Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Suy ngẫm về thực trạng thu thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng đất đai ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.43 KB, 8 trang )

SUY NGẪM VỀ THỰC TRẠNG THU THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
KHI CHUYỂN NHƯỢNG ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TS. Nguyễn Hồ Phi Hà
Ths. Nguyễn Thị Tuyết Mai
Học viện Tài chính
ThS. Bùi Thị Cẩm Ngọc
2
Trường Đại học Tài nguyên và Mơi trường Hà Nội

Tóm tắt
Chính sách thuế thu nhập nói chung và chính sách thuế thu nhập cá nhân nói riêng
đối với chuyển nhượng bất động sản ở Việt Nam thời gian qua đã tác động mạnh đến thị
trường bất động sản (TTBĐS) ở nhiều góc độ khác nhau: Thứ nhất, chính sách thuế góp
phần ổn định giá cả thị trường BĐS, chống đầu cơ nhà đất…; Thứ hai, dưới tác động của
chính sách thuế thu nhập mà đặc biệt là sự ra đời của Số 161/2009/TT-BTC ảnh hưởng
trực tiếp đến lượng giao dịch tại các sàn giao dịch BĐS. Ngoài việc tác động đến các nhà
đầu tư trên thị trường thứ cấp, thuế thu nhập còn tác động đến các nhà đầu tư phát triển
các dự án BĐS, họ dè dặt hơn, cân nhắc hơn khi quyết định đầu tư. Có thể nói một trong
những lý do khiến TTBĐS trì trệ là do chính sách thuế hiện nay vẫn cịn chắp vá, thay đổi
khơng theo lộ trình, mất lịng tin đối với nhà đầu tư, chưa đáp ứng yêu cầu công bằng,
hợp lý. Vậy thực trạng thu thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng đất đai hiện nay ở
Việt Nam như thế nào? Giải pháp để khắc phục những bất cập?
Từ khóa: thuế thu nhập cá nhân, chuyển nhượng đất đai
1. Thực trạng thu thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng sở hữu, quyền sử dụng đất
Thu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản
(BĐS) đang thực hiện theo Luật thuế TNCN số 04/2007/QH12, đã được sửa đổi bổ sung
theo quy định tại Luật số 26/2012/QH13 và Luật số 71/2014/QH13 và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
Theo Luật thuế TNCN và các văn bản hướng dẫn thì thu nhập từ chuyển nhượng
BĐS bao gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất,
kể cả cơng trình xây dựng hình thành trong tương lai; thu nhập từ chuyển nhượng quyền


sở hữu hoặc sử dụng nhà ở, kể cả nhà ở hình thành trong tương lai; thu nhập từ chuyển
nhượng quyền thuê đất, quyền thuê mặt nước; và các khoản thu nhập khác nhận được từ
chuyển nhượng BĐS dưới mọi hình thức. Thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng BĐS
được xác định là giá chuyển nhượng từng lần. Giá chuyển nhượng BĐS là giá ghi trên
hợp đồng chuyển nhượng tại thời điểm chuyển nhượng. Thuế suất đối với thu nhập từ
chuyển nhượng BĐS là 2% trên giá chuyển nhượng.

363


Ngoài ra Luật và các văn bản hướng dẫn quy định miễn thuế đối với các trường
hợp sau:
- Thu nhập từ chuyển nhượng BĐS giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha
nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông
nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.
- Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất
ở của các nhân trong trường hợp các nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất.
- Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là BĐS giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ với con
đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với
con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em
ruột với nhau.
Thông tư số 161/2009/TT-BTC ngày 12/8/2009 và Thông tư số 02/2010/TT-BTC
ngày 11/1/2010 và thông tư số 11/2013/TT-BTC ngày 15 tháng 08 năm 2013 của Bộ Tài
chính đã qui định việc thu thuế đối với cả trường hợp chuyển nhượng BĐS hình thành
trong tương lai, theo đó cho dù chuyển nhượng căn hộ, chuyển nhượng nền nhà hay mới
chỉ chuyển nhượng hợp đồng góp vốn thì người kinh doanh BĐS cũng sẽ bị điều tiết bởi
thuế TNCN, đây là quyết định đúng đắn nhằm ngăn chặn các trường hợp lách luật dưới
dạng góp vốn, ghi danh hợp đồng mua, bán BĐS rồi sau đó chuyển nhượng sang tay.
Hình 01: Thu NSNN từ thuế thu nhập cá nhân do chuyển nhượng BĐS giai đoạn 2012- 2018


Đvt: tỷ đồng
14,000
12,962
12,000
10,000
8,000

8,471

8,770

2016

2017

6,839
6,000
4,828
4,000

3,732

3,829

2012

2013

2,000
0

2014

2015

2018

(Nguồn: Tổng cục thống kê và Báo cáo tổng kết của Bộ Tài Chính)

Có thể thấy thuế TNCN từ chuyển nhượng BĐS biến động theo chiều hướng tăng
dần trong giai đoạn 2012 – 2018, đặc biệt tăng nhanh sau năm 2014 với tốc độ tăng trung
364


bình là 28,34%, đạt mức tăng cao nhất vào năm 2018. Đây là tỷ lệ tăng không hề nhỏ cho
thấy những thay đổi tích cực trong cơng tác thu thuế TNCN từ chuyển nhượng BĐS.
Bảng 01:
Tỷ trọng thu Thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng BĐS so với tổng thu
NSNN, thu nội địa và Ngân sách địa phương (NSĐP) giai đoạn 2012 – 2017
Đvt: Tỷ đồng
STT
1
2
3
4
5
6
7

Chỉ tiêu
Tổng thu NSNN

Tổng thu nội địa
Tổng thu NSĐP
Thuế TNCN
Tỷ lệ % so với tổng thu
NSNN = 4/1
Tỷ lệ % so với thu nội
địa = 4/2
Tỷ lệ % so với thu
NSĐP = 4/3

2012
754,572
477,106
336,937
3,732

2013
828,348
567,403
368,833
3,829

2014
877,697
593,560
377,707
4,828

2015
2016

2017
966,870 1,039,000 1,212,180
740,932 829,000 990,280
450,977 544,425 456,092
6,839
8,471
8,770

0.4946

0.4622

0.5501

0.7073

0.8153

0.7235

0.7822

0.6748

0.8134

0.9230

1.0218


0.8856

1.1076

1.0381

1.2782

1.5165

1.5560

1.9229

(Nguồn: Tổng cục thống kê và Báo cáo tổng kết của Bộ Tài Chính)
Qua bảng trên có thể thấy, tỷ lệ % thu thuế TNCN từ chuyển nhượng BĐS so với
tổng thu NSNN, thu nội địa và thu NSĐP cũng tăng dần qua các năm.
2. Thấy gì qua thực trạng thu thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng sở hữu
nhà, quyền sử dụng đất
Thứ nhất, trong quá trình thực tế thực hiện cho thấy phương pháp tính thuế thu nhập
theo thuế suất 2% trên giá chuyển nhượng như hiện nay không phù hợp với lý thuyết về
thu thuế thu nhập, vì theo phương pháp này đối tượng nộp thuế chuyển nhượng BĐS lỗ
vẫn phải nộp thuế.
Mức thuế suất 2% trên giá chuyển nhượng dẫn đến người có thu nhập cao cũng có
thể nộp thuế cùng mức thuế như người có thu nhập thấp, thậm chí một số trường hợp
chuyển nhượng BĐS lỗ vẫn nộp mức thuế như trường hợp có lãi nếu có giá chuyển
nhượng như nhau.
Mức thuế vẫn còn phân biệt đối xử giữa hai đối tượng cá nhân cư trú và cá nhân
không cư trú tại Việt Nam, theo đó đối tượng khơng cư trú tại Việt Nam chuyển nhượng
BĐS lỗ vẫn phải nộp thuế thu nhập theo thuế suất 2% trên giá chuyển nhượng. Mặt khác

qui định này làm gián đoạn quá trình tính thuế và tạo khe hở pháp luật cho các đối tượng
trốn thuế, lách thuế. Ví dụ như X bán BĐS cho Y, trong đó X là cá nhân cư trú, cịn Y là
cá nhân khơng cư trú, khi đó hợp đồng giữa X và Y có thể khai giá chuyển nhượng thấp
xuống để X không phải nộp thuế, cịn Y khơng ảnh hưởng đến số thuế TNCN phải nộp
365


do Y chỉ nộp thuế TNCN đối với chuyển nhượng BĐS là 2% trên giá chuyển nhượng lần
sau khi Y chuyển nhượng cho đối tượng khác.
Thông thường khi chuyển nhượng BĐS, người chuyển nhượng sẽ nộp thuế TNCN
còn người được chuyển nhượng nộp lệ phí trước bạ, cả hai mức nộp này đều dựa vào giá
chuyển nhượng. Vì thế giá chuyển nhượng thấp hơn giá thực tế thì cả hai bên đều có lợi,
nên sẽ xảy ra trường hợp thỏa thuận giá ghi trên hợp đồng đến mức thấp nhất bằng với
giá quy định của UBND cấp tỉnh.
Thứ hai, phần miễn giảm thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng BĐS chưa
đáp ứng yêu cầu là công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế, chưa chặt chẽ khiến các đối tượng
nộp thuế lợi dụng nhằm trốn thuế, lách thuế.
Thứ ba, chính sách miễn thuế khơng khuyến khích các cá nhân đăng ký cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, do miễn thuế chỉ áp dụng đối với đối tượng chuyển
nhượng BĐS có một nhà ở, một đất ở duy nhất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà. Vì vậy, cá nhân có hai tài sản là nhà, đất trong đó chỉ có một
nhà, đất có đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, khi chuyển
nhượng nhà, đất này sẽ được miễn thuế; ngược lại nếu cả hai nhà đất nêu trên đều đăng
ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà thì khi chuyển nhượng
không được miễn thuế. Mặc khác, hệ thống thơng tin, đăng ký đất đai hiện nay chưa hồn
thiện, khơng kết nối được trên phạm vi tồn quốc, nên rất khó để cơ quan thuế xác định
đối tượng chuyển nhượng BĐS có hai BĐS trở lên mà chủ yếu dựa vào lời khai của người
nộp thuế.
- Chỉ miễn thuế đối với các cá nhân có duy nhất một nhà ở, quyền sử dụng đất ở tại
Việt Nam, điều đó có nghĩa cá nhân cịn nhiều quyền sử dụng đất khác không phải đất ở khi

chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở duy nhất vẫn được miễn thuế. Cịn khi chuyển
nhượng quyền sử dụng đất (khơng phải đất ở) vẫn phải nộp thuế theo qui định, phải chăng
các đối tượng sử dụng đất không phải đất ở muốn chuyển nhượng đất nên chuyển mục đích
sử dụng trước (sang đất ở), sau đó chuyển nhượng thì hồn tồn miễn thuế.
- Chính sách miễn thuế chuyển nhượng BĐS đối với cá nhân có duy nhất một nhà
ở, quyền sử dụng đất ở cịn mất cơng bằng giữa các đối tượng nộp thuế, đối với các BĐS
vì mục đích kinh doanh kiếm lời thì các nhà đầu tư sẽ tìm người đứng tên phù hợp để
không bị thuế điều tiết, và người này có thể mua đi bán lại nhiều lần trong năm, miễn là
mỗi lần bán chỉ đang sở hữu một BĐS. Từ đó đưa đến một nghịch lý là Nhà nước khó có
thể thu thuế từ người kinh doanh mà chỉ có thể thu được thuế từ các đối tượng nắm giữ
tài sản khơng vì mục đích kinh doanh, nhưng vì lý do nào đó mà họ phải bán tải sản.
- Thu nhập từ chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng là BĐS giữa “vợ với chồng,
giữacha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ,…” những người có mối quan hệ gia đình được miễn thuế,
366


đây cũng là kẻ hở pháp luật mà cá nhân thực hiện chuyển nhượng cho những người thân
có mối quan hệ gia đình để được miễn thuế nhằm mục đích lách thuế.
Quy định xác nhận các đối tượng có mối quan hệ gia đình được miễn thuế khi
chuyển nhượng BĐS hiện nay rất khó thực hiện đối với Việt Nam, vì thực tế có các cặp
vợ chồng khơng có giấy chứng nhận kết hơn mà chỉ có hơn nhân thực tế vẫn được pháp
luật công nhận, nếu họ không đăng ký hộ khẩu thường trú cùng một nơi thì khơng có căn
cứ xác định là vợ chồng để được miễn thuế khi chuyển nhượng.
- Chế độ miễn giảm không quy định hạn mức nhà, đất được miễn giảm là chưa hợp
lý, nếu cá nhân chỉ có một nhà ở hoặc một đất ở duy nhất dù diện tích lớn, giá trị cao khi
chuyển nhượng vẫn không bị thuế điều tiết, tuy nhiên cá nhân chỉ có diện tích đất ở rất
nhỏ, giá trị thấp khi chuyển nhượng một phần của thửa đất vẫn phải nộp thuế.
- Đối với phần miễn thuế thu nhập từ thừa kế và quà tặng là BĐS, do xuất phát từ
cuộc sống thực tiễn, tính chất truyền thống của các gia đình Việt Nam, việc chia tách nhân
khẩu và phân chia tài sản của từng gia đình thường xảy ra nhất là những vùng nơng thơn,

vì vậy phần miễn thuế cần phải xác định lộ trình cho miễn thuế, sau đó thu thuế như các
nước đã làm (thường các nước phát triển mức thu thuế này rất cao), một phần nhằm tăng
thu NSNN, phần khác nhằm khỏa lấp những khe hở pháp luật mà ngày nay các đối tượng
nộp thuế đang lợi dụng nhằm trốn thuế, lách thuế.
Thứ tư, giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành hiện nay vẫn còn thấp so với giá thị
trường thực tế, giá nhà làm căn cứ để tính lệ phí trước bạ cũng khơng sát với giá thị
trường, dẫn đến giá thực tế chuyển nhượng khác so với giá ghi trên hợp đồng chuyển
nhượng (khai giá chuyển nhượng thấp hơn giá thực tế) mà cơ quan thuế không kiểm soát
được dẫn đến thất thu cho NSNN, đồng thời người khai đúng, khai đủ, chấp hành tốt pháp
luật lại nộp thuế cao hơn.
Khó xác định thu nhập tính thuế đối với trường hợp người mua nhà đất cách nay đã
lâu, giá mua nhà đất bằng vàng, ... đến nay mặt bằng giá thay đổi rất nhiều, giá trị tiền,
vàng cũng thay đổi, rất khó xác định chênh lệch lời, lỗ để tính thuế.
Thứ năm, chưa có qui định thống nhất về nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển
nhượng vốn và thu nhập từ chuyển nhượng BĐS, theo luật thuế TNCN hiện nay thì đối
tượng chịu thuế là những BĐS tham gia vào thị trường đã được Nhà nước công nhận, tuy
nhiên luật không qui định rõ “BĐS tham gia vào thị trường” có BĐS hình thành trong
tương lai hay không. Mặt khác theo qui định của luật kinh doanh BĐS thì “tổ chức, cá
nhân khi kinh doanh BĐS phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã, phải có vốn pháp
định và đăng ký kinh doanh BĐS theo qui định của pháp luật”, theo đó luật kinh doanh
367


BĐS khơng cơng nhận hành vi cá nhân “góp vốn” kinh doanh BĐS “lách luật” như các
nhà đầu tư Việt Nam, nhưng luật thuế vẫn qui định thu thuế đối với các trường hợp góp
vốn nên trên.
3. Một số đề xuất nhằm tăng hiệu quả thu thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng
đất đai
Một là, hệ thống thuế, phí về đất đai phải được đổi mới nhằm tăng nguồn thu cho
ngân sách nhà nước, đồng thời tạo công cụ điều tiết thị trường BĐS

Hệ thống thuế về đất đai và BĐS ở Việt Nam đang được đánh giá là không hiệu
quả, nguồn thu từ thuế đất quá thấp và thuế không trở thành công cụ điều tiết thị trường.
Theo kinh nghiệm của các nước công nghiệp, thuế sử dụng đất chiếm tỷ trọng rất cao
trong nguồn thu ngân sách địa phương và là nguồn lực chính để phát triển hạ tầng, dịch
vụ công cộng, phải thu ở mức khá cao. Ngược lại, thuế về chuyển quyền sử dụng đất
và BĐS lại phải thu ở mức rất thấp để khuyến khích các giao dịch chính thức.
Thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền vẫn chỉ thu theo
khung của thuế chuyển quyền ở mức 2% giá trị quyền sử dụng đất tính theo Bảng giá đất.
Ngồi thuế, việc chuyển quyền cịn phải nộp nghĩa vụ khoảng 0,5% lệ phí trước bạ; 0,1%
phí cơng chứng và 0,1% phí đăng kí đất đai, tổng là khoảng 2,7%. Mức này có thể là phù
hợp với các đơ thị phát triển, nhưng được coi là cao so với thu nhập tại miền núi, nông
thôn và những đô thị kém phát triển. Chính vì lý do này mà các giao dịch về quyền sử
dụng đất ở nông thôn đều là các giao dịch khơng chính thức, khơng được đăng ký, dựa
chủ yếu vào hợp đồng viết tay giữa các bên với sự xác nhận của cộng đồng.
Hai là, cần quy định chặt chẽ về trình tự và thời điểm tính khoản thu nghĩa vụ tài
chính về đất vì thời điểm thu nghĩa vụ tài chính khác nhau sẽ dẫn đến kết quả thu là khác
nhau do giá đất tính thu là khác nhau.
Cần quy định việc quản lý đất theo hướng phân loại (chia nhỏ) nhóm đất sản xuất
kinh doanh phi nơng nghiệp theo mục đích sử dụng sản xuất công nghiệp; đất làm mặt
bằng thương mại, dịch vụ ...và khi chuyển mục đích sử dụng giữa các loại đất này phát
sinh nghĩa vụ tài chính thì phải nộp Ngân sách nhà nước, nhằm sử dụng đất có hiệu quả
và điều tiết nguồn thu cho NSNN. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ quy định
trường hợp chuyển từ đất nông nghiệp sang đất ở, hoặc chuyển từ đất phi nông nghiệp
không phải là đất ở sang đất ở thì mới phải nộp tiền sử dụng đất. Cịn chuyển mục đích
sử dụng từ đất sản xuất cơng nghiệp sang đất thương mại, dịch vụ thì khơng phải xin phép
và khơng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vì cùng trong nhóm “Đất sản xuất kinh doanh
phi nơng nghiệp” - điều này là bất cập vì thực tế lợi ích thu được từ đất sử dụng vào mục
đích thương mại, dịch vụ cao hơn nhiều so với đất sản xuất công nghiệp...; điều này dẫn
đến không điều tiết được nguồn thu cho Ngân sách nhà nước.
368



Ba là, cần có qui định thống nhất về nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển
nhượng vốn và thu nhập từ chuyển nhượng BĐS. Theo luật thuế thu nhập cá nhân hiện
nay thì đối tượng chịu thuế là những BĐS tham gia vào thị trường đã được Nhà nước
công nhận, tuy nhiên luật không qui định rõ “BĐS tham gia vào thị trường” có BĐS hình
thành trong tương lai hay khơng.
Bốn là, tiếp tục khẩn trương hồn thiện về việc tính giá đất ở từng địa phương.
Giá đất do các địa phương ban hành hiện nay còn thấp hơn nhiều so với thực tế, đây
là bất cập mà nhiều tổ chức, cá nhân lợi dụng khi thực hiện các chính sách tài chính đất
đai và gây thất thu cho NSNN, là nguyên nhân gây nhiều khiếu kiện; do vậy Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ cần có chỉ đạo để các địa phương điều chỉnh lại bảng giá đất cho
phù hợp với thực tế.
Trước mắt, đối với việc định giá đất để bồi thường khi nhà nước thu hồi đất, thu
tiền sử dụng đất khi nhà nước giao đất không qua đẩu giá, chuyển từ thuê đất sang giao
đất, chuyển mục đích sử dụng đất, xác định giá trị QSDĐ … là những nội dung dễ sinh
khiếu kiện và gây thất thu lớn cho NSNN thì áp dụng giá đất sát với giá chuyển nhượng
trên thị trường theo đúng nguyên tắc quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 56, Luật Đất đai
là: "Sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện
bình thường; khi có chênh lệch lớn so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế
trên thị trường thì phải điều chỉnh cho phù hợp”.
Phương pháp cụ thể đề nghị thực hiện như sau: Giá đất để thu tiền sử dụng đất trong
trường hợp giao đất không qua đấu giá quyền sử dụng đất phải là giá đất do tổ chức có
chức năng định giá của nhà nước thực hiện định giá, cơ quan tài chính thẩm định lại trình
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt làm cơ sở để thu tiền sử dụng đất nộp vào Ngân sách
nhà nước, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất; riêng đối với đất nông nghiệp cần điều
chỉnh lại khung giá theo hướng tăng lên khi thu hồi đất để người nơng dân giảm thiệt thịi,
có cơ hội chuyển đổi nghề nghiệp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bài giảng Luật Đất đai. Khoa Luật, Đại học Huế.
2. Nguyễn Thanh Trà-Nguyễn Đình Bồng: “Giáo trình Thị trường Bất động
sản”, Đại học Nơng nghiệp Hà Nội. Trang 8.
3. Lê Quang Trí: “Giáo trình Quy hoạch sử dụng đất đai”, 2005. Trang 18, 19.
4. Trần Khuyết Nghi: “Mấy suy nghiệm về đất và quyền sử dụng đất”, Tạp
chí Phát triển kinh tế. Số tháng 11/2005.
5. Dỗn Văn Kính, Qch Nhan Cương, ng Tơ Đỉnh, 1996, “Kinh tế các
369


nguồn lực tài chính”, Bản dịch tiếng Việt, NXB Tài chính.
6. Phạm Đức Phong, 2003 “Chính sách tài chính khai thác nguồn lực đất
đai và bất động sản phục vụ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” , Đề
tài NCKH cấp Bộ, Bộ Tài chính.
7. Đặng Hùng Võ, 2005, Vai trò của thị trường quyền sử dụng đất trong
phát triển kinh tế thị trường nước ta - Tài liệu sử dụng cho bài nói chuyện
“Chính sách, pháp luật đất đai với kinh tế thị trường ở Việt Nam” tại
chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright.

370



×