Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ BẢN CHẤT, ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN GÓP PHẦN XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.79 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN

TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ BẢN CHẤT, ĐẶC
TRƯNG CỦA DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. LIÊN HỆ VỚI THỰC
TIỄN XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN GÓP PHẦN XÂY DỰNG NỀN
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Học phần: POLI200308 – CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 09 năm 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN

TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ BẢN CHẤT, ĐẶC
TRƯNG CỦA DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. LIÊN HỆ VỚI THỰC
TIỄN XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN GÓP PHẦN XÂY DỰNG NỀN
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Học phần: POLI200308 – CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Họ và tên: Nguyễn Như Hoàng Phúc
Mã số sinh viên: 46.01.102.057
Lớp học phần: POLI200308
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lương Văn Tám

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 09 năm 2021



Mục lục
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài...........................................................................1


3. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................1
4. Phạm vi nghiên cứu.............................................................................................1
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................1
6. Kết cấu của đề tài.................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: BẢN CHẤT, ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA...................................................................................................................... 2
1.1 Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa...........................................................2
1.2 Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa........................................................2
1.3 Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa......................................................4
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM................................................6
2.1 Liên hệ với thực tiễn......................................................................................6
2.2 Trách nhiệm của sinh viên............................................................................8
KẾT LUẬN..................................................................................................................9
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................10


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bản

chất, đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa, những liên hệ thực tiễn trong việc xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từ đó đưa ra định hướng và trách nhiệm của sinh viên
góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

3. Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất, đặc trưng của dân chủ xã hội chủ
nghĩa, liên hệ thực tế trong việc xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu bản chất, đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa, những
thực tế trong xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên tài liệu hướng dẫn tự học môn Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Sử dụng các phương pháp hệ thống – cấu trúc, phân tích – tổng hợp, thống kê, quan điểm thực
tiễn để xem xét vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu và định hướng cho quá trình nghiên
cứu.

6. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu; 2 chương; kết luận và tài liệu tham khảo.


2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BẢN CHẤT, ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
1.1 Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1.1 Dân chủ
Thuật ngữ dân chủ được ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII – VI trước công nguyên.
Theo đó, dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị và sau này được các nhà chính trị gia gọi giản

lược là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về tay nhân dân.
Từ việc nghiên cứu các chế độ dân chủ trong lịch sử và thực tiễn lãnh đạo cách mạng
xã hội chủ nghĩa, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ có một số nội dung cơ
bản sau đây:
- Thứ nhất, dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao động; dân chủ là
quyền lực của nhân dân.
- Thứ hai, khi xã hội có giai cấp và nhà nước thì dân chủ là một hình thức nhà nước,
chế độ dân chủ là một phạm trù chính trị.
- Thứ ba, trên phương diện tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên tắc –
nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành nguyên
tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hộ

1.1.2 Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và
Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công với sự
ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới (1917) thì nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa mới chính thức được xác lập. Sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu
bước phát triển mới về chất của dân chủ. Quá trình phát triển của dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt
đầu từ thấp đến cao, từ chưa hồn thiện đến hồn thiện. Trong đó có sự kế thừa những giá trị
của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm những giá trị của nền dân
chủ mới.
Như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ
tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ;
dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

1.2 Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa
Như mọi loại hình dân chủ khác, dân chủ vơ sản, theo V.I.Lênin, không phải là chế độ
dân chủ cho tất cả mọi người; nó chỉ là dân chủ đối với quần chúng lao động và bị bóc lột;
dân chủ vơ sản là chế độ dân chủ vì lợi ích của đa số. Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ

lịch sử tiến hoá của dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa có bản chất cơ bản sau:
Bản chất chính trị: Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân,
nhưng giai cấp công nhân lại là giai cấp thuộc nhân dân lao động mà ra, đại biểu phương thức
sản xuất mới, hiện đại, gắn với và đại biểu cho lợi ích của tồn thể nhân dân lao động và dân
tộc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng giai cấp công nhân (đảng Mác – Lênin) mà trên
mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ:
Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không phải chỉ để thực hiện quyền lực và
lợi ích riêng cho giai cấp cơng nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của tồn
thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân
lao động là những người làm chủ những quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới
thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương, tham gia
đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, công nhân viên
nhà nước. Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước chính là nội dung


3
dân chủ trên chính trị. Do vậy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ
tư sản.
Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp cơng
nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc
Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư
liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản
xuất dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu
cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của cơ sở kinh tế của xã hội
xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Do đó khơng cịn quan hệ sản
xuất bóc lột. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được biểu hiện là sự đảm bảo về lợi ích kinh tế, phải
coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản nhất. Lao động, việc làm và phân
phối tương ứng với kết quả lao động là nội dung kinh tế của dân chủ, đây cũng là nội dung mà
quyền dân chủ được thể hiện một cách rộng rãi, trực tiếp. Do vậy, khác với nền dân chủ tư

sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.
Bản chất tư tưởng – văn hoá – xã hội: Nền dân chủ xã hội lấy tư tưởng Mác – Lênin –
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác
trong xã hội mới. Đồng thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống dân
tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng – văn hoá, văn minh, tiến bộ xã hội… mà nhân loại đã tạo
ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc… Trong nền văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp
hài hồ về lợi ích giữa cá nhân, tập thể và lợi ích của tồn xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ra sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Với những bản chất nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu được thực
hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả của hoạt động tự giác của quần
chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có
được với điều kiện tiên quyết là bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản. Chỉ
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả chống lại mọi mưu
đồ lợi dụng dân chủ vì những động cơ đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Chính sự lãnh đạo
của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát triển.

1.3 Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang tính lịch sử.
Mọi nền dân chủ đều mang tính lịch sử, bởi nó ra đời trong những điều kiện và tiền đề
chính trị xác định, tồn tại biến đổi trong mối quan hệ biện chứng với những cơ sở kinh tế - xã
hội, chính trị - xã hội xác định. Trong đó, những lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp cơng
nhân giữ vai trị chi phối, quyết định đến bản chất, các hình thức và phương thức thực thi
quyền lực chính trị chủ yếu của nền dân chủ. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời là sản phẩm
tất yếu của cuộc đấu tranh về tay giai cấp công nhân, xác lập bộ máy nhà nước của giai cấp
công nhân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, hình thành và xác lập hệ thống các thiết chế chính trị
chủ yếu, bảo đảm quyền lực chính trị thuộc về giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tất yếu trải qua các giai đoạn cơ bản như sau: thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, các

điều kiện, tiền đề của chủ nghĩa công sản được từng bước xác lập và củng cố, theo đó, nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng từng bước tự phủ định mình, từng bước tự tiêu vong.
Thứ hai, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang bản chất giai cấp của
giai cấp công nhân, đồng thời là nền dân chủ đại chúng, dân chủ cho đại đa số.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang bản chất giai cấp công nhân, là nền
dân chủ đại chúng, cho đại đa số nhân dân lao động.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sứ mệnh thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ
nghĩa cộng sản, được xây dựng trên cơ sở phát huy, thể hiện ngày càng đầy đủ, trên thực tế


4
quyền dân chủ của nhân dân mà nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân với quảng đại quần
chúng nhân dân lao động. Cùng với quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá trình xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, khối liên minh này ngày càng đông đảo, ngày càng trở
thành nền tảng của giai cấp cơng nhân. Đó chính là động lực xã hội cơ bản của cách mạng xã
hội chủ nghĩa và là chủ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ có tính chất dân tộc, đồng thời
lại mang tính nhân loại.
Nền dân chủ có tính dân tộc bởi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trước
hết trong lòng từng quốc gia dân tộc, trên cơ sở văn hóa xã hội chủ nghĩa với nội dung tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn cần trở thành phổ biến trong mọi quốc gia dân tộc,
ngay từ khi ra đời trong từng quốc gia dân tộc, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã là nền dân
chủ mang tính phổ biến, tính nhân loại.
Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên
các lập trường, nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, hệ thống lý luận cách mạng –
khoa học, phản ánh một cách đúng đắn, chính xác vai trị sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của
giai cấp công nhân.
Thứ tư, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cuối cùng trong lịch sử - là nền
dân chủ tự tiêu vong.

Nền dân chủ là sản phẩm của cuộc cách mạng xã hội, mang bản chất của giai cấp
thống trị là những giai cấp đại diện cho chế độ sở hữu tư nhân, có lợi ích chính trị cơ bản đối
lập với lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân lao động và của toàn xã hội. Do vậy, sự
phát triển khách quan của sản xuất, kinh tế kéo theo những phát triển tương ứng trong chính
trị… tất yếu dẫn đến sự bị diệt vong của những nền dân chủ ấy.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sản phẩm tất yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa do chỉnh đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Nền dân chủ xã hội ấy thống nhất về lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp cơng nhân
với lợi ích chính trị của nhân dân lao động, với dân tộc và toàn xã hội.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước ngày
càng nhiều và càng có hiệu quả.


5
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1 Liên hệ với thực tiễn
Phát triển lý luận và thực tiễn về dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những thành
tựu to lớn của Đảng ta qua 35 năm đổi mới, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát
triển đường lối đổi mới của Đảng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, đáp ứng được khát vọng của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn
Việt Nam. Tổng kết về vấn đề này, khẳng định: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng
nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ
trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam” (3). Đây là một trong những luận điểm khái quát
cốt lõi về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Cũng như bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Việt Nam, bản chất
dân chủ xã hội chủ nghĩa là dựa vào Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự ủng hộ, giúp đỡ của
nhân dân. Đây là nền dân chủ mà con người mà con người là thành viên trong xã hội với tư

cách công dân, với tư cách của người làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân là tất cả quyền
lực đều thuộc về nhân dân, dân là gốc, là chủ, dân làm chủ.
Kế thừa tư tưởng dân chủ trong lịch sử và trực tiếp là tư tưởng dân chủ của Hồ Chí
Minh, từ khi ra đời cho đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng luôn xác định xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội, là bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ gắn liền với kỷ cương và phải thể chế hoá bằng pháp
luật, được pháp luật đảm bảo…Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được được
thực hiện thơng qua các hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng bảy tỏ: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự
phát triển là thực sự vì con người, chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên
phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần
một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ
không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và
các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi
trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác,
chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường. Và chúng ta cần
một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi
ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có.” (4)
Trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một yêu cầu tất yếu là khơng
ngừng củng cố, hồn thiện những điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân và chăm lo
cho đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt qua 35
năm đổi mới, thể hiện rất rõ và hết sức sinh động những tiến bộ đạt được trong phát huy dân
chủ, cũng như xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
(5)
Từ ngày thành lập tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh quyền làm chủ
của nhân dân. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh chủ trương phát huy dân chủ để tạo động lực
mạnh mẽ cho phát triển đất nước “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. (6)
Phát huy tinh thần của Đại hội VI, các kỳ đại hội tiếp theo cũng nhấn mạnh “sự nghiệp cách

mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng là “xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân”. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn nhấn mạnh nhân dân
làm chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội, kiên định nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước


6
thuộc về nhân dân, không ngừng thúc đẩy đổi mới chính trị, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và đã đạt được những thành tựu to lớn. (7)
Ở Việt Nam, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý và vận hành nền kinh tế
thị trường, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế luôn gắn với bảo đảm công bằng, thực hiện tiến
bộ xã hội, phát triển văn hóa, phát triển con người, nhằm mục đích nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân. Quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế ngày càng mở rộng.
Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp...
Cơng bằng trong phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng
góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội. Quá trình mở rộng dân chủ kinh tế gắn liền với mở rộng dân chủ chính trị, thực hành
ngày càng rộng rãi và thực chất quyền lực chính trị của nhân dân, thơng qua cả phương thức
ủy quyền gián tiếp và dân chủ trực tiếp. (8)
Nhận thức của Đảng ta về thực hành dân chủ ngày càng toàn diện và sâu sắc. Điều này
thể hiện rõ hơn cả ở chỗ quyền công dân gắn với quyền con người được đề cao, tôn trọng và
bảo vệ bằng pháp luật, tích cực thực hiện các cơng ước quốc tế liên quan quyền con người mà
Việt Nam đã ký kết và tham gia; coi trọng dân chủ ở cơ sở, coi trọng phản biện xã hội, đề cao
thượng tơn Hiến pháp và pháp luật. (9)
Ngồi ra, chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh,
động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hịa
với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá

trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất
cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây
dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người,với trình
độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng ta xác định: Con
người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa
học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ mơi trường là một trong những vấn đề sống
cịn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành
mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh. (10)
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền
tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hoà với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về
chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm,
do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội.
(11)
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu và mặt tích cực, ở một số nơi, nhận thức và thực
hành về dân chủ còn hạn chế, thực hiện dân chủ cơ sở cịn hình thức, quyền làm chủ của nhân
dân chưa hồn tồn được tơn trọng và phát huy, chưa có cơ chế đầy đủ bảo đảm để nhân dân
thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực. Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh
còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều
doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước cịn hạn chế; mơi trường bị ơ nhiễm tại
nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường cịn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh
đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình tồn cầu hố và hội nhập quốc tế. (12)
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và
nhiều dịch vụ cơng ích khác cịn khơng ít hạn chế; văn hố, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp;
tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí,
suy thối về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại ln tìm mọi thủ đoạn để can thiệp,



7
chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hồ bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. (13)
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu
xã hội mới về chất, hồn tồn khơng hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo
vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, khơng thể
nóng vội. (14) Trải qua 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn dựa vào dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là mục tiêu và động lực của cách mạng. Đó cũng chính là
bài học quý báu để Đảng ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, để giành hết thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Bài học đó giữ nguyên giá trị trong q trình lãnh đạo cơng cuộc đổi
mới và hội nhập toàn cầu hiện nay. (15)

2.2 Trách nhiệm của sinh viên
Khơng ngừng học tập, nâng cao trình độ để trở thành người có ích cho xã hội, góp
phần vào việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mỗi cá nhân là một viên gạch, một
đinh vít quan trọng để có thể xây dựng thành cơng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tích cực
tham gia các hoạt động Đoàn viên thanh niên, Hội sinh viên. Noi gương những hành động
đẹp, những việc làm tốt của những tấm gương tiêu biểu. Thực hiện tốt chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên tham gia các cuộc họp chi
Đoàn, chi Bộ để tham gia đóng góp ý kiến, phê bình và tự phê bình, xây dựng tập thể vững
mạnh. Tham gia các buổi tập huấn, tuyên truyền về đường lối của Đảng. Giữ vững tinh thần
trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, tuyệt đối trung thành với Đảng.
Sinh viên là thế hệ trẻ, là thế hệ tiếp nối và là tương lai của Đất nước, cần phải học tập,
rèn luyện về trí và lực. Học tập những cái mới nhưng vẫn giữ vững những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Luôn không ngừng phấn đấu để trở thành một thành viên trong hàng ngũ
của Đảng.


8
KẾT LUẬN

Nghiên cứu và vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội trong cơng
cuộc đổi mới ở Việt Nam có ý nghĩa vơ cùng to lớn. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác –
Lênin đã đặt những quan điểm nền móng cho học thuyết về dân chủ. Đó là nền tảng tư tưởng
và phương pháp luận cho cơng cuộc đổi mới nói chung và trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa nói riêng ở Việt Nam.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những con đường đúng đắn mà Đảng và Nhà nước ta
theo đuổi. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong suốt 35 năm đổi mới thể hiện rất rõ và sinh
động những tiến bộ đạt được trong phát huy dân chủ cũng như xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa của nước ta. Những thành tựu của công cuộc đổi mới nói chung và xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng ở Việt Nam là minh chứng thực tế cho tính đúng đắn trong
quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ. Xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trọng yếu, chính vì thế cần tiếp tục kế
thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác  - Lênin về dân chủ cũng như đẩy
mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo ra những yêu cầu và điều kiện mới cho việc phát triển
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về việc dân chủ và lý tưởng cách mạng của
Đảng và Nhà nước, bản thân mỗi sinh viên Việt Nam cần phải nêu cao ý thức và có tinh thần
XHCN, phấn đấu hết mình cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời cần kiên
quyết đấu tranh bài trừ chủ nghĩa cá nhân ra khỏi đời sống xã hội. Từ đó xây dựng một thế hệ
sinh viên phát triển toàn diện, kiên định với  mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.


9
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Nhiều tác giả biên soạn: Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, ngày 29 tháng 7 năm 2019.
(2), (3) (4) (5) (10) (11) (12) (13) (14) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, ngày 16
tháng 5 năm 2021.
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.29
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội,

2011, tr. 84 – 85.
(8) (9) (15) PSG,TS. Mai Hải Oanh: Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay,
Tạp chí Cộng sản, ngày 21/08/2020.



×