Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

de 2 sgk van 9 tap 2 trang 69

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.22 KB, 10 trang )

1 * Mở bài:
Giới thiệu: Kim Lân là một trong số ít những nhà văn viết ít mà thành cơng lớn.
Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở
nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng.
Truyện ngắn làng có lẽ là tác phẩm nổi bậc nhất của Kim Lân và của cả nền văn
học Việt Nam trước cách mạng 1945.
* Thân bài:
Dẫn dắt: Năm 1948, truyện ngắn Làng ra đời thật đúng thời điểm. Lúc này,
người nông dân đã dần tin tưởng và ủng hộ cách mạng. Sự diễn biến này diễn ra
từ từ nhưng rất chắc chắn. Kim Lân đã nhìn thấy điều đó. Nó rất cần thiết cho
một cuộc vận động toàn diện trên mặt trận yêu nước, mặt trận kháng chiến.
Tóm tắt: Ơng Hai là một nơng dân suốt cuộc đời sống gắn bó và rất tự hào về
làng Chợ Dầu. Được lệnh tản cư, ông Hai rất đau lịng nhưng cũng phải rời đi. Ở
nơi tản cư, ơng nhớ làng tha thiết, đi đâu ông cũng khoe cái làng của mình.
Đùng một cái, ơng nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc khiến ông đâu khổ vô cùng.
Suốt thời gian ấy ông không dám gặp ai. Khi tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông
Hai mừng rỡ vô cùng, ông lại tiếp tục tự hào và khoe cái làng của mình.
Nhận xét: cốt truyện làm bừng sáng phẩm chất tâm hồn nhân vật. Tình u làng
của ơng Hai được thử thách một cách khốc liệt, cuối cùng được khẳng định
mạnh mẽ và thiêng liệng, cao quý. Từu tình yêu làng của ông Hai, nhà văn đã
thể hiện sâu sắc những chuyển biến mới trong tình cảm của người nơng dân VN
thời kháng chiến chống Pháp.
Phân tích:
– Gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà, thửa ruộng, từng ngọn cỏ,
cành cây và biết bao người ruột thịt, xóm giềng, tổ tiên và họ hàng gần xa. Quê
hương trở thành một phần máu thịt của ông. Và khi chết đi, ông cũng muốn
được nằm trên mảnh đất yêu thương này.
– Thế nên, khi được lệnh phải đi tản cư, ông Hai lưỡng lự, lúc đầu ông quyết
không đi. Cũng thật dễ hiểu cho ông Hai, bằng tuổi này rồi, sống được bao lâu
nữa, giờ ra đi biết có trở về được khơng?
Khẳng định: Ẩn sau cái tình u làng là thói quen nghìn đời của người nơng


dân sống bám đất bám làng, thủy chung với quê hương nguồn cội. Ẩn sau cái
tình u làng cịn là cái tình u nước thiết tha. Nhưng cách mạng đang cần và
họ phải thay đổi. Những chuyển biến âm thầm mà dữ dội ấy trong tình cảm của
người nơng dân Việt Nam đã được nhà văn biểu đạt hết sức xúc động bằng sự
cảm thông sâu sắc.
– Lưu luyến, nấn ná vậy chớ gia đình ơng Hai cũng đi.
Đánh giá: Để làm sáng bừng tư tưởng của truyện, Kim Lân đã khéo léo để cho
ông Hai tự đấu tranh.
– Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ làng Chợ Dầu tha thiết. Đó là một người yêu quê


hương tha thiết bằng một tình cảm tự nhiên, hồn nhiên. Tình cảm đó bắt nguồn
từ nững kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày, từ những sự vật, con người gắn bó
hàng ngày … Tình cảm đó thuần phác và trong sáng biết bao.
– Đùng một cái, ông hay tin làng Chợ Dầu theo giặc. Ông hai “cổ nghẹn đắng
lại, da mặt tê rân rân”. Trước hết, là sự xót xa của ơng về làng mình, sự phản bội
của nơi chơn rau cắt rốn của mình và nỗi tủi nhục tột cùng trào lên trong ơng.
Bình luận:
– Cuộc xung đột sảy ra dữ dội trong ông, đau đớn hơn bất cứ điều gì ơng đã
từng trải qua. Tình u làng vẫn thắm thiết trong ông, làng Chợ Dầu vẫn là nới
ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bây giờ
làng ông lại theo Tây. Ơng hồn tồn sụp đổ.
– Tình huống truyện đặt ra cho nhân vật những lựa chọn hết sức khó khăn. Liệu
ơng Hai có cịn dám u cái làng của mình nữa khơng? Trong sự tuyệt vọng, đau
khổ này, lối thoát về làng Chợ Dầu loé lên như một tia hi vọng rồi lại tắt ngấm.
Trong ơng tình u nước mạnh hơn, thiêng liêng hơn: khơng vì làng mà bỏ
kháng chiến.
– Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, ơng Hai như vừa thốt
khỏi một gánh nặng tinh thần ghê gớm. Tình u làng của ơng lại trở về hịa
quyện trong tình u nước thắm thiết, sâu nặng hơn trong lịng người nơng dân

chân chất này
Khẳng định: Vẻ đẹp tâm hồn của ông hai làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những
người nơng dân Việt Nam tuy trình độ văn hố thấp nhưng đã có ý thức giác ngộ
cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê
hương trong tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần
chúng cách mạng mà vănhọc thời kháng chiến chống pháp đã trú trọng làm nổi
bật. Truyện ngắn làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy.
* Kết bài:
Từ nhận thức và tình cảm của bản thân, ơng tìm cách chuyển tải nó vào văn học.
Nhân vật ông Hai là kết tinh sâu sắc cái tài, cái tình của nhà văn Kim Lân đối
với cuộc đời, đối với đất nước.

 2 Mở bài:


Kim Lân là một trong số ít những nhà văn viết ít mà thành cơng lớn. Văn ơng
nhỏ nhẻ, chậm rãi, hóm hỉnh mà đằm thắm. Trong cả hai giai đoạn sáng tác –
trước và sau cách mạng – giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay.
Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở
nơng thơn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng.
Truyện ngắn Làng có lẽ là tác phẩm nổi bậc nhất của Kim Lân và của cả nền văn
học Việt Nam trước cách mạng 1945. Với ngòi bút chân thành, cái nhìn hiền
lành mà sâu sắc, Kim Lân đã diễn tả những chuyển biến mới trong tình cảm của
người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp qua nhân vật ông Hai –
một lão nông hết mực u cái làng của mình.
 Thân bài:
Có thể nói thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, cách mạng gặp rất nhiều khó
khăn. Phần bởi thiếu thốn nhân lực, vật lực, bị quân Pháp khủng bố mạnh, phần
bởi người dân chưa thực sự ngã về phía cách mạng. Bác Hồ hiểu rõ, muốn thắng
kẻ thù phải vận động được sức mạnh toàn dân tộc, tạo nên một cuộc bão táp cách

mạng, quét sạch kẻ thù ra khỏi đất nước.
Năm 1948, truyện ngắng Làng ra đời thật đúng thời điểm. Lúc này, người nông
dân đã dần tin tưởng và ủng hộ cách mạng. Sự diễn biến này diễn ra từ từ nhưng
rất chắc chắn. Kim Lân đã nhìn thấy điều đó. Nó rất cần thiết cho một cuộc vận
động toàn diện trên mặt trận yêu nước, mặt trận kháng chiến. Nhưng ông muốn
diễn tả sự giác ngộ ấy một cách tự nhiên nhất, không gượng ép, không mang biểu
dương hay ca ngợi theo kiểu khẩu hiệu. Bởi thế, nhân vật ông Hai ra đời là kết
quả của sự cân nhắc rất kĩ lưỡng của nhà văn.
Ơng Hai là một nơng dân suốt cuộc đời sống ở làng Chợ Dầu, gắn bó máu thịt
với từng con đường, từng nếp nhà, thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cành cây và biết
bao người ruột thịt, xóm giềng, tổ tiên và họ hàng gần xa. Quê hương trở thành
một phần máu thịt của ông. Và khi chết đi, ông cũng muốn được nằm trên mảnh
đất yêu thương này.
Người Việt Nam ta là thế, họ luôn nghĩ “cây có cội, nước có nguồn”, q hương
chính là cội nguồn không bao giờ được đánh mất. Thế nên, khi được lệnh phải đi
tản cư, ông Hai lưỡng lự, lúc đầu ông quyết không đi. Cũng thật dễ hiểu cho ông
Hai, bằng tuổi này rồi, sống được bao lâu nữa, giờ ra đi biết có trở về được
khơng? Cịn cái làng này ơng u nó thế, giờ ra đi rồi, ơng như mất đi nửa cuộc
đời. Ẩn sau cái tình yêu làng là thói quen nghìn đời của người nơng dân sống
bám đất bám làng, thủy chung với quê hương nguồn cội.
Ẩn sau cái tình u làng cịn là cái tình yêu nước thiết tha. Nhưng cách mạng
đang cần và họ phải thay đổi. Những chuyển biến âm thầm mà dữ dội ấy trong


tình cảm của người nơng dân Việt Nam đã được nhà văn biểu đạt hết sức xúc
động bằng sự cảm thơng sâu sắc.
Lưu luyến, nấn ná vậy chớ gia đình ông Hai cũng đi. Chưa biết rồi sẽ ra sao
nhưng vì cách mạng, vì kháng chiến nên phải cùng mọi người lên vùng đất mới.
Đó là cái tài tình của nhà văn. Bởi ơng muốn nói rằng, sự giác ngộ của người
nơng dân là hồn tồn tự nguyện; từ tình yêu quê hương mà lớn thành tình yêu

đất nước; từ thái độ căm ghét kẻ thù, căm ghét kẻ phản bội mà bùng nổ khát
vọng chiến đấu, một lòng trung thành với cách mạng, trung thành với lãnh tụ Hồ
Chí Minh.
Để làm sáng bừng tư tưởng của truyện, Kim Lân đã khéo léo để cho ông Hai tự
đấu tranh. Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ làng Chợ Dầu tha thiết. Ban ngày, lo bận
việc sản xuất, ổn định cuộc sống, buổi tối ơng Hai thường sang hàng xóm giãi
bày nỗi nhớ của mình. Ơng khơng ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê
hương mình. Làng Chợ Dầu quê ông đẹp lắm, đường là phong quang sạch sẽ, cái
cổng làng rộng như cổng thanh… Ông khoe cả cái“sinh phần” của viên tổng đốc
to lớn và oai nghiêm lắm.
Đặc biệt là ơng Hai khối nhất khoe và kể nhiều nhất là những ngày đầu cách
mạng. Quê hương được giải phịng, thốt khỏi ách cường hào phong kiến và lũ
tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Đêm đêm rậm rịch tiếng
bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm ran tiếng trẻ em học
bài… lại cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong những buổi cả làng
bàn việc nước, việc dân… Nghe những chuyện ấy, mọi người đều thông cảm với
lịng nhớ q da diết của ơng.
Đó là một người yêu quê hương tha thiết bằng một tình cảm tự nhiên, hồn nhiên.
Tình cảm đó bắt nguồn từ nững kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày, từ những sự
vật, con người gắn bó hàng ngày … Tình cảm đó thuần phác và trong sáng biết
bao.
Tưởng đâu, đó sẽ là niềm tự hào mãi mãi cho đến khi ông rời thế gian này. Đùng
một cái, ông hay tin làng Chợ Dầu theo giặc. Ông hai “cổ nghẹn đắng lại, da
mặt tê rân rân”. Trước hết, là sự xót xa của ơng về làng mình, sự phản bội của
nơi chơn rau cắt rốn của mình và nỗi tủi nhục tột cùng trào lên trong ông.
Cuộc xung đột sảy ra dữ dội trong ông, đau đớn hơn bất cứ điều gì ông đã từng
trải qua. Tình u làng vẫn thắm thiết trong ơng, làng Chợ Dầu vẫn là nới ông
gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bây giờ làng
ơng lại theo Tây. Ơng hồn tồn sụp đổ.
Tình huống truyện đặt ra cho nhân vật những lựa chọn hết sức khó khăn. Liệu

ơng Hai có cịn dám u cái làng của mình nữa khơng? Khơng u làng thì ơng


sẽ u cái gì? Con người ln cần phải có một niềm tin yêu để sống, ông không
thể bỏ rơi tinh thần của mình. Ơng lão nghĩ tới việc trở về làng. Song ý nghĩ đó
ơng gạt phắt đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng Chợ Dầu loé
lên như một tia hi vọng rồi lại tắt ngấm. Trong ơng tình u nước mạnh hơn,
thiêng liêng hơn: khơng vì làng mà bỏ kháng chiến.
Giữa sự giằng co trong tâm hồn, ông Hai đã thốt lên đầy đau đớn song đầy quyết
tâm: “Làng thì yêu thật đấy, nhưng làng theo Tây thì phải thù .. Anh em đồng chí
biết cho bố con ơng. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ơng, cái lịng bố
con ơng là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì bao giờ dám đơn sai”.
Tình quê và lịng u nước của những người nơng dân ấy rất sâu nặng và thiêng
liêng biết bao. Ông hai đã trải qua những buồn vui, đau khổ, những tự hào, chua
chát để gắn kết giữa tình quê hương và tình yêu tổ quốc.
Thế đấy, họ đã ngã về với kháng chiến khi đứng trong lựa chọn sống cịn bằng
tình cảm thiêng nhất, trong sáng nhất. Kim Lân đã miêu tả sự chuyển biến ấy rất
chân thực và hết sức tự nhiên. Thủy chung với quê hương là tình cảm tốt đẹp
nhưng tình u đất nước cịn lớn hơn.
Có thể nói đó là một thủ thách lớn đối với nhân vật ông Hai và cả nhà văn Kim
Lân. Đoạn tuyệt với cái mình từng yêu thương nhất, quý trọng nhất, ngày đêm
gìn giữ như một báu vật thật là khó khăn. Thế mới thấy, tình yêu cách mạng, yêu
kháng chiến, yêu nước của người nông dân mới to lớn, mới mạnh mẽ trở thành
tình cảm thiêng liêng và duy nhất ngay lúc này. Họ thức nhận được rằng, khơng
có nỗi nhục nào lớn hơn nỗi nhục mất nước và khi đất nước cịn bị xâm lăng thì
cái làng của họ cũng đâu cịn.
Từ đó, họ đứng hẳn về phía cách mạng, tin tưởng và ủng hộ cách mạng, góp sức
chung cho sự nghiệp kháng chiến giải phóng đất nước. Kim Lân đã tỉ mỉ tạc khắc
niềm tin ấy bằng sự trân trọng sâu sắc.
Và khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, ơng Hai như vừa thốt

khỏi một gánh nặng tinh thần ghê gớm. Tình yêu làng của ơng lại trở về hịa
quyện trong tình u nước thắm thiết, sâu nặng hơn trong lịng người nơng dân
chân chất này.
Phải chăng, Kim Lân đã quá hiểu cái tâm lí của người nhà quê, họ sẽ không chịu
thay đổi, họ bảo thủ với lối sống cũ nếu không cho họ có dịp trải nghiệm nỗi đau
thương, mất mát, sự ơ nhục và tự hào. Ở ơng Hai, đã có một sự thay đổi tích cực
và được khẳng định mạnh mẽ. Dẫu nhà của ông bị cháy rụi mà ông vân vui cười
và tự hào vì nhà mình bị giặc đốt. Nghĩa là ơng đã đóng góp vào sự nghiệp
kháng chiến một phần tài sản và công sức trong sự hi sinh lớn của dân tộc.


Ông chỉ biết rằng lúc này ông làm kháng chiến và ơng lão bây giờ có thể tự hào,
hãnh diện ngồi kể về cái làng Chợ Dầu kháng chiến của mình.
Từ khi có cách mạng, cuộc đời người nơng dân Việt Nam rẽ sang một bước
ngoặt mới tươi sáng hơn. Họ nơ nức, háo hức hồ chung vào phong trào cách
mạng cả nước, họ hăng hái tham gia kháng chiến, cầm súng bảo vệ quê hương.
Cách mạng trở thành một phần máu thịt của người nơng dân, có những người
như ông hai day dứt, tủi hổ, khổ sợ khi mình bị hiểu lầm là không trung thành
với cách mạng song vẫn khơng bỏ cách mạng. Đó là lịng trung thành, là tình
cảm sâu sắc, bền chặt mà người nơng dân dành cho cách mạng. Cách mạng mang
đến cho họ cuộc đời mới, họ phải bảo vệ lấy hạnh phúc đó của mình.
Vẻ đẹp tâm hồn của ơng hai làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân
Việt Nam tuy trình độ văn hố thấp nhưng đã có ý thức giác ngộ cao, tha thiết
yêu quê hương, Tổ quốc. Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong
tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách
mạng mà vănhọc thời kháng chiến chống pháp đã trú trọng làm nổi bật. Truyện
ngắn làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy.
 Kết bài:
Không xung phong, không cầm súng, khơng ra trận, nhưng Kim Lân lại chiến
đấu bằng ngịi bút hết sức âm thầm mà quyết liệt. Có thể nói, qua nhân vật ơng

Hai phản phất hình bóng của Kim Lân trong đó. Cũng như ơng Hai, Kim Lân
u làng, yêu nước, yêu cách mạng lắm. Từ nhận thức và tình cảm của bản thân,
ơng tìm cách chuyển tải nó vào văn học. Nhân vật ơng Hai là kết tinh sâu sắc cái
tài, cái tình của nhà văn Kim Lân đối với cuộc đời, đối với đất nước.



3 Mở bài:


Kim lân là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế
kỉ 20. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện
sinh hoạt văn hóa phong phú ở thơn q (đánh vật, chọi gà, thả chim…). Những câu
chuyện của ông kể lại một cách sinh động những thú chơi kể trên, qua đó biểu hiện
một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám – những
người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa.
Nổi bậc nhất trong các tác phẩm ấy là truyện ngắn Làng.Với giọng văn bình dị, đằm
thắm, Kim Lân đã thể hiện sâu sắc những chuyển biến mới trong tình cảm của người
nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp qua nhân vật Ơng Hai, một
người nơng dân hiền lành có tình u làng sâu đậm.


Thân bài:

Làng được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì này thì người dân nghe theo chính sách của
chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm chiếm đi lên
vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến lâu dài.
Có thể nói, trong các nhà văn trước và sau cách mạng, Kim Lân là nhà văn sống gần
gũi và am hiểu đời sống của người nông dân Việt Nam nhất. Ơng khơng chọn những

đề tài lớn để thử thách ngịi bút của mình mà lại đi vào những tình cảm nhỏ bé nhưng
không kém phần kịch liệt trong con người. Ở đó, ơng nhìn thấy cái vẻ đẹp trong sáng,
bình dị trong tâm hồn của người nơng vốn bị cuộc sống xơ bồ che lấp. Ở đó, ơng nhìn
thấy sự chuyển biến mới trong tình cảm của người nơng dân Việt Nam trước cuộc
chiến chống thực dân Pháp.
Vào những năm 1948, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp lên cao nhưng
người dân chưa thật sự ngã về phía cách mạng. Cho đến khi cách mạng thực sự đem
đến lợi ích cho các vùng giải phóng thì người nơng dân mới hết lòng tin tưởng và ủng
hộ. Kim Lân đã phát hiện và nhanh chóng nắm bắt tình hình ấy. Ơng đã thể hiện sự
chuyển biến tích cực với niềm tin tưởng tưởng và đem lại sự tin tưởng cho đơng đảo
người đọc. Có thể nói, với truyện ngắn Làng, Kim Lân đã đóng góp một tiếng nói
đồng tình, ủng hộ cách mạng với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Tư tưởng của truyện được cụ thể hóa qua hình tượng nhân vật ơng Hai. Ơng Hai là
một lão nơng hiền lành, chân chất. Ơng rất yêu và tự hào về cái làng Chợ Dầu của
mình. Ông yêu mến từng cái cây, con đường, hàng gạch, lối đi và tất cả những gì mà
làng Chợ Dầu có. Ơng u mến con người của làng Chợ Dầu hiền lành, thân thiện và
quả cảm.
Ông mường tượng tất cả đều gắn chặt với cuộc đời ông không thể tách rời và mỗi khi
có ai đó chê bai hay này nọ về cái làng của ông, ông đều tỏ ra khơng hài lịng. Ơng u
cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn
nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ
thấy. Mỗi hình ảnh của làng đều đem đến cho ơng một tình u mến vơ hạn. Đó cũng
là tình cảm vốn có từ ngàn đời nay của người nơng dân Việt Nam gắn bó máu thịt với


quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn của tổ tơng. Thế nhưng, ở nhân vật ơng Hai, đó là
một tình cảm đặc biệt, thiêng liêng lắm.
Cũng vì quá yêu làng như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Ơng
thắm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư
ơng buồn khổ lắm, sinh ra bực bội, ít nói, ít cười, lúc nào cũng lầm bầm.

Biểu hiện của ông Hai cũng là biểu hiện của đông đảo nông dân thời bấy giờ. Họ
không muốn rời làng, khơng muốn thay đổi. Kháng chiến thì cứ kháng chiến sao lại
phải rời đi? Họ quyết bám chặt đất đai dù có bị cùm kẹp, áp bức, bị giết hại. Đối với
họ, thay đổi nơi ăn chốn ở, rời bỏ mồ mả tổ tiên là một việc trọng đại. Làng nước là
chốn thiêng liêng, khơng thể nói bỏ là bỏ trong một sớm một chiều. Thế nhưng, để ủng
hộ kháng chiến, ủng hộ cách mạng, gia đình ơng cũng tản cư về chỗ mới nhưng tình
u làng mãi cịn quấn quýt trong ông.
Ở nơi tản cư, ông dần dần hiểu ra mọi chuyện. Giờ đây, không những ông Hai yêu
làng mà còn yêu cách mạng, yêu kháng chiến nữa. Từ miễn cưỡng thực hiện tản cư,
đến yêu mến rồi nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến đó là một sự chuyển
biến mạnh mẽ trong tình cảm của người nơng dân. Ơng Hai đã nhận thấy kẻ thù tàn
bạo, chúng hủy hoại làng và cuộc sống của của nhân dân. Ông muốn tham gia chiến
đấu cùng anh em nhưng ở tuổi này làm sao được.
Thế nhưng ông lại khơng muốn đứng ngồi cuộc, ơng muốn làm gì đó chứ khơng chịu
ngồi im khi trong lịng ơng đang rộn ràng. Hằng ngày, ơng đi nghe báo, ơng đi nghe
nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến…Tuy ít học,
khơng biết chữ nhưng lại rất thích nói chữ, thích nói chuyện chính sự dù cũng khơng
hiểu lắm các thuật ngữ chính trị, thích nói những chuyện to tát cho nó có cái khơng khí
cách mạng. Và ơng cho rằng đó là cách ơng u nước, yêu kháng chiến, ông muốn
cuộc chiến của dân tộc nằm trong lịng ơng, khơng xa rời.
Từ chuyện làng, ơng chuyển sang chuyện kháng chiến, chuyện đánh tây. Tình yêu làng
trong ơng vẫn lớn nhưng giờ đây nó hịa quyện trong tình yêu cách mạng, yêu kháng
chiến, tình yêu nước. Tình cảm cá nhân ơng Hai đã hịa hợp với tình yêu tổ quốc. Yêu
làng cũng là yêu nước. Tản cư nghĩa là ủng hộ cách mạng, nghĩa là ủng hộ sự nghiệp
giải phóng đất nước mà ủy ban kháng chiến đã đề ra. Có lẽ ơng Hai chưa nhận ra điều
đó nhưng trong tình cảm của ơng tình u nước đã sớm nảy nở và ngày càng sâu sắc
hơn. Kim Lân đã rất bình tĩnh khi thể hiện sự chuyển biến âm thầm mà mạnh mẽ này.
Sự việc ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc là một sự thử thách lớn đối với tình
yêu làng, yêu nước của ơng. Đồng thời nó cũng quyết định lập trường cách mạng của
người nơng dân trong tình thế ngặt nghèo của đất nước. Ông Hai đã sững sờ, chết lặng

người đi, rồi cảm giác xấu hổ, uất ức nghẹn trào khi nghe tin dữ đó.
Đối với ơng, đó làm một cái tin không thể tin được, không thể chấp nhận được. Từ
đỉnh cao của niềm vui,niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì
cái tin ấy quá bất ngờ. Làm sao làng chợ Dầu có thể theo giặc? Làm sao người chợ


Dầu có thể phản bội ơng, phản bội cách mạng? Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ơng
cịn cố chưa tin cái tin ấy.
Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy
lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái
tin sét đánh ấy. Cái mà ơng u q nhất nay cũng đã quay lưng lại với ông. Không chỉ
xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc
đời ông cũng như chết mất một lần nữa.
Tình huống truyện đã đặt nhân vật trong sự dằn vặt, đấu tranh ghê gớm. Đó là một
“chất liệu xúc tác” có năng lực thanh lọc những tình cao cao quý của con người. Trước
vận mệnh của đất nước và sự chuyển biến mạnh mẽ của dân tộc bắt buộc họ phải thay
đổi hướng về nhiệm vụ chung. Thế nhưng, điều đó khơng phải dễ dàng và thật khó
phát hiện. Tình u làng của ơng Hai khơng có gì sai, thậm chí là rất cao đẹp. Nhưng
ngay lúc này, đất nước đang cần có một tình cảm lớn hơn, đó là tinh thần u nước,
cùng góp sức mình trong mặt trận chống kẻ thù.
Từ lúc nghe tin, trong tâm trí ơng Hai chỉ cịn có cái tin dữ ấy, nó xâm chiếm, nó trở
thành một nỗi ám ảnh, day dứt không ngui. Nghe đâu chửi bọn Việt gian là ơng thấy
đau nhói trong tim. Bao nhiêu điều tự hào về làng, về quê hương như đỗ vỡ trong tâm
hồn người nông dân rất mực hiền lành ấy. Ơng cảm thấy như chính ơng mang nỗi nhục
của một tên bất lương bán nước theo giặc. Và các con ơng cũng sẽ mang nỗi nhục
khủng khiếp ấy.
Đó là trách nhiệm của một công dân tốt, của một người cha hết lịng vì con. Tuy khơng
trực tiếp phản bội cách mạng nhưng cái tiếng phản bội ấy có liên quan đến gốc cội của
ông. Người Việt Nam muôn đời sống có tình có nghĩa, q hương nguồn cội là cái nơi
của lịng tự hào, nay mang tiếng theo giặc bảo sao không khỏi tủi nhục. Nhưng cái

nhục của ông Hai là cái nhục cao quý, khi cái tự tôn trong ông bị đập đổ, bị phản bội.
Nhà văn Kim Lân đã rất bản lĩnh khi khắc họa điều này. Sự thay đổi trong tình cảm tốt
đẹp của người nông dân đã được tôn trọng, diễn ra từ từ và hết sức hợp lí, đúng đắn,
xuất phát từ nhận thức cao độ và khẳng định sâu sắc.
Sự tủi hổ của ơng Hai những ngày sau đó khẳng định mạnh mẽ điều này. Ơng Hai rơi
vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai. Ơng khơng biết đi đâu, về làng
thì khơng được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo Tây, phản bội kháng chiến.
Ở lại thì khơng xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi. Còn đi thi biết đi đâu bởi
ai người ta chưa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội.
Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hịa quyện trong nhau thì lúc này,
ơng Hai buộc phải có sự lựa chọn. Quê hương và Tổ quốc, bên nào nặng hơn? Đó
khơng phải là điều đơn giản vì với ơng, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc
đời, khơng dễ gì vứt bỏ; cịn cách mạng là cứu cánh của gia đình ơng, giúp cho gia
đình ơng thốt khỏi cuộc đời nơ lệ.
Cuối cùng, ơng đã quyết định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì
phải thù”. Sau bao đắn đo, bao lựa chọn, bao lí do, cuối cùng ơng hai đã thật sự dứng


về phía cách mạng, ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Tình u làng dẫu có thiết
tha, mãnh liệt đến đâu cũng khơng thể mãnh liệt hơn tình u đất nước.
Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt
bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đồng. Họ có thể vì cách
mạng vì đất nước mà hi sinh tình riêng, hướng đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng nước nhà.
Cuộc giải bày của ơng Hai khi nói với đứa con nhỏ thật cảm động. Dù đã quyết liệt
nhưng ông Hai không khỏi đau lịng, ấm ức. Và khi tình huống truyện đạt đến cao trào,
tình cảm dâng lên đỉnh điểm thì Kim Lân lại cho nó bùng phát một lần nữa cởi trói cho
nhân vật u mến của mình. Đúng lúc ông Hai quyết định rõ ràng lập trường của mình
thì cái tin làng Chợ Dầu phản bội đã được cải chính. Nỗi niềm đau khổ của ơng Hai
trong những ngày qua lướn lao bao nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh phúc cũng dạt

dào bấy nhiêu. Ông muốn nhảy cẫng lên, muốn hét thật lớn để giải thoát bao ấm ức,
bao kìm nến, bao tủi nhục bấy lâu, lên tiếng minh oan cho chính mình.
Phần xử lí cốt truyện tài tình thể hiện sự cảm thơng sâu sắc và tình yêu mến lớn lao
của nhà văn đối với người nông dân hiền lành, yêu nước.
Thế rồi, ông lại đi khắp nơi, gặp ai ơng cũng nói làng chợ dầu khơng theo giặc, làng
chợ dầu kháng chiến với niềm hân hoan tột cùng.
Có thể nói, cái tài tình của Kim Lân là đã sáng tạo tình huống truyện có tính căng
thẳng, đầy thử thách, cách sử lí cốt truyện mang đâm chất tâm lí. Nghệ thuật miêu tả
tâm lí nhân vật của nhà văn tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế. Đặc biệt ngôn ngữ đặc sắc,
sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người
nông dân vốn là thế mạnh của nhà văn nông dân tài hoa này.


Kết bài:

Truyên ngắn làng đã thể hiện trọn vẹn sự chuyển biến tình cảm của người nơng dân
Việt Nam thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Từ một người nông dân yêu làng, ông
Hai trở thành người cơng dân nặng lịng với kháng chiến. Tình u làng, u nước đã
hịa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ơng Hai. Tình cảm ấy thống nhất,
hịa quyện như tình u nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp
truyền thống mang tinh thần thời đại. Ơng Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nơng
dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×