Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và vận dụng vào việc học tập của sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật tp hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 53 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ÐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG TRỌNG ÐIỂM

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LEENIN VỀ VAI TRỊ
CỦA THỰC TIỄN ĐĨI VỚI NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG
VÀO VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM HIỆN NAY

Mã số: T2015 - 130

Chủ nhiệm đề tài: THS. GV. TẠ THỊ THÙY

SKC005581

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11/2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC


VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐH SPKT TP.HCM HIỆN NAY

Mã số: T2015 - 130

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Tạ Thị Thùy

TP. HCM, Tháng 11 Năm 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐH SPKT TP.HCM HIỆN NAY

Mã số: T2015 - 130

Chủ nhiệm đề tài: Th.S Tạ Thị Thùy

TP. HCM, Tháng 11 Năm 2015



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết:
Từ trước đến nay thực tiễn là một trong những vấn đề trung tâm của triết
học, nó khơng chỉ là một phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận nhận thức
mácxít mà cịn của toàn bộ triết học Mác-Lênin. V.I Lênin đã đưa ra rằng:
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản
nhất của lý luận nhận thức”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói “lý luận mà
khơng có thực tiễn là lý luận sng”. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải
coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với
thực tiễn, chính vì vậy mà việc học ln phải đi đôi với hành.
Một người, dù tài năng đến mấy, nhưng những ý tưởng thiên tài chỉ được
phác họa trong đầu và trên trang giấy thì mãi mãi khơng được cơng nhận và
khơng có giá trị. Chính trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
Đảng ta đã chỉ ra rằng “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khác quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật
khách quan là điều kiện bảo đảm cho sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. Điều
đó cho thấy mối quan hệ đặc biệt khăng khít giữa nhận thức và thực tiễn, hay
nói đơn giản hơn là gữa lý thuyết và thực hành. Như vậy, có thể thấy rằng
thực tiễn và nhận thức có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau.
Nhưng trong mối quan hệ đó thực tiễn đóng vai trị quan trọng bởi hoạt động
thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích của nhận thức và là
tiêu chuẩn của chân lý, để kiểm tra tính chân lý của q trình nhận thức.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đất nước đang trong quá trình mở cửa,
hội nhập với thế giới vấn đề đặt ra là cần phải có một nhận thức đúng đắn,
xuất phát từ thực tiễn thì mới có thể có những hoạt động và hành động đúng
đắn bắt kịp với sự phát triển và không ngừng biến đổi của thế giới hiện đại.
Trong khi đó, sinh viên là thế hệ trẻ, là những hạt nhận đóng vai trị quan

trọng trong việc kiến thiết và phát triển đất nước, do đó, địi hỏi sinh viên với


2

tư cách là thế hệ tương lai phát triển đất nước cần phải có sự nhận thức đúng
đắn vai trị của thực tiễn. Đặc biệt là vai trò của thực tiễn đối với việc học tập
hiện nay, nhất là với sinh viên chuyên về những ngành khối kỹ thuật thì cần
phải thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, phải biết kết hợp giữa
việc học lý thuyết trên lớp với việc học thực hành dưới xưởng để có thể năm
vững kiến thức bản thân, thấu hiểu vai trị của thực tiễn đối với nhận thức thì
mới có thể đạt đến mục đích cuối cùng là áp dụng cho chính bản thân của sinh
viên trong việc học tập cũng như trong công việc và cuộc sống sau này, vì
thực tiễn ln ln thay đổi và đổi mới.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức là vấn đề muôn thủa
của con người trong quá trình lao động cũng như hoạt động sản xuất vật chất.
Ngay cả trong triết học thì thực tiễn và vai trị của nó cũng ln có một vị trí
quan trọng trong dịng chảy tư tưởng từ thời kỳ cổ đại cho tới thời kỳ hiện đại.
Chính vì vậy mà vấn đề về thực tiễn nói chung và vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin nói riêng cũng đã có
nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đi tìm hiểu ở những
khía cạnh khác nhau. Song việc nghiên cứu tìm hiểu về vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức và vận dụng vào việc học tập của sinh viên những ngành kỹ
thuật nói chung và sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM nói riêng thì
hiện nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu.
3. Mục đích của đề tài
Tìm hiểu về vai trị của thực tiễn đối với nhận thức theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin.
Vận dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đối với việc học tập của

sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứ của đề tài


3

Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng của mối quan hệ giữa thực tiễn với
nhận thức, giữa học lý thuyết và thực hành của sinh viên ở trường Đại học Sư
phạm Kỹ thuật Tp.Hồ Chí Minh.
Đề xuất một số giải pháp nhằm vận dụng có hiệu quả giữa việc học lý
thuyết và thực hành đối với sinh viên.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong
việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của thực
tiễn đối với nhạn thức và vận dụng quan điểm đó vào việc học của sinh viên
trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.Hồ Chí Minh.
5. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận: Khảo sát trực tiếp sinh viên.
Phương pháp nghiên cứu: Lịch sử - logic, phân tích – tổng hợp, quy nạp
– diễn dịch, so sánh đối chiếu, điều tra phỏng vấn…
6. Hiệu quả
Giúp sinh viên hiểu rõ được tầm quan trọng của việc kết hợp giữa việc
học lý thuyết và học thực hành.
Góp phần vào việc giúp cho sinh viên vận dụng học lý thuyết vào thực
hành một cách có hiệu quả.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1


4


QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA
THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ THỰC TIỄN VÀ
NHẬN

1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về phạm trù thực
tiễn
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản khơng
chỉ của lý luận nhận thức mácxít mà thực tiễn còn là một trong những phạm
trù nền tảng, cơ bản của triết học Mác – Lênin.
Trong lịch sử triết học các nhà triết học trước Mác không phải mọi trào
lưu đều đưa ra quan điểm đúng đắn về phạm trù thực tiễn. Chẳng hạn chủ
nghĩa duy tâm lại hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới
của con người người, chứ không xem nó là hoạt động hiện thực, hoạt động
lịch sử xã hội, là hoạt động vật chất cảm tính của con người, mặc dù chủ
nghĩa duy tâm đã phần nào nhận thấy được mặt năng động sáng tạo trong hoạt
động của con người.
Trong khi đó chủ nghĩa duy vật trước Mác đã có cơng lao to lớn trong
việc phát triển thế giới quan duy vật, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn
giáo và thuyết không thể biết. Chủ nghĩa duy vật trước Mác đẫ hiểu thực tiễn
là một hành động vật chất của con người, nhưng lại xem hoạt động đó là hoạt
động con bn, đê tiện, bẩn thỉu. Mặc dù có cơng lao to lớn nhưng lý luận của
họ cịn nhiều hạn chế, thiếu sót, trong đó hạn chế lớn nhất là khơng thấy được
vai trị của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, do đó chủ nghĩa duy vật của
họ mang tính chất trực quan. Mác đã chỉ rõ ra khuyết điểm chủ yếu, từ trước
đến nay của mọi chủ nghĩa duy vật kể cả chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc là
khơng thấy được vai trị của thực tiễn.
Khắc phục những hạn chế và sai làm đông thời kế thừa và phát triển sáng
tạo những yếu tốt hợp lý trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết

học trước đó, Mác và Ăngghen đa đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học


5

về thực tiễn và vai trị của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận
thức, hai ông đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói
chung và trong lý luận về thực tiễn nói riêng . Lênin nhận xét: “Quan điểm về
đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về
nhận thức”.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đưa ra quan điểm về thực tiễn: “Thực tiễn, là
những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật
chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới
bên ngồi, thì con người, nhờ vào thực tiễn như là hoạt động có mục đích, có
tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích
nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Con
người khơng thể thỏa mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới
dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất của cải vật chất để
ni sống mình. Để lao động và lao động có hiệu quả, con người tạo nên
những vật phẩm vốn khơng có sẵn trong tự nhiên. Khơng có hoạt động đó,
con người và xã hội lồi người khơng thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy,
có thể nói rằng thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã
hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và
thế giới. Thực tiễn là cái xác định một cách thực tế sự liên hệ gữa sự thật với
những điều cần thiết đối với con người.
Tuy trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn thay đổi qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt

động cơ bản và phổ biến của xã hội lồi người. Hoạt động đó chỉ có thể được
tiến hành trong các quan hệ xã hội. Thực tiễn cũng có q trình vận động và
phát triển của nó; trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục


6

giới tự nhiên và làm chủ xã hội của con người. Do đó, về mặt nội dung cũng
như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội.
Thực tiễn bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt động, bất kỳ quá
trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như nhu cầu, lợi ích,
mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó có quan hệ với nhau, quy
định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn khơng thể diễn ra
được.
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong
phú, song có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động
chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là dạng hoạt động thực tiễn ngun thủy và
cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và
quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, nó tạo thành cơ sở của tất
cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người
thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật. Là hình thức hoạt động cơ bản, đầu
tiên của thực tiễn, đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những
công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các
điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội.
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người
khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy
xã hội phát triển.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn,
đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra

gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng
hoạt động thực tiễn này ngày nay càng có vai trò quan trọng trong sự phát
triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng và khoa học công nghệ
phát triển hiện đại.


7

Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan
trọng khác nhau, khơng thể thay thế được cho nhau song giữa chúng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó,
hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trị quyết định
đối với các hoạt động khác. Bởi vì, nó là hoạt động nguyên thủy và tồn tại
một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó
tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn
và phát triển của con người. Khơng có hoạt động sản xuất vật chất thì khơng
thể có các hình thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho
cùng cũng xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động
sản xuất vật chất của con người.
Nói vậy khơng có nghĩa là các hình thức hoạt động chính trị xã hội và
thực nghiệm khoa học là hồn toàn thụ động, lệ thuộc một chiều vào hoạt
động sản xuất vật chất. Ngược lại, chúng có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm
hoạt động sản xuất phát triển. Chẳng hạn, nếu hoạt động chính trị xã hội mang
tính chất tiến bộ, cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học mà đúng
đắn sẽ tạo đà cho hoạt động sản xuất phát triển. Cịn nếu hoạt động chính trị
xã hội mà lạc hậu và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học mà sai lầm, khơng
khoa học sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động sản xuất vật chất.
Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản
đó làm cho thực tiễn vận động, phát triển khơng ngừng và ngày càng có vai

trị quan trọng đối với nhận thức.
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về phạm trù nhận thức
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng chỉ ra rằng: Nhận thức là
một q trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế
giới khách quan.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận thức xuất phát từ
những nguyên tắc cơ bản: thứ nhất, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách


8

quan, độc lập với ý thức con người; thứ hai, thừa nhận con người có khả năng
nhận thức được thế gới khách quan, coi nhận thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể
của chủ thể, thừa nhận khơng có cái gì là khơng thể nhận thức được mà chỉ có
những cái con người chưa nhận thức được; thứ ba, khẳng định sự phản ánh đó
là quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo, q trình phản ánh đó
diễn ra theo trình tự chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ chưa s âu
sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn; thứ tư, coi thực tiễn là cơ sở
chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức
và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức của con
người là một q trình. Đó là q trình đi từ nhận thức kinh nghiệm đến trình
độ nhận thức lý luận, từ trình độ nhận thức thơng thường đến trình độ nhận
thức khoa học…
Nhận thức kinh nghiệm, là trình độ nhận thức đi từ sự quan sát trực tiếp
các sụ vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các thí nghiệm
khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm.
Tri thức kinh nghiệm có hai loại, tri thức kinh nghiệm thông thường và tri

thức kinh nghiệm khoa học. Hai loại tri thức này có thể bổ sung cho nhau,
làm phong phú lẫn nhau.
Nhận thức lý luận, là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ
thống trong việc khái qt bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức
khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó,
nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, nó cung cấp cho nhận
thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể, nó trực tiếp gắn chặt với hoạt
động thực tiễn, tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho
lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức
kinh nghiệm cịn hạn chế ở chỗ nó chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân loại các sự


9

kiện, các dữ kiện thu được từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do đó, nó
chỉ đem lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản
ánh được cái bản chất, những mối liên hệ mang tính quy luật của các sự vật,
hiện tượng. Vì vậy, nhận thức kinh nghiệm tự nó khơng bao giờ có thể chứng
minh được đầy đủ tính tất yếu. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ sự tổng
kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức lý luận không hình thành một cách
tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có
thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri
thức kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm
biến đổi đời sống của con người, thơng qua đó mà nâng cao những tri thức
kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, có
tính phổ biến.
Nhận thức thơng thường, là loại nhận thức được hình thành một cách tự
phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự
vật, hiện tượng xảy ra với tát cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc

thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thơng thường mang tính phong
phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì
thế, nó có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người
trong xã hội.
Nhận thức khoa học, là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác
và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối
tượng nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng logic. Đó là
các khái niệm, phạm trù và các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có
tính khách quan, trừu tượng, khái qt, lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và
có tính chân thực. Nó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và
sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc
bản chất và quy luật của đối tượng trong nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa
học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời
đại khoa học và công nghệ hiện đại.


10

Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác
nhau về chất của quá trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực.
Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong mối quan hệ đó, nhận
thức thơng thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây
dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù đã chứa đững những mầm mống của
những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng
lại ở sự phản ánh cái bề ngồi, ngẫu nhiên, khơng bản chất của đối tượng và
tự nó khơng thể chuyển thành nhận thức khoa học. Muốn phát triển thành
nhận thức khoa học cần phải thơng qua q trình tổng kết, trừu tượng, khái
quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức
khoa học, nó lại có tác động trở lại nhận thức thơng thường, xâm nhập vào
nhận thức thông thường, làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng

cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới.
Nhận thức của con người là một q trình trong đó có nhiều giai đoạn,
trình độ, vịng khâu và hình thức khác nhau, chúng có nội dung như vai trị
khác nhau đối với việc nhận thức sự vật.
Từ đó có thể thấy rằng, nhận thức của con người là một q trình, trong
đó có nhiều giai đoạn, trình độ vịng khâu và hình thức khác nhau, chúng có
nội dung cũng như vai trị khác nhau đối với việc nhận thức sự vật. V.I.Lênin
đã khái quát con đường nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trựu tượng đến thực tiễn – đó chính là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách
quan.
Trực quan sinh động cịn được gọi là giai đoạn nhận thức cảm tính; đây
là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự
vật nhằm nắm bắt các sự vật ấy. Nhận thức cảm tính được thể hiện dưới 3
hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác, là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc
của mọi hiểu biết của con người. Cảm giác là sự phản ánh từng măt, từng


11

thuộc tính bên ngồi của sự vật vào các giác quan của con người. Sự vật hoặc
hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên cảm
giác. Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác
quan con người, là sự chuyển hóa năng lượng kích thích bên ngồi thành yếu
tố của ý thức. Chính vì thế mà V.I.Lênin đã viết: “Cảm giác là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan”.
Tri giác, là tổng hợp nhiều cảm giác; nó đem lại hình ảnh hồn chỉnh
hơn về sự vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở các cảm giác, là sự kết hợp các cảm
giác. So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức c ảm tính,

nó đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Biểu tượng, là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp xúc
trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn tượng, những
hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu sắc đến
mức có thể hiện lên trong ký ức của chúng tangay cả khi sự vật khơng cịn ở
trước mắt. Đó chính là những biểu tượng. Trong biểu tượng chỉ giữ lại những
nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác đem lại trước đó.
Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác động, kích thích đến trí
nhớ con người. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng; sự
tưởng tượng đã mang tính chủ động, sáng tạo. Tưởng tượng có vai trị rất to
lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật. Biểu tượng tuy
vẫn cịn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính, song đã bắt
đầu mang tính chất khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng như là hình
thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận
thức lý tính. Trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận
thức sẽ phát triển lên một giai đoạn cao hơn, đó là nhận thức lý tính.
Như vậy, cảm giác, tri giác và biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp
nhau của hình thức nhận thức cảm tính. Trong nhận thức cảm tính đã tồn tại
cả cái bản chất lấn không bản chất, cả cái tất yếu và ngẫu nhiên, cả cái bên
trong lẫn bên ngoài về sự vật. Nhưng ở đây, con người chưa phân biệt được


12

cái gì là bản chất với khơng bản chất, đâu là tất yếu với ngẫu nhiên, đâu là cái
bên trong với cái bên ngồi. u cầu của nhận thức địi hỏi phải tách ra và
nắm lấy cái bản chất, tất yếu, bên trong, chỉ có chúng mới có vai trị quan
trọng cho hoạt động thực tiễn và nhận thức của con ngườ i. Như vậy, dừng lại
ở nhận thức cảm tính sẽ gặp phải mâu thuẫn giữa một bên là thực trạng chưa
phân biệt được đâu là cái bản chất, tất yếu, bên trong, đâu là cái không bản

chất, ngẫu nhiên bên ngoài với một nhu cầu tất yếu phải phân biệt được
những cái đó thì con người mới có thể nắm được quy luật vận động và phát
triển của sự vật. Khi giải quyết mâu thuẫn ấy, nhận thức sẽ vượt lên một trình
độ mới, cao hơn về chất, đó là tư duy trừu tượng.
Tư duy trừu tượng (Nhận thức lý tính), là giai đoạn tiếp theo cao hơn về
chất của q trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính, nếu
chỉ dừng lại ở nhận thức cảm tính thì nhận thức của con người sẽ rất hạn chế,
bởi vì con người khơng thể bằng cảm giác mà nhận thức được bản chất của sự
vật. Muốn hiểu được bản chất của sự vật phải thông qua nhận thức lý tính, là
giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những
đặc điểm bản chất của đối tượng. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức
năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của
các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính được thể hiện với ba hình thức: khái
niệm, phán đốn và suy lý.
Khái niệm, là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái
quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự
vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa
thường xun vận động và phát triển. Nó chẳng những rất linh động, mềm
dẻo, năng động mà cịn là “điểm nút” của q trình tư duy trừu tượng, là cơ sở
để hình thành phán đốn.
Phán đốn, là hính thức của tư duy trừ tượng vận dụng các khái niệm để
khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của hiện thực


13

khách quan. Phán đốn là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên,
phán đốn khơng phải là tổng số giản đơn của những khái niệm tạo thành mà

là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn
nhau. Phán đốn được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo
những quy tắc văn phạm nhất định.
Suy lý, là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút
ra tri thức mới bằng phán đoán mới. Tùy theo sự kết hợp các phán đoán theo
trật tự nào mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng thể hiện quá trình vận
động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết
một cách gián tiếp. Có thể nói, tồn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ
thống suy lý và nhờ có suy lý mà con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn,
đầy đủ hơn hiện thực khách quan.
Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính với thực tiễn
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành
chu trình nhận thức. Trên thực tế chúng thường diễn ra đan xen vào nhau
trong một quá trình nhận thức; song chúng có những nhiệm vụ và chức năng
khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt động thực tiễn, với sự
tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức
lý tính, nhờ có tính khái qt cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật
vận động và phát triển sinh động của sự vật; giúp cho nhận thức cảm tính có
định hướng đúng và trở nên sâu sắc.
Tuy nhiên, nếu mới chỉ dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới
chỉ có được những tri thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức ấy có
chân thực hay khơng thì con người chưa biết được. Trong khi đó, nhận thức
địi hỏi phải xác định xem những tri thức ấy có chân thực hay khơng. Để thực
hiện điều đó, nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm
tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong


14


quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức suy đến cùng đều xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
Việc đạt tới những tri thức khoa học trong quá trình nhận thức diễn ra
theo những cấp độ khác nhau từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ
nhận thức kinh nghiệm đến nhận thức lý luận, từ nhận thức thông thường đến
nhận thức khoa học, mối cấp độ nhận thức đó có những nội dung và ý nghĩa
khác nhau, không đồng nhất với nhau. Tuy nhiên, dù có diễn ra theo trật tự
nào thì việc đạt tới những tri thức về bản chất của sự vật vẫn chưa dừng lại ở
đó mà nhận thức phải tiếp tục tìm hiểu xem tri thức đó có phù hợp với thực
tiễn khơng, và điều đó chỉ có thể được kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Như vậy, có thể thấy quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của quá
trình vận động, phát triển của nhận thức là từ thực tiễn đến nhận thức – từ
nhận thức lại trở về với thực tiễn – từ thực tiễn lại tiếp tục quá trình phát triển
nhận thức… Q trình đó lặp đi lặp lại, khơng có điểm dừng cuối cùng, trình
độ của nhận thức và thực tiễn ở chu kỳ sau thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ
đó mà q trình nhận thức đạt dần tới những tri thức ngày càng đúng đắn hơn,
đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thực tại khách quan. Đây cũng chính là quan
điểm về tính tương đối của nhận thức con người trong quá trình phản ánh thực
tế khách quan. Quy luật chung của sự nhận thức cũng là một sự biểu hiện cụ
thể, sinh động của những quy luật chung trong phép biện chứng duy vật. Sự
vận động của quy luật chung trong quá trình vận động, phát triển nhận thức
chính là q trình con người, lồi người ngày càng tiến dần tới chân lý.
1.2.

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC

TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được biểu hiện trước hết ở chỗ
thực tiễn là cơ sở, mục đích của nhận thức, là động lực của nhận thức và là

tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Trước hết vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được biểu hiện ở chỗ
thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.


15

Ph.Ăngghen đã khẳng định:“ Từ trước tới nay khoa học tự nhiên cũng như
triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với
tư duy của họ. Hai mơn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có
tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ
một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và
trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song
song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”.
Con người bắt đầu quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận
mà bằng thực tiễn. Chính từ trong q trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế
giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động
thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những
thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chung. Ban đầu
con người thu nhận những tài liệu cảm tính, sau đó tiến hành so sánh, phân
tích, tổng hợp, khái qt hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản chất, quy luật
vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các
khoa học, lý luận. Do đó, có thể nói, thực tiễn cung cấp những tài liệu cho
nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người
này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý
luận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần phải đo đạc
diện tích và đong lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính tốn thời gian
và sự chế tạo cơ khí mà tốn học đã ra đời và phát triển. Hoặc sự xuất hiện
học thuyết mácxít ở những năm 40 của thế kỉ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt

động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại
giai cấp tư sản lúc bấy giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây, nhất
là khám phá và giải mã bản đồ gien người cũng ra đời từ chính hoạt động thực
tiễn, từ nhu cầu địi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm
hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người… Có thể nói, suy cho
đến cùng khơng có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực


16

tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thốt ly
thực tiễn, khơng dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi
dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Cũng vì thế, chủ thể nhận
thức khơng thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới nếu nó
xa rời thực tiễn.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới, con người cũng
biến đổi ln cả bản thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ
của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám
phá bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế
giới. Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của
nhận thức. Nhu cầu thực tiễn địi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh
nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành
khoa học. Khoa học ra đời cũng chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực
tiễn của con người.
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức cịn là vì nhờ có hoạt động
thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hồn thiện; năng
lực tư duy logic khơng ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện của
nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con
người trong việc nhận thức thế giới.
Trong q trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người được phát triển,

được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Song bản thân lý luận,
khoa học khơng có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra đời chính vì và chủ
yếu vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Chính vì vậy,
thực tiễn là mục đích của nhận thức, vì nhận thức phải quy về phục vụ thực
tiễn, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn. Lý
luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn,
cải tạo thực tiễn. Thực tiễn, hiện thực sẽ đặt ra nhiều vấn đề mới và phức tạp
đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu của thực


17

tiễn. Qua việc làm sáng tỏ những cấn đề do thực tiễn đặt ra thì lý luận sẽ có
được vai trị quan trọng, góp phần to lớn, đắc lực vào hoạt động thực tiễn.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý. Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý
luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị
phương pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con người, do đó,
mọi lý luận phải thơng qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Chính vì vậy mà Mác
đã nói: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý
khách quan khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lý…”. Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức con
người đạt được là đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm. thực tiễn sẽ nghiêm
khắc chứng minh chân lý và bác bỏ sai lầm. Tất nhiên, nhận thức khoa học
cịn có tiêu chuẩn riêng của nó, đó là tiêu chuẩn logic. Nhưng tiêu chuẩn logic
không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng phụ
thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng; tiêu
chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn có

tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý,
thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý. Nhưng tiêu
chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn khơng đứng nguyên một chỗ
mà biến đổi và phát triển; thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con
người nên khơng tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. Tiểu chuẩn thực tiễn
không cho phép biến những tri thức của con người thành những chân lý tuyệt
đích cuối cùng.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, kiếm tra tính chân lý của q trình
nhận thức, điều này có nghĩa thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức
đã đạt được trong nhận thức. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận
thức, những tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên


18

chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều
chỉnh, sửa chữa và phát triển, hồn thiện hơn. Việc qn triệt tính biện chứng
của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm như
chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu
tố đóng vai trị quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức
mà cịn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của
mình. Nhấn mạnh vai trị đó của thực tiễn V.I.Lênin đã cho rằng: “Quan điểm
về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản nhất của lý
luận về nhận thức”.
Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải mọi
thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý
luận khi thực tiễn đạt đến tính tồn vẹn của nó. Tính tồn vẹn của thực tiễn là
thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển hóa. Đó
là chu kỳ tất yếu của thực tiễn, thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác

nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của
thực tiễn thì lý luận đó có thể xa rời thực tiễn. Do đó, chỉ những lý luận nào
phản ánh được tính tồn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý. Chính vì
vậy mà V.I.Lênin cho rằng: “Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng
nghìn triệu lần được in vào ý thức con người bằng những hình tượng logic.
Những hình tượng này có tính vững chắc của một thiên kiến, có một tính chất
cơng lý, chính vì sự lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy”.
Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình
thành lý luận. Đó khơng chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức mà
còn từ nhu cầu của thực tiễn. Thực tiễn phong phú, đa dạng, luôn vận động và
biến đổi, nhưng để hình thành lý luận, trước hết, lý luận phải đáp ứng thực
tiễn. Con người nhận thức hiện thực khách quan để giải quyết những vấn đề
con người quan tâm. Năng lực của con người ngày càng được nâng cao chính
nhờ khả năng thơng qua hoạt động phản ánh, khái quát thành tri thức lý luận.


19

Trong sự vô cùng, vô tận của hiện thực khách quan, con người tích lũy lý
luận, mà trước hết là những lý luận phù hợp với nhu cầu hoạt động thực tiễn
của con người. Đó là những lý luận mang tính phương pháp cho hoạt động cải
tạo hoạt động khách quan. Mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt hiệu
quả cao. Lý luận, trước hết phải đáp ứng mục đích đó. Quan hệ giữa người
với người, giữa người với tự nhiên địi hỏi con người phải có lý luận sâu sắc
về chúng. Con người hình thành lý luận chủ yếu để làm phương pháp cho
hoạt động trong đó có hoạt động sáng tạo tri thức; phát minh, sáng chế những
tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt nhằm nâng cao năng lực sáng tạo của con
người, do đó, hệ thống lý luận nào góp phần giải quyết đúng đắn, phù hợp với
mục đích của con người thì được con người quan tâm, khái qt. Vì lẽ đó, lý
luận phải đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn
quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn, dữa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải
coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với
thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của
bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt
đối hóa vai trị của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm
chủ nghĩa. Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là
nguyên tắc cơ bản trong hoat động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà
không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì
đó chỉ là lý luận sng, ngược lại, thực tiễn mà khơng có lý luận khoa học,
cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành thực tiễn mù quáng.
Mặc dù coi trọng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức nhưng cũng
không được lơ là sự tác động trở lại của lý luận đối với thưc tiễn, V.I.Lênin
viết: “Khơng có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể có phong trào cách
mạng”. Do đó, khơng được tách rời lý luận khỏi thực tiễn. Điều đó có nghĩa,
phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận


20

thức khoa học và hoạt động cách mạng. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù qng.
Lý luận mà khơng liên hệ với thực tiễn là lý luận sng”.
Chính chủ nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý
luận với thực tiễn trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận
Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, là sự đúc kết
những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực cụ thể để xây
dựng nên hệ thống lý luận khoa học hồn chỉnh. Sức mạng của nó là ở chỗ nó

gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn hay vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức có ý nghĩa phương pháp luận to lớn, đặc biệt trong học tập
và rèn luyện của sinh viên hiện nay.
Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực
tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn: thực tiễn là cái được
phản ánh, nhận thức là cái phản ánh. Để hiểu được thực tiễn dưới dạng hình
tượng logic nhất định phải hình thành lý luận. Bản thân thực tiễn luôn luôn
vận động, phát triển và biến đổi. Q trình đó diễn ra có lúc tn theo quy
luật, có lúc khơng, có lúc khá phức tạp. Để hình thành lý luận, nhận thức phải
bám sát q trình đó. Bám sát thực tiễn khơng chỉ đơn giản phản ánh phù hợp
thực tiễn đương đại mà cịn phải so sánh, đối chiếu, phân tích để chọn lọc
những thực tiễn mang tính khách quan, mang tính quy luật làm cơ sở cho quá
trình hình thành lý luận. Nếu lý luận nào đó khơng phản ánh đúng nhu cầu
thực tiễn, khơng phù hợp với thực tiễn thì sớm hay muộn lý luận đó cũng sẽ
bị bác bỏ.
Chính vì thế, trong học tập cũng như rèn luyện của sinh viên hiện nay
cần phải biết bám sát thực tiễn, phản ánh đúng yêu cầu thực tiễn để khái quát
những kinh nghiệm của thực tiễn, lấy đó làm cơ sở hình thành lý luận. Là sinh


21

viên cần phải năng động, sáng tạo, biết vận dụng những kinh nghiệm có trước
làm tiền đề cho q trình học tập, rèn luyện của mình. Đó là tri thức trực tiếp
góp phần tích cực vào sự phát triển của mỗi sinh viên sau này, lý luận phải
khái quát được kinh nghiệm của lồi người thì mới có tính khoa học và sẽ đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Một sinh viên nếu chỉ có lý luận sng trên lý thuyết sách vở mà đem áp

dụng vào thực tế đời sống thì sẽ vấp phải những sai lầm khơng phù hợp với sự
phát triển cũng như sự vận động, biến đổi của xã hội, “học đi đôi với hành”,
nhất thiết phải lấy thực tiễn làm kinh nghiệm hình thành lý luận.
Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận phải
phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể: Lý luận được hình thành khơng chỉ là
sự tổng kết thực tiễn mà cịn là mục đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Sự
phát triển của thực tiễn trong lịch sử luôn được lý luận khái qt. Chính vì lý
luận phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật mà lý luận có khả năng trở thành
phương pháp luận cho thực tiễn.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, coi trọng lý luận chính là vận dụng
sáng tạo các tri thức khoa học nhân loại đã đạt được vào điều kiện c ụ thể của
quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên nói riêng và của tồn xã hội nói
chung. Thành tựu của khoa học và công nghệ đã tác động sâu sắc đến các lĩnh
vực của quá trình nghiên cứu học tập của sinh viên. Khơng có một quốc gia
nào đứng ngồi sự tác động đó. Khoa học và cơng nghệ là sự kế thừa và tích
hợp thành tựu của quá khứ mang tính nhân loại. Con đường phát triển ngắn
nhất và bền vững nhất hiện nay của các quốc gia chậm phát triển là tranh thủ
thời cơ, ứng dụng các thành tự của khoa học và công nghệ để phát triển đất
nước. Để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu cơ bản trở thành
nước công nghiệp vào năm 2020, chúng ta phải nhanh chóng tiếp cận và ứng
dụng một cách có hiệu quả các thành tựu của khoa học và cơng nghệ thế giới.
Đó cũng là mục tiêu của tầng lớp tri thức trẻ như sinh viên hiện nay, cần phải


22

cố gắng hết mình để tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tri thức khoa học kĩ
thuật của thế giứi vào cơng cuộc hiện đại hóa đất nước.
Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều: bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi phạm nguyên tắc thống

nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Bệnh khinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn
trước đây và áp dụng một cách máy móc vào hiện thực khi điều kiện đã thay
đổi. Tri thức kinh nghiệm thơng thường là trình độ cấp thấp của tri thức. Tri
thức này chỉ khái quát thực tiễn với những yếu tố và điều kiện đơn giản, hạn
chế. Tri thức kinh nghiệm thơng thường góp phần tạo nên những thành công
không nhỏ, tuy nhiên, trong điều kiện có một số lĩnh vực biến đổi chậm chạp,
việc tiếp tục vận dụng những kinh nghiệm cũ vào hiện tại vẫn tạo nên những
thành cơng đã tự phát hình thành bệnh kinh nghiệm.
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và cơng
nghệ rất thấp. Đó là thực trạng của một nền kinh tế truyền thống – nền kinh tế
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác bằng hình
thức dân gian. Điều đó dẫn đến phong cách tư duy, phong cách hoạt động của
người Việt Nam nói chung cũng như sinh viên Việt Nam hiện nay nói riêng
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Truyền thống đó là một trong những nguyên
nhân sâu xa của bệnh kinh nghiệm. Cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp
thực hiện một thời gian dài ở nước ta đã triệt tiêu tính sáng tạo của người lao
động và tạo nên tâm lý ỷ lại, dữa dẫm là một trong những nguyên nhân của
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa – tuyệt đối hóa kinh nghiệm của những người đi
trước.
Kinh nghiệm là vốn quý, nó đã góp phần thành cơng trong điều liện,
hồn cảnh nhất định và là cơ sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối
hóa kinh nghiệm thì một nơi, một lúc nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào


×