Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Quản lý nguồn lực tài nguyên đất trong quá trình hội nhập của Việt Nam sắp tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.27 KB, 10 trang )

QUẢN LÝ NGUỒN LỰC TÀI NGUYÊN ĐẤT TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP CỦA VIỆT NAM SẮP TỚI
Nguyễn Mậu Hùng
NCS. Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
Email:

Tóm tắt
Bằng các phương pháp định tính và định lượng, bài viết chỉ ra rằng đất đai là một
trong những nhân tố chủ đạo cho thành công của Việt Nam trong công cuộc đổi mới hơn
3 thập kỷ qua. Bên cạnh là nguồn sống chủ yếu của một bộ phận không nhỏ cư dân nơng
thơn, khơng ít lĩnh vực sản xuất then chốt của nền kinh tế về cơ bản vẫn dựa vào việc khai
thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như lợi thế sẵn có từ đất. Cùng lúc đó, tài
nguyên đất thông thường cũng là một trong những lợi thế cho Việt Nam trong việc kêu
gọi và thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài cũng như việc tiến hành liên doanh và
liên kết với bên ngoài. Tuy nhiên, việc quản lý và sử dụng nguồn lực đất của Việt Nam
thời gian qua chưa thực sự hiệu quả và bài bản như mong muốn. Chính vì thế, tăng cường
ứng dụng khoa học công nghệ vào trong công tác quản lý và sử dụng đất có ý nghĩa then
chốt, nhưng chuyển đổi mơ hình phát triển mới là một giải pháp quyết định.
Từ khóa: đất đai, tài ngun đất, hình thức sở hữu, mơ hình phát triển, khoa học
cơng nghệ
Abstract
Land resource management in the upcoming integration of Vietnam
By qualitative and quantitative methods, the article shows that land has been one
of the key factors for Vietnam's success in the renovation process over more than the past
three decades. Apart from being the main source of life for a large part of rural
population, a number of key production sectors of the economy still rely on the
exploitation of natural resources as well as advantages available from land. At the same
time, land resources are normally also one of the advantages for Vietnam in calling for
and attracting foreign direct investment as well as conducting joint ventures and
cooperation with outsiders. However, Vietnam’s management and use of land resources
have not been really effective and methodical as expected. Therefore, increasing the


application of science and technology to the management and use of land has a significant
meaning, but changing the development model is a decisive solution.
Keywords: land, land resources, ownership form, development model, science and
technology

1. Đặt vấn đề
501


Đất đai là một trong những tài sản và nguồn tài nguyên quý giá nhất của mọi quốc
gia. Lợi thế về tài nguyên đất đai đã mang lại cho Việt Nam khơng ít thành tựu rất đáng
tự hào trong hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới vừa qua, nhưng đồng thời cũng đã
và đang đặt ra nhiều vấn đề khơng những hết sức cấp bách mà cịn vơ cùng nan giải. Một
trong những vấn đề như thế chính là năng lực quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên vô
giá này của hệ thống các cơ quan chức năng trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 hiện nay. Đây là một vấn đề đã thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu
cả trong lẫn ngoài nước trong một thời gian dài, nhưng thực tế vẫn cịn q nhiều vấn đề
hóc búa chưa thể giải quyết ngay lập tức. Chính vì thế, trên cơ sở các phương pháp định
tính và định lượng cũng như phương thức tiếp cận chuyên ngành và liên ngành, bài viết
phân tích thêm một số góc cạnh cần quan tâm và đáng chú ý trong công tác quản lý và sử
dụng nguồn tài nguyên đất của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
2. Nguồn lực tài nguyên đất của Việt Nam trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0
2.1. Tầm quan trọng của tài nguyên đất đối với quá trình cơng nghiệp hóa và hiện đại
hóa của Việt Nam
Đất đai khơng chỉ là khơng gian sinh tồn, mà cịn là một thành tố tối quan trọng
trong quá trình hình thành và phát triển của tất cả mọi phương thức tổ chức cộng đồng.
Một đất nước có thể có một thể chế chính trị khác nhau, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội khác nhau, và bản sắc văn hóa riêng biệt, nhưng khơng có quốc gia nào có thể tồn tại
trong điều kiện bình thường mà khơng có một phạm vi lãnh thổ nhất định. Trong bối cảnh

của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, việc quản lý và sử dụng sao cho hợp lý
nguồn lực đất đai khơng chỉ là một bài tốn nan giải đối với tồn thể nhân loại, mà cịn
vơ cùng phức tạp đối với các nước đang phải chịu áp lực mạnh mẽ về gia tăng dân số và
tình trạng cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việt Nam là một nước có thể nói là
tuy đất đai khơng q rộng lớn và tài nguyên thiên nhiên cũng không thực sự quá dồi dào
đến mức khai thác mãi vẫn không hết, nhưng cũng khơng đến nổi q khan hiếm và ít ỏi
đến mức phải lệ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài. Thực tế công cuộc đổi mới hơn ba thập
kỷ qua đã chứng minh rằng các nguồn tài nguyên thiên thiên đất đai đóng một vai trị vơ
cùng quan trọng nếu khơng muốn nói là then chốt đối với q trình cơng nghiệp hóa và
hiện đại hóa của Việt Nam.
Thứ nhất, đất đai là tài sản quốc gia, tài nguyên của nhà nước, và thuộc sở hữu tồn
dân thơng qua người đại diện của mình là chính quyền nhà nước. Chính yếu tố sở hữu
tồn dân này đã cho phép chính quyền nhà nước có thể huy động được sức mạnh tổng
hợp của tồn dân trong q trình tiến hành triển khai xây dựng các cơng trình quy mơ cần
diện tích mặt bằng lớn hoặc một phạm vi lãnh thổ thuộc chức năng quản lý nhà nước của
nhiều địa phương khác nhau [1, tr. 175-189]. Ví dụ như việc triển khai xây dựng các tuyến
502


đường giao thông huyết mạch liên tỉnh và xuyên quốc gia, thành lập các khu bảo tồn thiên
nhiên hoang dã, và thậm chí xây dựng các di tích lịch sử, di sản văn hóa, và cơng trình
cơng cộng đều thường nhận được sự đồng thuận cao của các bên liên quan. Mặc dù q
trình này khơng phải lúc nào cũng diễn ra một cách sn sẽ, nhưng nhìn chung khơng
phát sinh mâu thuẫn lớn đến mức xảy ra các cuộc xung đột vũ trang gay gắt dẫn đến bất
ổn chính trị [7, tr. 19-54]. Đó chính là một điều kiện hết sức cơ bản để Việt Nam có thể
tiếp tục gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trong quá trình cơng nghiệp hóa và hiện
đại hóa sắp tới.
Thứ hai, tài nguyên đất vẫn là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên quan
trọng nhất [5, tr. 12-14] của Việt Nam trong tất cả các mối quan hệ cả đối nội lẫn đối
ngoại. Về đối nội, đất đai hiện là một trong những tài sản quý giá nhất của toàn thể cư

dân Việt Nam và ngành kinh doanh bất động sản là một trong những ngành mang lại
nhiều lợi nhuận một cách dễ dàng và thuận lợi nhất cho tất cả những người liên quan. Tài
sản lớn nhất của không ít gia đình Việt Nam hiện nay chính là đất đai. Một bộ phận không
nhỏ doanh nghiệp của Việt Nam cũng chủ yếu sống dựa vào các nguồn tài nguyên thiên
nhiên đất đai hơn là giá trị gia tăng do lợi nhuận từ sản xuất mang lại. Khơng ít địa phương
giàu lên cũng chủ yếu nhờ bán đất để đổi lấy tốc độ phát triển và lợi thế trước mắt về điều
kiện vật chất [4, tr. 1-14]. Đó là một mơ hình phát triển mà hiện nay về cơ bản người ta
gọi là phát triển theo kiểu đánh đổi hơn là phát triển bền vững lâu dài.
Thứ ba, mặc dù kinh tế Việt Nam đang có xu hướng chuyển dần sang cơng nghiệp
và dịch vụ, nhưng nơng nghiệp vẫn đóng một vai trị vơ cùng thiết yếu đối với đời sống
hàng ngày cũng như tổng sản lượng kinh tế của cả nước [2, tr. 1-14]. Phần lớn các ngành
sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn dựa chủ yếu vào việc khai thác các nguồn tài
nguyên thiên nhiên sẵn có từ đất đai, từ nền nông nghiệp lúa nước cho đến trồng trọt các
loại hoa màu và thậm chí cả nuôi trồng thủy hải sản cũng như các loại cây cơng nghiệp
phục vụ cho sản xuất chế biến. Tồn bộ các hoạt động sản xuất nông nghiệp này từ tiểu
nông của từng hộ nông dân đơn lẻ đến tập thể của từng công ty và nông trường cũng như
xa hơn nữa là trang trại và sản xuất quy mô lớn theo kiểu hợp tác xã hoặc tập đồn sản
xuất nơng nghiệp đều về cơ bản vẫn phải dựa vào các nguồn tài ngun thiên nhiên sẵn
có trên và trong lịng đất. Đất đai vì thế là yếu tố có tính chất sống cịn đối với gần như
tồn bộ nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, cho dù cơng nghiệp và dịch vụ đang có xu hướng tiến triển ngày càng tích
cực và đóng góp giá trị gia tăng đang ngày một lớn trong nền kinh tế, nhưng rõ ràng phần
lớn nền cơng nghiệp và thậm chí cả một phần các ngành dịch vụ của Việt Nam cũng vẫn
chủ yếu dựa vào việc khai thác và tận dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú,
đa dạng, và sẵn có từ đất. Ví dụ, một trong những lĩnh vực thường đóng góp nhiều nhất
cho ngân sách quốc gia chính là khai thác dầu thơ tất nhiên là thường diễn ra trên biển,
nhưng thực tế cũng là trong lòng đất. Tương tự như vậy là ngành khai thác than đá, trong
503



khi các ngành cơng nghiệp khai thác khống sản và quặng sắt được xem là tương lai và
mũi nhọn của Việt Nam trong thời gian sắp tới. Cùng với những đóng góp tích cực của
ngành xuất khẩu lúa gạo và thủy hải sản, có thể nói rằng phần lớn các ngành kinh tế mũi
nhọn và trọng yếu của Việt Nam hiện nay đều vẫn dựa vào việc khai thác các nguồn tài
ngun thiên nhiên sẵn có trong lịng đất.
Thứ năm, đất đai là một trong những lợi thế cơ bản của Việt Nam để thu hút vốn
đầu tư nước ngoài và một điều kiện quan trọng để tiến hành liên doanh cũng như liên kết
với bên ngoài. Phần lớn các doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam, vì 1)
tình hình chính trị ổn định, 2) nguồn tài nguyên thiên nhiên nhìn chung tương đối dồi dào
và phong phú cũng như về cơ bản vẫn chưa bị khai thác theo kiểu tận diệt đến mức gần
như khơng cịn gì có thể khai thác được nữa, trong đó đất đai xây dựng mặt bằng thường
đóng vai trị then chốt, 3) nguồn nhân công đông về số lượng, thiếu về chất lượng, và rẻ
về giá cả, 4) một thị trường tiêu thụ tiềm năng với gần 100 triệu dân của một nền kinh tế
đang có tốc độ tăng trưởng nhanh đều và ổn định bậc nhất thế giới trong một thời gian
dài, 5) chính sách thu hút đầu tư hấp dẫn và nhiều ưu đãi của nhiều địa phương trong cả
nước để thực hiện thành cơng giấc mơ hóa rồng trong thời gian sớm nhất có thể. Nhìn
vào tất cả các yếu tố trên thì có thể thấy rằng mặc dù việc thu hút vốn đầu tư nước ngồi
cịn phụ thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể, nhưng về cơ bản chỉ có hai nhân tố chủ đạo mang
lại lợi thế thực sự cho Việt Nam. Một mặt là nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và
mặt kia và nguồn nhân công dồi dào. Phần lớn các khu chế xuất và khu công nghiệp được
ra đời và phát triển trong bối cảnh này.
Tóm lại, đất đai là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá của mọi
quốc gia dân tộc. Đối với Việt Nam, đất đai đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong
q trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc cũng như trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước hiện nay. Không chỉ là một trong những yếu tố cơ
bản của các ngành sản xuất nông nghiệp đang chiếm đa số trong đời sống sinh hoạt hàng
ngày của dân cư nơng thơn, đất đai cũng chính là một trong những nguồn cung cấp giá trị
chủ yếu cho không ít lĩnh vực sản xuất công nghiệp và thậm chí cả dịch vụ. Trong bối
cảnh phần lớn các ngành sản xuất của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn dừng lại ở mức độ
khai thác và tận dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có là chủ yếu, đất đai chính

là một trong những nguồn lợi quan trọng nhất của q trình sản xuất. Trong chính sách
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như trong quá trình hình thành các liên doanh
và liên kết, đất đai cũng chính là một trong những thành tố mang lại cho phía doanh
nghiệp Việt Nam nhiều lợi thế. Tuy nhiên đây là một nguồn tài ngun khơng phải vơ
tận, chính vì thế việc quản lý, khai thác, và sử dụng nguồn tài nguyên quốc gia quý giá
này như thế nào cho hợp lý là một câu hỏi lớn của các cơ quan chức năng.
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc quản lý tài nguyên đất trong bối cảnh của cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay
504


Mặc dù đất đai đóng một vai trị vơ cùng thiết yếu và tối quan trọng đối với quá
trình đổi mới của Việt Nam trong những thập niên vừa qua, nhưng quá trình quản lý, khai
thác, và sử dụng đất đai của Việt Nam trong thời gian qua cũng đã và đang đặt ra khơng
ít vấn đề cần phải được tập trung giải quyết dứt điểm càng sớm càng tốt. Đây là một câu
chuyện vơ cùng phức tạp và có liên quan đến nhiều bên khác nhau, nhưng có xu hướng
diễn biến ngày càng phức tạp. Tuy nhiên, tựu chung lại vấn đề đất đai của Việt Nam thời
gian qua chủ yếu liên quan đến các yếu tố sở hữu, quản lý, khai thác, sử dụng, và mơ hình
phát triển.
Thứ nhất, việc đất đai được xem là thuộc sở hữu tồn dân thơng qua người đại diện
của mình chính là nhà nước đã mang lại nhiều lợi thế không nhỏ cho việc sử dụng đất đai
với quy mô lớn và phạm vi rộng. Tuy nhiên, quá trình phát triển của Việt Nam thời gian
qua đã làm cho phương thức sở hữu này ngày càng bộc lộ ra nhiều yếu tố chưa thể đáp
ứng được nhu cầu đa dạng của thực tế. Về nguyên tắc việc đất đai vẫn được xem là thuộc
sở hữu tồn dân làm cho tính tự chủ và cơ hội phát huy khả năng khai thác một cách chủ
động nguồn tài nguyên này chưa được hiệu quả như mong muốn. Có thể thấy rằng, hành
lang pháp lý đất đai vẫn chưa thực sự theo kịp với tốc độ phát triển của thực tiễn cuộc
sống, nên trong thực tế đã diễn ra khơng ít trường hợp xung đột lợi ích và tranh chấp liên
quan đến quyền sử dụng đất đai một cách dai dẳng và kéo dài. Hiện tượng này đang có
xu hướng ngày càng diễn biến phức tạp, vì khơng chỉ gia tăng về số lượng mà trong thực

tế nhiều lúc còn biến tướng về mặt bản chất.
Thứ hai, về nguyên tắc toàn bộ đất đai thuộc quyền quản lý của nhà nước trên
phương diện hành chính đối với đất tư, nhưng đồng thời cũng là chủ sở hữu đối với đất
cơng bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Việc quản lý đất đai thời gian qua đã đi
vào ổn định và có chiều sâu. Hệ thống các văn bản pháp luật ngày càng được hoàn thiện
và củng cố theo hướng tiệm cận với khu vực và hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, cơ chế
quản lý và phương thức thực hiện trong quá trình vận hành chức năng này đang để lại
nhiều dấu hỏi lớn. Cơng tác quản lý đất đai có nơi q chặt đến mức gây khó dễ cho các
bên liên quan, trong khi một số nơi lại quá lỏng lẽo đến mức buông lỏng quản lý và thực
tế cũng đã gây ra những hậu quả không hề đơn giản đối với cả người dân lẫn nhà nước.
Chính cơng tác quản lý này mới là một trong những nguồn gốc cho các mâu thuẫn, tranh
chấp, và xung đột lợi ích về đất đai trong thời gian qua. Chính vì thế, việc quản lý một
cách có hệ thống và đồng bộ nguồn tài nguyên quốc gia quý giá này trở thành một nhu
cầu cấp thiết đối với tất cả các bên liên quan trong thời gian tới.
Thứ ba, tài nguyên đất là một trong những vốn quý của quốc gia, việc khai thác
nguồn tài ngun này vì thế khơng chỉ ảnh hưởng đến tổng nguồn lực giá trị mà nó có thể
tạo ra, mà còn tác động đến cả khả năng thịnh vượng của nền kinh tế quốc dân cả nước.
Tài nguyên đất mặc dù là dồi dào, nhưng không phải vô tận. Thế gian này về cơ bản
khơng cịn chỗ trống khơng có chủ. Gần như khơng cịn nơi nào khơng có dấu chân của
505


con người theo nghĩa thông thường. Việc khai thác tài ngun đất chính vì thế đã có lúc
và có nơi đạt đến mức độ hiệu quả tối đa nhất có thể. Tuy nhiên, diện tích đất thì về cơ
bản khơng thể tự nhiên sinh ta một cách nhanh chóng tương xứng với tốc độ phát triển
của dân số. Thực tế đó đã làm cho nhiều nguồn tài nguyên đất của Việt Nam đã gần như
cạn kiệt. Mặc dù vậy, vấn đề đáng báo động hơn là khơng chỉ diện tích đất có thể khai
thác được ngày càng thu hẹp, mà khả năng phục hồi của các vùng đất đã bị tận dụng theo
kiểu tận diệt là rất hạn chế. Tài nguyên đất đối với Việt Nam do đó mặc dù chưa phải đã
hết, nhưng một tương lai bất định không phải khơng có khả năng diễn ra.

Thứ tư, sử dụng tài nguyên đất làm sao cho hiệu quả và thiết thực là một câu hỏi
không mới [6, tr. 8-23], nhưng khơng phải lúc nào cũng có thể tìm được lời giải đáp thỏa
đáng trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay. Một mặt của vấn đề là nhiều nguồn tài nguyên
đất bị sử dụng sai mục đích cũng như khai thác đến mức tận diệt và khơng có khả năng
phục hồi như mong muốn. Mặt khác là việc nhiều nguồn tài nguyên đất mặc dù đã hoàn
thành các thủ tục về mặt hành chính, nhưng khơng được đưa vào sử dụng kịp thời nên
dẫn đến thất thoát nguồn lực tài nguyên thiên nhiên từ đất cũng như lãng phí nguồn lực
cơng của cộng đồng. Việc sử dụng sai mục đích không chỉ dẫn đến nhiều hệ quả rất tai
hại đối với tổng quỹ đất chung của cả nước, mà còn góp phần gây ra tình trạng lộn xộn
về vấn đề khai thác và sử dụng đất những năm vừa qua. Đó là một thách thức khơng nhỏ
đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhưng không phải là không có phương án giải
quyết trong thời gian tới.
Thứ năm, đất đai là một trong những nguồn tài nguyên đặc biệt của quốc gia. Tuy
nhiên, việc khai thác và sử dụng chúng như thế nào cho hiệu quả lệ thuộc một phần rất
lớn vào mơ hình phát triển của từng nước. Mơ hình quản lý và sử dụng đất đai của Việt
Nam thời gian qua đã phát huy nhiều tác dụng tích cực [8]. Tuy nhiên, q trình phát triển
kinh tế chủ yếu dựa vào việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn của đất
cũng như tận dụng các lợi thế vốn có từ đất cũng có những mặt trái nhất định của nó.
Khơng chỉ các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có từ đất đang có dấu hiệu cạn kiệt dần,
mà không gian sinh tồn của nhiều hệ sinh thái tự nhiên cũng đang bị thu hẹp nghiêm
trọng. Nhiều vùng đất đã bị ô nhiễm đến mức khơng thể tái sử dụng dưới bất cứ hình thức
và mức độ nào. Mặc dù Việt Nam chưa phải đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức trực
tiếp của tình trạng này, nhưng chuyển đổi mơ hình phát triển từ dựa vào các nguồn lực
sẵn có từ đất sang phát triển kinh tế bền vững bằng khoa học công nghệ và hàm lượng
chất xám có ý nghĩa sống cịn.
Tóm lại, công tác quản lý và sử dụng tài nguyên đất của Việt Nam thời gian qua đã
mang lại nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, thực trạng cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên
nhiên sẵn có từ đất cũng như vấn đề ô nhiễm môi trường đất đang thực sự đe dọa khả
năng phát triển bền vững cũng như mơ hình thịnh vượng của Việt Nam trong thời gian
tới. Việt Nam được dự đoán sẽ là một trong những nước chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề

506


nhất của biến đổi khí hậu. Việc khai thác và sử dụng nguồn lực tài ngun đất chính vì
thế khơng chỉ phải khoa học và hợp lý, mà còn phải hết sức tiết kiệm và hiệu quả để tránh
để lại những hậu quả không thể khắc phục đối với hậu thế. Để giải quyết vấn đề này, con
đường tất yếu của Việt Nam là phải chuyển đổi mơ hình phát triển từ chỗ chủ yếu dựa
vào các nguồn lực tài ngun thiên nhiên sẵn có từ đất, sang mơ hình phát triển chú trọng
đầu tư khoa học công nghệ và hàm lượng chất xám.
2.3. Một số đề xuất hàm ý chính sách
Trên cơ sở các phân tích như trên, bài viết cung cấp thêm một số gợi ý mang tính
chất tham khảo cho việc khai thác và bảo vệ nguồn lực đất đai trong thời gian tới.
1) Về vấn đề sở hữu, bên cạnh phương thức sở hữu toàn dân qua đại diện nhà nước,
bối cảnh mới đòi hỏi phải khơng ngừng đa dạng hóa và liên tục đổi mới hình thức làm
chủ đối với nguồn tài nguyên quan trọng này của quốc gia. Trong thực tế, hiện nay cần
có những cơ chế, chính sách nhằm cụ thể hóa nội dung hình thức sở hữu tồn dân về đất
đai cho phù hợp với bối cảnh của tiến trình phát triển và nhu cầu thực tiễn.
2) Về công tác quản lý đất đai, khơng ít vấn đề gần đây nảy sinh từ chính sự yếu
kém của lĩnh vực này. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như
các thành tựu vượt bậc của nhân loại trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0, rất nhiều cơng việc trong cơng tác quản lý nói chung và quản lý đất đai nói riêng hồn
tồn có thể được tiến hành bằng máy móc một cách khách quan, trung thực, và chính xác
[11, tr. 1-8]. Chừng nào mà các cơ quan chức năng vẫn còn do dự và viện cớ để trì hoản
việc áp dụng máy móc vào trong q trình quản lý đất đai, chừng đó vẫn cịn các yếu tố
thiếu tích cực tồn tại và phát triển trong hệ thống hành chính. Chính vì vậy, việc tăng
cường ứng dụng khoa học công nghệ vào trong công tác quản lý đất đai không chỉ là một
yếu cầu cấp thiết, mà còn là một nhiệm vụ bắt buộc đối với các cơ quan chức năng trong
thời gian tới. Chỉ có các giải pháp khoa học cơng nghệ mới có thể giải quyết một cách
dứt điểm và triệt để các vấn đề cịn tồn động trong cơng tác quản lý đất đai.
3) Về vấn đề khai thác và sử dụng đất, xét về tổng thể thì đây vẫn cịn là một điểm

yếu của nền sản xuất Việt Nam, vì phần lớn vẫn chủ yếu dựa vào việc khai thác các nguồn
tài nguyên thiên nhiên sẵn có từ đất hơn là tạo ra các giá trị gia tăng nhờ khoa học cơng
nghệ và trí tuệ chất xám. Chính vì thế, việc chuyển đổi mơ hình phát triển từ việc dựa hẳn
và lệ thuộc có tính chất quyết định vào các nguồn tài nguyên sẵn có từ đất cũng như các
lợi thế từ việc bán đất trong hoạt động sản xuất kinh doanh sang mơ hình sáng tạo ra các
giá trị đích thực cho cuộc sống là một đòi hỏi tất yếu của cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0 hiện nay [9, tr. 3-10]. Q trình này tất nhiên khơng hề đơn giản, vì nó phải bắt đầu
từ khâu nhân sự cũng như các nguồn lực khoa học cơng nghệ để có thể đáp ứng đến mức
tối đa nhất có thể các quy luật vận hành của một nền kinh tế tri thức và mơ hình phát triển
bền vững trong tương lai [10, tr. 136-140]. Mặc dù vậy, nếu Việt Nam xuất phát sớm và
507


có các bước chuẩn bị càng chu đáo, khả năng và cơ hội thành công càng lớn hơn.
4) Lợi thế về nguồn tài nguyên đất trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
cũng như thiết lập các mối liên doanh và liên kết với bên ngoài đã mất dần giá trị thực
tiễn. Các nguồn tài nguyên đất của Việt Nam mà giới đầu tư nước ngoài hướng đến không
chỉ đang bị cạn kiệt dần, mà môi trường đất đai cũng đang có nguy cơ thu hẹp đáng kể.
Các khu chế xuất thực chất là chế biến và xuất khẩu, trong khi khơng ít khu cơng nghiệp
một khi đã được sử dụng thì rất khó có thể phục hồi lại được chức năng đất nông nghiệp
sinh thái như vốn có. Giới đầu tư nước ngồi đến Việt Nam khơng hẳn lúc nào cũng vì sự
phát triển bền vững của nước sở tại. Thay vào đó, lợi nhuận thơng thường mới là mục
tiêu tối thượng của giới kinh doanh. Chính vì thế, vấn đề mơi trường nhiều lúc khơng
được chú ý đúng mức và vì thế cũng đã để lại khơng ít hậu quả q khó lường. Đảm bảo
các tiêu chuẩn về an ninh môi trường cũng như chuyển giao khoa học công nghệ thế nên
phải trở thành các điều khoản then chốt và bắt buộc đối với các dự án đầu tư nước ngồi có
sử dụng đất cũng như các nguồn tài nguyên đất của Việt Nam. Có như thế, Việt Nam mới hy
vọng tránh được các thảm họa mơi trường khơng đáng có như những gì đã xảy ra và đồng
thời có thể hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong tương lai [3, tr. 707-718].
5) Mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam trong thời gian tới chịu ảnh hưởng

mạnh mẽ của vấn đề biến đổi khí hậu, tình trạng nóng lên của trái đất, và đặc biệt quan
ngại là mực nước biển dâng cao. Phần lớn các vùng ven biển của Việt Nam được cho là
sẽ bị nhấm chìm trong nước. Đáng chú ý, đây chính là khu vực màu mỡ và vùng sản xuất
nơng nghiệp chính của Việt Nam. Điều đó có nghĩa là đất đai vốn đã là một vấn đề hết
sức nan giải của Việt Nam trong thời gian qua, giờ đây lại còn phải đối mặt với nhiều
thách thức thậm chí cịn phức tạp hơn nhiều. Ứng phó với biến đổi khí hậu chính vì thế
khơng cịn là vấn đề cần phải đưa ra bàn thảo thêm, mà trong thực tế phải là vấn đề cần
phải đưa vào hành động trong thực tiễn cuộc sống của mỗi người càng sớm chừng nào tốt
chừng đó. Nếu khơng có chiến lược hợp lý, các thách thức từ nguồn lực đất đai của Việt
Nam vốn đã khơng ít, lại sẽ càng nghiêm trọng hơn trong thời gian tới.
3. Kết luận
Tóm lại, đất đai đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình tiến hành cơng
cuộc đổi mới của Việt Nam hơn 3 thập kỷ qua. Đó khơng chỉ là một trong những nguồn
sinh lợi chính yếu của phần lớn các lĩnh vực sản xuất then chốt của Việt Nam hiện nay,
mà cịn là một lợi thế mang tính chất quyết định trong cơng tác thu hút vốn đầu tư nước
ngồi và liên doanh cũng như liên kết của các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, các
nguồn tài ngun đất cịn là một trong những tài sản quý giá nhất và nguồn sinh kế chủ
yếu của một bộ phận không nhỏ cư dân nơng thơn. Chính vì thế, vấn đề quản lý và sử
dụng đất sao cho thực sự hợp lý và hiệu quả đã được đặt ra từ rất lâu. Tuy nhiên, cho đến
hiện nay vẫn tồn tại khơng ít trường hợp hoặc quản lý quá lỏng lẽo dẫn đến tình trạng lạm
508


dụng đất đai hoặc là tận dụng một cách triệt để đến mức tận diệt làm cho khả năng tạo ra
giá trị mới của nguồn lực đất đại bị triệt hạ gần như hồn tồn. Một phần của tình trạng
này là do phương thức sở hữu chưa thực sự linh hoạt và theo kịp với thực tế phát triển
của tình hình. Tuy nhiên, chiến lược đánh đổi tài nguyên thiên nhiên từ đất cho tốc độ
phát triển cũng như các lợi ích trước mắt mới là nguyên nhân chủ đạo. Đứng trước tình
hình đó, bên cạnh việc tăng cường và đổi mới ứng dụng khoa học công nghệ vào trong
công tác quản lý đất đai, thì đổi mới mơ hình phát triển của nền kinh tế chủ yếu dựa vào

các lợi thế cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên từ đất sang nền sản xuất dựa vào hàm
lượng khoa học cơng nghệ cũng như trình độ trí tuệ đóng vai trò chủ đạo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Barlowe, R., Adelaja, S., and Babladelis, P. (2013), Land Resource Management:
Economic Foundations and New Directions, Michigan State University, Michigan.

2.

Blum, W. E. H. (2013), Soil and land resources for agricultural production:General
trends and future scenarios-A worldwide perspective, International Soil and Water
Conservation Research, Vol. 1, No.3, pp. 1-14.

3.

Đỗ Kim Chung (2018), NÔNG NGHIỆP THÔNG MINH: CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA
VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHO NGHIÊN CỨU VÀ ĐÀO TẠO, Tạp chí Khoa học Nơng
nghiệp Việt Nam, 16 (7), tr. 707-718.

4.

Enemark, S. (2005), Land Management and Development, CLGE
INTERNATIONAL CONFERENC 2005, EUROPEAN PROFESSIONAL
QUALIFICATIONS IN GEODETIC SURVEYING, BRUSSELS.

5.

FOOD AND AGRICULTURE ORGANIZATION OF THE UNITED NATIONS

(2017), Land resource planning for sustainable land management, Current and
emerging needs in land resource planning for food security, sustainable livelihoods,
integrated landscape management and restoration, Rome.

6.

Hart, K., Allen, B., Lindner. M., Keenleyside, C., Burgess, P., Eggers, J., Buckwell,
A. (2013), Land as an Environmental Resource, Report Prepared for DG
Environment, Contract No ENV.B.1/ETU/2011/0029, Institute for European
Environmental Policy, London.

7.

Kerkvliet, B. J. T. (2014), Protests over Land in Vietnam: Rightful Resistance and
More, Journal of Vietnamese Studies, Vol. 9, No. 3, pp. 19-54.

8.

Lê Quý Kha (2017), Mơ hình nơng nghiệp 4.0 và khả năng áp dụng ở Việt Nam:
Nơng nghiệp 4.0 là gì?, trong: (truy
509


cập ngày 17 tháng 9 năm 2019).
9.

Lê Quý Kha (2017), Tổng quan nông nghiệp 4.0 trên thế giới và khả năng áp dụng
vào Việt Nam, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kỳ 1, tháng 7, tr. 3-10.

10. The International Bank for Reconstruction and Development, The World Bank

(2008), Sustainable Land Management Sourcebook, Washington DC.
11. United States Department of Agriculture, Natural Resources Conservation Service
(2006), Land Resource Regions and Major Land Resource Areas of the United States,
the Caribbean, and the Pacific Basin, U.S. Department of Agriculture Handbook.

510



×