố cổ,... Như vậy, chúng ta có thể thấy được Hồ
Gươm đẹp thế nào, phong phú về màu sắc thế nào...
Rủ nhau xem cảnh Kiêm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn,



Đài Nghiến, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Hồ Gươm có thể từ nhiều thế kỉ trước, có thể có nhiều tên gọi
nhưng với tơi, Hồ Gươm chỉ mới hơn mười ba tuổi. Dù có thế
nào, Hồ Gươm mãi mãi là một phần trong trái tim tôi.
Bài văn mẫu 6 - Chợ Bến Thành
Ai đến Sài Gịn, chắc cũng đơi lần được bước tới và tham
quan, mua sắm ở chợ Bến Thành. Nằm ở trung tâm thành phố,
chợ Bến Thành rất đỗi quen thuộc với người dân Việt và du
khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh.
Sở dĩ có tên là chợ Bến Thành là vì chợ gần bến sơng và gần
thành Quy.Đầu thế kỉ XVII, khi người Việt đến lập cư ở vùng
đồng bằng sơng Cửu Long thì vùng đất Sài Gịn xưa trở thành
nơi phố chợ đông đúc náo nhiệt nhất vùng Nam Kì lục tỉnh. Giữa
thế kỉ XIX, xuất hiện một chợ nhỏ nằm ở khu đất đồng lầy kề
bên bờ sông Bến Nghé và sát thành Sài Gòn. Chợ Bến Thành
được mơ tả trong sử cũ như sau: Đó là một " phố chợ nhà cửa
trù mật ở dọc theo bến sơng. Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu
mùa xn gặp ngày tế mạ, có thao diễn thủy binh, nơi bến có
đị ngang chở khách bn ngồi biển lên. Đầu phố phía Bắc là
ngịi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có
dãy phố ngói, tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sơng ghe bn
lớn nhỏ đến đậu nối liền".
Thời ấy, đất Gia Định là một vùng nông nghiệp trù phú nên
Chợ Bến Thành đầy hàng hóa, nào gạo, cá khơ, tơm khơ, cau,
đường,…bán ra để ua tơ lụa, quả thô, nhang, trà, quạt, đồ sành
sứ, thuốc uống, dược thảo… từ nước ngoài mang đến. Đây
chính là khu vực mà nay dành cho thương cảng Sài Gịn. Sau

cuộc nổi dậy của Lê Văn Khơi (1833 – 1835) phố chợ Bến Thành
khơng cịn sầm uất như trước. Chợ được xây bằng gạch, sườn
gỗ, lợp tranh.
Sau khi đánh chiếm Gia Định, thực dân Pháp đã cho lập một
nhà lồng làm chợ ở ngay trên nền đất mà nay là Trường học
Ngân hàng 3. Ngôi chợ này bị cháy năm 1870, nhưng đã được
trùng tu với sườn sắt. Trước nhà lồng chợ có con kinh rộng chạy
đến trước cửa tòa nhà nay là trụ sở của Ủy ban Nhân dân thành


phố. Đến năm 1887 – 1888 thì con kinh này được lấp lại, làm
cho khu vựa Võ Di Nguy, Tôn Thất Thiệp trở nên náo nhiệt hơn.
Đại lộ Nguyễn Huệ trước kia là đường kinh lấp. Ngôi chợ Bến
Thành được chuyển đến vị trí ngày nay.
Nhà lồng chợ được khởi cơng xây cất trên vùng đất trước đó
là một ao sình lầy gọi là ao Boresse. Ngơi chợ này được khởi
công xây xất từ khoảng năm 1912 và khánh thành vào tháng 3
năm 1914. Ngày khánh thành có khoảng 100.000 người tham
dự, có cả dân từ các tỉnh đổ về. Cuộc lễ diễn ra trong ba ngày
28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914 với pháo bông, xe hoa.
Thế là chợ Bến Thành xưa trở thành Chợ Cũ, còn chợ Bến
Thành mới được gọi là Chợ Mới Sài Gòn. Mãi đến năm 1940 hai
con đường bên hơng chợ cịn là bến xe đị miền Đơng và miền
Tây. Gần một trăm năm qua, chợ Bến Thành bao giờ cũng là
một tủng tâm thương mại, trung tâm phồn hoa náo nhiệt của
thành phố Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ cũ. Dần dần nó trở
thành mọt chợ lớn, nơi tập trung những mặt hàng quý hiếm của
trong nước và nước ngoài.
Chợ Bến Thành ngày nay có khoảng 3.000 hộ kinh doanh.
Hình ảnh chợ Bến Thành thường được dùng làm biểu tượng cho

thành phố.
Chợ Bến Thành ngày nay lại được đầu tư nâng cấp to đẹp lên
rất nhiều so với trước, để nó xứng đáng là một trung tâm bn
bán lớn ở phía nam đất nước. Hàng hóa chợ Bến Thành rất
phong phú, bao gồm hầu hết các sản vật trong nước – đặc biệt
là sản vật ở vùng đồng bằng sông Cửu Long – cùng các mặt
hàng công nghiệp hiện đại trên thế giới.
Bài văn mẫu 7 - Sa Pa
Chưa đi chưa biết Sa Pa
Đi rồi mới thấy mây ba bốn tầng
Nắng viền thác Bạc một vầng
Tình yêu xối xả trắng ngần bay bay


Sa Pa thành phố mờ hơi sương, với biết bao thắng cảnh đẹp
đẽ làm say mê lòng người. Ta biết đến một Phanxiphang hùng
vĩ, nóc nhà của Đơng Dương, những triền đồi vàng óng khi đến
mùa lúa được thu hoạch và cũng không thể không nhắc đến
khu du lịch Hàm Rồng nổi tiếng vừa hùng vĩ mà cũng rất đỗi
nên thơ, trữ tình.
Núi Hàm Rồng nằm ngay trung tâm thị trấn Sa Pa, điểm thấp
nhất của núi lên đến 1450m, và cao nhất là 1850 m so với mực
nước biển. Núi Hàm Rồng rất hùng vĩ, đan xen nó là các kiểu
núi khác nhau, với màu xanh bạt ngàn của cây cối phủ kín bốn
phương. Vì là địa hình núi cao, nên mỗi khi mùa đông về, nhiệt
độ xuống thấp sẽ xuất hiện hiện tượng băng giá, thậm chí là
tuyết gây hứng thú và tò mò với người dân cả nước.
Khu du lịch Hàm Rồng là một trong những địa điểm du lịch nổi
tiếng nhất của Sa Pa. Nó được khởi cơng xây dựng vào năm
1996, với diện tích 148ha. Khu du lịch này khai thác chính

những yếu tố thiên nhiên hoang sơ để tạo nên sự thu hút riêng
cho mình. Đi từ chân núi lên đến đỉnh núi là những khung cảnh
thiên nhiên khác nhau, vừa hùng vĩ lại vô cùng thơ mộng. Là
những vườn lan rộng lớn với hơn 6000 giò lan của 194 loại
phong lan khác nhau. Hoa thơm nở bốn mùa, ong bướm vây
lượn ngày đêm. Bên cạnh vườn lan là những vườn hoa hết sức
đa dạng, màu sắc rực rỡ: hoa cánh bướm, thược dược, cẩm tú
cầu, hoa bất tử,… cùng hàng chục giống hoa lạ, độc đáo được
đưa từ Nga, Pháp, Nhật về trồng thử nghiệm. Đường đi lên Hàm
Rồng quanh co, uốn lượn, trước đây chưa được lát gạch quả là
một thử thách với du khách, nhưng trong những năm gần đây
đã được lát đá thành các bậc thềm tạo điều kiện thuận lợi để
mọi người chinh phục đỉnh núi này. Trước khi lên đến đỉnh,
chúng ta sẽ phải đi qua một con đường hẹp, dẫn vào hang Tam
Môn. Con đường này chỉ vừa cho một người đi qua, và khi đã đi
qua đó là cả một khoảng trời mênh mơng mở ra trước mặt, với
vườn cây ăn trái hết sức đa dạng: đào, lê, mận,…
Lên đến sân mây, tức đỉnh của Hàm Rồng một khung cảnh
thiên nhiên kì vĩ mở ra trước mắt chúng ta. Ở độ cao 1800m
chúng ta cảm nhận được cái lạnh thấu xương khi vừa mới dưới


kia thôi nắng vàng vẫn trải rực rỡ, ta cảm nhận được mây trắng
bồng bềnh vườn qua tóc. Một khung cảnh vô cùng lãng mạn.
Nùi Hàm Rồng là một trong những tiềm năng du lịch lớn của
thành phố Lào Cai. Đến với Sa Pa nếu ta chưa lên đến núi Hàm
Rồng ấy là chưa đến Sa Pa vậy. Khu du lịch này có vai trị quan
trọng trong q trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của mảnh đất
Lào Cai giàu có, phong phú về tài nguyên.
Sa Pa thơ mộng, hùng vĩ càng trở nên đẹp đẽ hơn khi có khu

du lịch Hàm Rồng. Khu du lịch này không chỉ đem lại lợi ích kinh
tế lớn mà hơn thế cịn cho con người khơng gian nghỉ dưỡng
thoải mái, sảng khối, bỏ lại sau lưng những khói bụi ồn ảo của
thành phố. Để con người được hịa mình trọn vẹn vào khung
cảnh thiên nhiên.
Khơng chỉ vậy, Sa Pa nói chung và Hàm Rồng nói riêng cịn
khơi nguồn cảm hứng sáng tác, sáng tạo cho biết bao thế hệ
nghệ sĩ:
Chiều Sa Pa – Huyền Thanh
Hàm Rồng cổng đá chơ vơ
Vườn Lam khói tỏa trăng mờ cheo leo
Hút heo vương ánh tà chiều
Thôn nghèo cô tịch liêu xiêu mẹ già..
Cùng vô vàn những vần thơ hay và đặc sắc khác.
Một lần đến với Sa Pa ta sẽ cịn nhớ mãi về hình ảnh những
em bé H-mong đáng yêu, nụ cười giòn tan hòa trong cái nắng
rực rỡ. Nhớ về một Hàm Rồng hùng vĩ, nhưng bên cạnh đó là
nét nguyên sơ, tinh tế, mơ mộng. Sa Pa là thế đấy, cái lạnh
thấu xương cũng không thể làm phai nhạt vẻ đẹp của thiên
nhiên, sự nồng ấm của tình người.
Bài văn mẫu 8 - Văn miếu Quốc Tử Giám
Hằng năm, cứ đến mùa thi, nhiều sĩ tử miền Bắc luôn hướng về
Văn miếu Quốc Tử Giám để cầu mong may mắn, rồi cũng có rất
nhiều những cử nhân lựa chọn địa điểm này để lưu lại những


bức ảnh kỉ yếu của một thời sinh viên đẹp đẽ. Tại sao nơi này
lại thường gắn với những hoạt động học tập như thế? Đó là bởi
vì đây là một nơi giàu truyền thống văn hóa, khoa cử.
Văn miếu Quốc Tử Giám được biết đến là một địa danh tọa lạc

tại thủ đô Hà Nội, được coi như biểu tượng của sự trường tồn
tinh hoa văn hóa, giáo dục dân tộc, của truyền thống tôn sư
trọng đạo.
Văn Miếu, theo Đại Việt sử kí tồn thư, được xây dựng năm
1070, đời vua Lí Thánh Tơng, thờ các bậc tiên thánh, tiên sư cuả
đạo Nho. Đồng thời, đây cũng là một trường học hồng gia.
Năm 1253, Trần Thái Tơng mở rộng Quốc Tử Giám, thu nhận cả
những học sinh là con nhà thường dân có học lực xuất sắc.
Khu Văn miếu tọa trên khu đất hình chữ nhật với tổng diện tích
là 54000 m2, bao quanh bởi khu tường gạch vồ cỡ lớn tạo
khơng gian cổ kính trang nghiêm. Bước vào bên trong, những
mái kiến trúc cổ ẩn hiện trong cành lá sum suê tạo sự thu hút
đặc biệt với du khách. Trong Văn Miếu có một hồ Văn, đây là nơi
diễn ra các cuộc bình thơ. Khu nội tự được chia thành 5 khu
vực. Khu vực một từ Văn miếu môn đến Đại trung môn. Để vào
Văn miếu môn phải đi qua bốn thần trụ, bước qua ba cửa cuốn
vòng là vào Văn miếu môn. Theo con đường thẳng tắp từ Văn
miếu mơn đi vào chính là Đại trung mơn gồm ba gian dựng
bằng gạch. Con đường lát gạch sẽ tiếp tục đưa du khách đến
Khuê Văn Các, là lầu vuông gồm hai tầng tám mái. Đây là biểu
tượng của văn hóa văn học Việt Nam. Qua Khuê Văn Các đến
giếng Thiên Quang, hình vng, quanh năm mặt nước bằng
phẳng, con đường lát gạch quanh giếng Thiên Quang dẫn du
khách đến nhà bia tiến sĩ, gồm 82 tấm bia đá khắc các bài thi
văn, bia đặt trên lưng rùa biểu hiện tinh hoa dân tộc. Qua nhà
bia Tiến sĩ sẽ đến khoảng sân rộng được lát gạch Bát Tràng. Khu
vực cuối cùng là nhà Thái học, xưa là nơi đào tạo nhân tài. Văn
miếu là nơi tôn vinh nhà giáo lỗi lạc Chu Văn An và các vị vua
có cơng dây dựng.
Với giá trị lịch sử, văn hóa to lớn, Văn Miếu Quốc Tử giám còn là

nơi được lựa chọn để tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề, là
nơi vinh danh các thủ khoa xuất sắc. Tháng 5 – 2012, Văn Miếu


được cơng nhận là di tích đặc biệt cấp quốc gia. Đây cũng là địa
điểm du lịch nổi tiếng thu hút khách du lịch muốn tìm hiểu văn
hóa lịch sử Việt Nam, là nơi các sĩ tử đến xin chữ cầu may mắn,
là nơi được chọn để chụp các bức ảnh kỉ yếu của học sinh, sinh
viên,…
Bởi đây là di tích đặc biệt cấp quốc gia nên cần lưu ý một số
điều cơ bản: Không xả rác bừa bãi, không giẫm chân lên thảm
đỏ và không xoa đầu các cụ rùa, ăn mặc trang nghiêm, thái độ
thành tâm, thánh kính,..
Dù bước thăng trầm của thời gian có thế nào đi nữa, Văn miếu –
Quốc Tử Giám vẫn sẽ là một di tích mang dấu ấn của một quốc
gia giàu truyền thống khoa cử và trở thành biểu tượng đẹp của
thủ đô Hà Nội.
Bài văn mẫu 9 - Hồ Gươm (Hà Nội)
"Mặt Hồ Gươm vẫn lung linh mây trời, càng toả mát hương
hoa thơm Thủ đô...". Nhắc đến Hà Nội là nhắc đến hình ảnh Hồ
Gươm trong xanh và bóng Tháp Rùa nghiêng nghiêng soi dáng.
Hồ Gươm cùng quần thể kiến trúc của nó đã trở thành một biểu
tượng đẹp đẽ và thiêng liêng về Hà Nội - trái tim hồng của cả
nước.
Hồ Gươm đã tồn tại từ rất lâu. Cách đây khoảng 6 thế kỷ,
theo những địa danh hiện nay, hồ gồm hai phần chạy dài từ
phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt tới phố Hàng
Chuối, thông với sông Hồng. Nước hồ quanh năm xanh biếc nên
hồ Gươm cũng được gọi là hồ Lục Thuỷ.
Vào thế kỷ XV, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm. Sự kiện

ấy gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng của
vị vua khai triều nhà Hậu Lê - người anh hùng của khởi nghĩa
Lam Sơn chống lại giặc Minh (1417 - 1427), Lê Lợi. Truyền
thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, có người dân
mị được một lưỡi gươm, sau đó chính ơng nhặt được một cái
chuôi ở trong rừng. Khi lưỡi gắn vào chuôi gươm thì thân gươm
ánh lên hai chữ "Thuận Thiên" - "Thuận theo ý trời". Gươm báu
này đã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chống giặc
Minh. Khi lên ngơi về đóng đơ ở Thăng Long, trong một lần nhà
vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thuỷ, bỗng một con rùa xuất
hiện. Rùa vươn đầu cất tiếng nói: "Xin bệ hạ hãy hoàn lại gươm


cho Long Quân". Lê Thái Tổ hiểu ra sự việc bèn rút gươm khỏi
vỏ, giơ gươm ra thì gươm bay về phía con rùa. Rùa ngậm gươm
lặn xuống đáy hồ, và từ đó hồ Lục Thuỷ có tên gọi mới là hồ
Hồn Kiếm (trả gươm) hay hồ Gươm. Chính truyền thuyết đặc
sắc này đã khẳng định tấm lòng yêu chuộng hồ bình, ghét
chiến tranh của người dân Thăng Long - Hà Nội nói riêng và
nhân dân Việt Nam nói chung. Câu chuyện này đã được nhấn
mạnh trong ngày lễ Hà Nội đón nhận danh hiệu "Thành phố Vì
hồ bình"
Sau đó, cũng vào thời Lê, hồ còn được dùng làm nơi tập luyện
của thuỷ quân nên có lúc được gọi là hồ Thuỷ Quân.
Hồ Hoàn Kiếm là một thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội. Quanh
hồ trồng nhiều loại hoa và cây cảnh. Đó là những hàng liễu rủ
thướt tha, những nhành lộc vừng nghiêng nghiêng đổ hoa soi
bóng dưới lịng hồ. Giữa hồ có tháp Rùa, cạnh hồ có đền Ngọc
Sơn có "Đài Nghiên Tháp Bút chưa sờn"... Hình ảnh hồ Gươm
lung linh giống như một tấm gương xinh đẹp giữa lòng thành

phố đã đi vào lòng nhiều người dân Hà Nội. Người dân Hà Nội
sống ở khu vực quanh hồ có thói quen ra đây tập thể dục vào
sáng sớm, đặc biệt là vào mùa hè. Họ gọi các khu phố nằm
quanh hồ là Bờ Hồ.
Không phải là hồ nước lớn nhất trong Thủ đô, song với nguồn
gốc đặc biệt, hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với cuộc sống và tâm tư
của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khu
phố cổ chật hẹp, đã mở ra một khoảng không đủ rộng cho
những sinh hoạt văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp. Và hơn
thế, hồ gắn với huyền sử, là biểu tượng khát khao hịa bình (trả
gươm cầm bút), đức văn tài võ trị của dân tộc (thanh kiếm
thiêng nơi đáy hồ và tháp bút viết lên trời xanh). Do vậy, nhiều
văn nghệ sĩ đã lấy hình ảnh Hồ Gươm làm nền tảng cho các tác
phẩm của mình. Nhà thơ Trần Đăng Khoa từng viết:
"Hà Nội có Hồ Gươm
Nước xanh như pha mực
Bên hồ ngọn Tháp Bút
Viết thơ lên trời cao"


Và như thế, Hồ Gươm sẽ mãi sống trong tiềm thức mỗi người
dân Thủ đơ nói riêng và người dân cả nước nói chung như một
biểu tượng thiêng liêng về lịch sử và truyền thống văn hóa dân
tộc.
Bài văn mẫu 10 - Chùa Một Cột
Chùa Một Cột nằm trong khu di tích chùa Diên Hựu, Thơn
Thanh Bảo, Quảng Đức vào thời lý. Đến nay được gọi là Chùa
Một Cột thuộc Ba Đình gần Lăng Bác, Hà Nội.
Được khởi cơng và xây dựng vào 10/1049 âm lịch. Trước kia
chùa có rất nhiều tên khác nhau như chùa Mật (tiếng Hán-Nôm)

và "Diên Hựu tự", "Liên Hoa Đài". Theo tìm hiểu Ngơi chùa được
xây dựng theo một giấc mơ của vua Lý Thái Tơng (1028 - 1054).
Có một lần vua Lý Thái Tơng đã mơ thấy phật quan âm ngồi
trên đài sen và dắt mình lên đài. Khi tỉnh dậy, Nhà Vua kể cho
bề tôi nghe và được nhà sư Thiền Tuệ gợi ý nên xây dựng ngôi
chùa và nhà vua đã dựa theo ý tưởng thiết kế của Thiền Tuệ để
xây dựng ngôi chùa.
Ngôi chùa được thiết kế bằng gỗ ở phần dưới là cột đá tượng
trưng cho thân sen, cịn phía trên là đài sen. Bên trong có tượng
phật bà Quan Âm để thờ. Cho đến năm 1105, Vua Lý Nhân Tông
cho mở rộng kiến trúc của chùa và xây dựng thêm hồ Linh
Chiểu. Về sau, chùa chỉ cịn lại ngơi chùa nhỏ như ngày nay.
Gồm có đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh chùa là
3m, mái cong cong, dựng trên cột đá cao 4m, đường kính 1,2m
có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tiếp đến là
hệ thống đòn bẩy để giữ thăng bằng cho ngơi chùa phía trên.
Ngơi chùa được xây dựng vươn lên khỏi mặt nước là một kiến
trúc độc đáo. Phía dưới là hồ hình vương bao quanh bởi gạch
tráng men màu xanh.
Đến năm 1840 - 1850, ngôi chùa một cột được trùng tu và tôn
tạo, lần tiếp theo là vào năm 1920. Vào năm 1955, Đài Liên Hoa
được sửa chữa bởi kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng. Năm 1995,
ngôi Tam bảo được trùng tu với tổng số tiền lên tới 500 triệu
đồng và tiếp theo là trùng tu nhà mẫu năm 1997 hết 200 triệu
đồng.


Chùa Một Cột là một trong những danh lam thắng cảnh được
bộ văn hóa nước ta xếp hạng di tích lịch sử, nghệ thuật, kiến
trúc vào năm 4/1962. Chùa Một Cột có một ý nghĩa lịch sử và

văn hóa vơ cùng to lớn. Đây cũng là biểu tượng của người Hà
Nội ngàn năm văn hiến. Có một điều mà có thể bạn khơng để ý
đến đó là Chùa Một Cột còn được in đằng sau đồng tiền xu
5000 của Việt Nam.
Nếu bạn có cơ hội du lịch 1 ngày ở Hà Nội thì chắc chắn các
bạn khơng thể bỏ qua 1 địa điểm đó chính là Chùa Một Cột.
Ngơi chùa tuy nhỏ bé nhưng nó là nét văn hóa của dân tộc với
nét kiến trúc riêng khơng đâu có được. Chính sự đặc biệt này
mà hàng năm, khách du lịch đến đây rất đơng và là nơi u
thích của khách du lịch trong và ngoài nước.
Bài văn mẫu 11 - Động Phong Nha
Cứ mỗi khi nhắc tới những địa điểm du lịch ở nước ta, người ta
lại nghĩ đến Vịnh Hạ Long, đảo Cát Bà, Phan Thiết,... nhưng một
trong những địa danh nổi tiếng ấy không thể thiếu động Phong
Nha – di sản văn hóa thế giới. Sự kì ảo của động Phong Nha đã
đem lại cho du khách cảm giác thích thú như được lạc vào thế
giới thần tiên. Động Phong Nha là một quà tặng của thiên nhiên
dành cho đất nước ta.
Động Phong Nha nằm trong vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ
Bàng, một vườn quốc gia tại huyện Bố Trạch và Minh Hóa thuộc
tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50km về
phía Tây Bắc, cách thủ đơ Hà Nội khoảng 500 km về phía Nam.
Phong Nha – Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng
khoảng 200.000ha. Vườn quốc gia bao gồm 300 hang động lớn
nhỏ khác nhau. Điểm đặc trưng của vườn quốc gia này là các
kiến tạo đá vôi, 300 hang động và các sông ngầm, hệ thống
động vật quý hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam và sách đỏ Thế
giới. Các hang động ở đây với tổng chiều dài là khoảng hơn
80km nhưng các nhà thám hiểm Anh và Việt Nam mới chỉ tìm
hiểu được 20km. Vào tháng 4 năm 2009, một đoàn thám hiểm

thuộc Hiệp hội Hoàng gia Anh đã phát hiện ra một hang động
khác lớn hơn rất nhiều động Phong Nha nhưng động Phong Nha
vẫn là hang động giữ nhiều kỉ lục về cái "nhất": hang nước dài
nhất, cửa hang cao và rộng nhất; bãi cát, đá rộng và đẹp nhất;


hồ ngầm đẹp nhất; thạch nhũ tráng lệ và kì ảo nhất; dịng sơng
ngầm dài nhất Việt Nam; hang khơ rộng và đẹp nhất thế giới.
Trước đó, khi Phong Nha – Kẻ Bàng chưa phải là vườn quốc
gia, khu vực này là khu vực bảo tồn thiên nhiên, từ ngày 9
tháng 8 năm 1986 được mở rộng thêm diện tích là 41132ha.
Mãi đến ngày 12 tháng 12 năm 2001, thủ trướng chính phủ đã
ra nghị quyết chuyển khu bảo tồn thiên nhiên này thành vườn
đa quốc gia và có tên gọi như hiện nay.
Quá trình hình thành hang động là một quá trình khá lâu dài.
Từ những kiến tạo địa chất xảy ra trong lịng dãy núi đá vơi Kẻ
Bàng vào thời kì Đại cổ sinh đã làm thay đổi hoàn toàn về địa
chất nơi đây. Sự tác động của nội lực bên trong lòng trái đất và
ngoại lực đã tạo ra vẻ đẹp kì bí rất riêng của động Phong Nha.
Hệ thống đứt gãy chằng chịt trên mặt đá vôi đã tạo điều kiện
cho nước dễ thấm vào các khối đá vơi. Sự xâm thực đã gặm
mịn, hịa tan, rửa trơi đá vơi trong hàng triệu năm. Qua đó nó
đã tạo nên một hang động ăn sâu trong núi đá vôi.
Động Phong Nha bao gồm động khô và động nước, nổi bật
nhất trong các động khô là động Tiên Sơn. Động Tiên Sơn có
chiều dài 980m. Từ cửa động đi vào khoảng 400m có một vực
sâu khoảng 10m và sau đó là động đá ngầm dài gần 500m khá
nguy hiểm. Du khách đến tham quan, để đảm bảo an tồn chỉ
được đi sâu vào 400m tính từ cửa động. Động Thiên Sơn là nơi
có cảnh thạch nhũ và những phiến đá kì vĩ huyền ảo. Các âm

thanh phát ra từ các phiến đá, khi được gõ vào vọng như tiếng
cồng chiêng. Theo các nhà khoa học thuộc Hội hang động
Hoàng gia Anh, động này được kiến tạo cách đây hàng chục
triệu năm, khi một dòng nước chảy qua quả núi đã đục rỗng,
bào mịn núi đá vơi Kẻ Bàng. Sau đó, do địa chất thay đổi, khối
đá vơi đổ sụp, chặn dịng chảy và làm nên động khơ Tiên Sơn.
Còn hệ thống động nước nổi bật nhất là động Phong Nha. Tạo
hóa đã dựng nên những khối thạch nhũ đủ màu sắc với những
hình dạng khác nhau. Vẻ kì ảo ấy khiến ai đến tham qua cũng
trầm trồ khen ngợi. Động Phong Nha dài 7729m. Hang có chiều
dài dài nhất của động là 145m. Động Phong Nha còn được
mệnh danh là Thủy Tề Tiên vì nơi đây những cột đá, thạch nhũ
như mang một phong thái rất khác nhau. Tiếng nước vỗ vào đá


vang vọng thật xa. Động Phong Nha đẹp như một bức tranh
thủy mạc mà nhiều hang động khác phải ngưỡng mộ.
Động Phong Nha ngồi có giá trị về du lịch nó cịn là một di
chỉ khảo cổ. Những nhà thám hiểm và người dân nơi đây đã
phát hiện ra nhiều chữ khắc trên đá của người xưa, gạch, tượng
đá, tượng phật, mảnh gốm và nhiều bài vị tại đây. Ở động
Phong Nha người ta đã phát hiện nhiều mảnh than và miệng
bình gốm có tráng men của Chàm và các đồ gốm thơ sơ khác.
Động Phong Nha cịn là nơi vua Hàm Nghi trú ngụ trong thời kì
thực hiện chiếu Cần Vương kháng chiến chống Pháp.
Động Phong Nha – hang động tạo nên niềm tự hào cho dân
tộc Việt Nam. Nó là bằng chứng cho sự ưu đãi của thiên nhiên
nước ta. Động Phong Nha đã được UNESCO công nhận là di sản
văn hóa thế giới. Ai đã từng đến động đều nhớ mãi sự kì diệu
mà động mang lại từ vẻ đẹp thuần túy thiên nhiên.

Bài văn mẫu 12 - Làng Văn hoá – Du lịch các Dân tộc Việt
Nam
Trong số rất nhiều những địa điểm du lịch hiện nay, không phải
địa danh nào cũng được nhiều du khách ghé đến. Tuy nhiên,
nằm cách thủ đô Hà Nội khoảng gần 40 phút lái xe, có một
điểm du lịch đặc biệt thu hút các bạn trẻ tới thăm, đó chính là
Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một phần của khu du lịch
Đồng Mô, thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, được khánh
thành vào ngày 19-9-2010 nhân dịp chào mừng đại lễ 1000
năm Thăng Long – Hà Nội. Từ nội thành đi tới đây mất quãng
đường dài khoảng 40 km. Đây là địa danh với nhiều điểm tham
quan hấp dẫn. Với diện tích khoảng 198,61 ha, khu các làng
dân tộc chia làm 4 cụm làng tương ứng với từng vùng miền
khác nhau. Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam được thiết kế
với kiến trúc tái hiện lại các làng, bản của các dân tộc nhằm
giới thiệu và bảo tồn và phát triển giá trị lịch sử, văn hóa độc
đáo.
Từ cổng vào, du khách có thể thuê xe điện để được đưa đến
những khu làng của các dân tộc khác nhau với mức vé phải
chăng: 30000đ/người lớn và trẻ em dưới 6 tuổi thì được miễn
phí vé vào. Hành trình đến thăm trình tự các làng tùy theo nhu


cầu của du khách. Điểm cuối cùng là Tháp Chàm, chùa Khơ –
me. Chùa Khơ me được xây dựng với màu vàng óng bao trùm.
Chùa được thiết kế mái nhọn, trần rộng, có các cột trụ lớn, bên
trong đặt một tượng Phật lớn. Tháp Chàm cao 21 m, nối cổng
vào là tháp Đông, khu tháp này được thiết kế tương đối giống
với tháp của người Chăm và được làm bằng đất sét nung. Tiếp

theo du khách có thể tới tham quan khu nhà Tây Nguyên với
các nhà sàn mô phỏng, bên trong khu nhà sàn rất mát mẻ, cịn
có khu nhà sàn phục vụ du khách nghỉ ăn trưa. Nhà rông được
xây dựng rất to với cấu trúc mái cao đặc trưng. Từ đây du
khách có thể di chuyển tới làng văn hóa các dân tộc Thái với
cánh đồng hoa tam giác mạch, khu nhà chính và thưởng thức
nhiều hoạt động vui chơi văn nghệ được biểu diễn bới chính
nghệ nhân thuộc các dân tộc,… Phong cảnh nơi đây tương đối
thanh bình và thống đáng, thích hợp để thư giãn.
Tại khu du lịch, du khách sẽ thường xuyên được tham gia lễ hội.
Các lễ hội đặc biệt thu hút khách du lịch tham gia. Thơng qua
đó, giá trị của làng được quảng bá. Lễ hội mùa xuân thường
được tổ chức vào dịp đầu năm, nhiều trò chơi dân gian được tổ
chức như đu quay, ném cịn,..
Có thể khẳng định rằng, Làng Văn hoá – Du lịch các Dân tộc
Việt Nam là nơi tái hiện những giá trị văn hoá đặc sắc của 54
dân tộc Việt Nam. Đây là điểm tham quan du lịch vơ cùng lí
tưởng cho du khách trong nước cũng như quốc tế. Thông qua
khi du lịch này, chúng ta hiểu thêm nhiều hơn về đặc trưng dân
tộc của Việt Nam, đáp ứng các nhu cầu vui chơi giải trí lành
mạnh, hoạt động thể thao, dưỡng sinh, văn nghệ,...
Thông qua các địa điểm tham quan độc đáo cùng những hoạt
động văn hóa, nghệ thuật có nội dung, hình thức phong phú và
hấp dẫn, tái hiện chân thực bản sắc dân tộc, làng văn hóa các
dân tộc đã giúp mỗi người khi đến đây bồi đắp thêm cho mình
tình yêu đất nước và tinh thần đoàn kết với các dân tộc anh em.




×