Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Nghệ Thuật Trong Thơ Ca Tản Đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.09 KB, 21 trang )

Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
I.

MỞ ĐẦU

Tản Đà - một cái tên khơng cịn xa lạ với thơ ca, giữ vai trò đặc biệt bậc nhất của văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời. Khi mà xã hội đang thay đổi văn hóa từ Hán học chuyển sang Tây học, từ nơng thơn chuyển lên thành
thị. Ơng chính là nhà văn đô thị đầu tiên, là nhà thơ nho học cuối cùng và là “người đã dạo những bản đàn mở
đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ” trong lịch sử văn chương Việt Nam
Theo nhà thơ Anh Ngọc nhận xét Tản Đà là “một cái cây mọc lên từ thế kỷ trước, uống dòng sữa của hai ngàn
năm Nho học và lấy thế kỷ 19 làm quê hương, bởi quê hương đồng nghĩa với tuổi thơ”. Được xem là người đi
tiên phong mở đầu cho thơ hiện đại Việt Nam, thơ Tản Đà vượt lên trên mọi khuôn cách gị bó, niêm luật cùng
lối thơ cách tân phóng khống, tự do. Ngơng, say, buồn, lãng mạn... tất cả đều có trong thơ ơng. Ngồi ra Tản
Đà cũng là người đóng vai trị khai sáng văn xi nghệ thuật. Thơ văn Tản Đà không chỉ hay về nội dung mà
cịn đặc sắc về nghệ thuật.
Bấy nhiêu đó là đủ để làm nên tên tuổi của Tản Đà trong thi đàn văn học Việt Nam. Những sáng tác của ông
xứng đáng được người yêu văn đón nhận và trân quý. Bằng tất cả sự kính trọng và ngưỡng mộ ấy, chúng tôi
chọn đề tài “Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà” để đưa đến các bạn cái nhìn sâu sắc nhất về một trong những
nghệ thuật đỉnh cao của thơ ca hiện đại Việt Nam.
II.

NỘI DUNG

1.

Tản Đà – tác gia tiêu biểu của văn học giao thời

1.1.

Cuộc đời


Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, tên thường gọi là Ấm Hiếu, sinh ngày 25/05/1889 (20 tháng 4 năm Kỷ
Sửu, Thành Thái nguyên niên), quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Dịng họ của Tản Đà có truyền thống khoa bảng. Cha là Nguyễn Danh Kế, làm quan tri huyện, tri phủ thời Tự
Đức. Mẹ ông là Nhữ Thị Nghiêm, một đào nương nổi tiếng tài sắc ở phố Hàng Thao, Nam Thành, là vợ lẽ thứ
ba của Nguyễn Danh Kế và Ấm Hiếu là con thứ tư, mà cũng là con út của bà. Năm lên ba thì bố mất, sau đó mẹ
ơng lại trở về nghề cũ.Từ bấy giờ, ông được người anh cùng cha khác mẹ là Giáo thụ Nguyễn Tài Tích ni
dưỡng.
Ơng từng theo học chữ Nho. Ông cũng là một trong những học trò đầu tiên của trường Qui Thức. 1862, Nguuễn
Khắc Hiếu lấy vợ năm 27 tuổi.
Ơng đi thi mãi nhưng khơng đỗ đạt gì cả.Ơng đã từng là một nhà nho rời nông thôn ra thành thị.Cuộc sống
thành thị lúc bấy giờ đã ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm và thái độ trước cuộc sống hiện tại của ông, cuộc
sống ngày càng khó khăn, khơng làm quan được và cũng khơng muốn làm cơng chức cho Pháp. Ơng quyết định
làm một nghề mới là làm văn, làm báo chuyên nghiệp.
Những năm cuối đời, từ năm 1934 đến 1939, cuộc sống gia đình khó khăn, thiếu tiền th nhà, bị tịch thu đồ
đạc, phải dọn ra ngoại thành Hà Nội. Sau đó ơng phát bệnh và mất ngày 07/06/1939.
1.2.

Sự nghiệp sáng tác của Tản Đà

Tản Đà bắt đầu sáng tác năm 1913 đến năm 1915 ông mới bắt đầu công bố tác phẩm của mình trên Đơng
Dương tạp chí. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ơng tham gia vào rất nhiều thể loại và có nhiều đóng
1


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam, đáng kể đến trong số đó là thơ ca (gồm các bài thơ do ơng tự sáng
tác và các bản dịch thơ Đường), văn xuôi (gồm tản văn, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch) và Báo chí.




Thơ:

Từ thập niên 1920 cho đến đầu thập niên 1930, văn đàn khơng có một nhà thơ nào xuất sắc và được yêu mến
như Tản Đà. Kể cả khi phong trào thơ mới nổ ra, thì Tản Đà, sau khi “phái thơ mới” bị đả kích kịch liệt lại được
chính những người đả kích mời về ngồi chiếu trên.
Thơ là lĩnh vực sáng tác quan trọng nhất của Tản Đà. Ông được coi là một thi sĩ, ông sáng tác rất nhiều thơ, thơ
của ông đa dạng cả về nội dung lẫn hình thức.
Thơ của Tản Đà diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, hồi niệm về mối tình
với người tri kỷ. Song cũng có những bài thơ mang đậm tính ẩn dụ, phê phán hiện thực.
Tản Đà thường làm thơ theo thể cổ phong, đường luật, đường luật phá thể, lục bát hay song thất lục bát. Ngồi
ra, ơng cịn có khả năng sáng tác dựa trên “từ khúc” một hình thức âm nhạc của Trung Hoa, đó là những bài như
“Tống biệt”; “Cảm thu tiễn thu” là một sự phá cách, phối hợp nhiều thể loại thơ có thể coi là một sự cách tân về
hình thức khá táo bạo.
Ngồi ra, hát nói hay ca trù một thể loại văn vần nữa mà ở đó Tản Đà được sánh ngang với Nguyễn Cơng Trứ,
Cao Bá Qt, Dương Kh. Hát nói của Tản Đà thể hiện một triết lý sống phóng khống, một tâm hơn hay mơ
mộng hồi cổ nhưng man mác nổi sầu nhân thế.
Ngoài thơ tự sáng tác, thơ tự dịch của Tản Đà cũng được đánh giá rất cao. Những bài thơ lục bát lục bát dịch từ
thơ đường của ông được xem là hay hơn những bản dịch khác, có bài cịn hay hơn cả ngun tác bởi khơng có
sự gị bó mà truyền tải cả tâm hồn mình vào đó.
Các tác phẩm nổi bật: Khối tình con I (1916); Khối tình con II (1916); Tản Đà xuất sắc (1918); Cịn chơi
(1921); Khối tình con III (1932).



Văn xuôi:

Bên cạnh khối lượng thơ ca đồ sộ mà Tản Đà để lại, không thể không nhắc đến văn xuôi. Lúc sinh thời, Tản Đà
rất tự hào về văn xuôi của mình. Ơng từng nói: “Văn đã nhiều thay lại lắm lối”.
Là tác gia điển hình của nền văn học giao thời, nên văn xuôi của Tản Đà đại diện ln cho cả tính chưa hồn
thành, tính ngổn ngang của một thời đại.Văn xuôi là mảnh đất giao tranh của những xung đột tồn tại gay gắt bên

trong Tản Đà. Đó là xung đột giữa “nhà nghệ sĩ” và “nhà tư tưởng đạo đức”, giữa văn chương nho học đã cũ
và văn chương của thời đại mới.
Các tác phẩm tiêu biểu :
Truyện: Giấc mộng con I (1917); Thần tiền, Đàn bà Tàu (1919); Giấc mộng con II (1932); Giấc mộng lớn
(1932); Thề non nước (1922); Tản Đà văn tập (1932)
Sách giáo khoa, luân lý: Đài gương, Lên sáu (1919); Lên tám (1920)
2


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà

Kịch: Người cá; Tây Thi; Dương quý phi; Thiên Thai (diễn lần đầu năm 1916 tại Hải Phịng)



Báo chí :

Có thể nói, đối với một nhà Nho lỡ vận như Tản Đà thì báo chí là một ngả đường lập thân hấp dẫn.
Làm báo chí là một phần trong sự nghiệp phong phú của Tản Đà. Ơng có phong cách làm báo rất đặc biệt,
thường xuất hiện trong những cuộc bút chiến với giọng điệu khó lẫn.
Ơng từng làm cộng tác viên cho Nam Phong sau đó sang làm chủ bút cho Hữu Thanh. Về sau ơng sáng lập ra
An Nam tạp chí - tạp chí chuyên về mảng văn học đầu tiên của Việt Nam. Đến cuối đời ơng cịn cộng tác với
Văn học tạp chí và cả với Ngày nay, tờ báo trước đó đã mạt sát ơng nặng nề.
Có thể nói sự nghiệp báo chí cũng như sự nghiệp sáng tác của ông luôn gặp rất nhiều trắc trở. Song, những đóng
góp của ơng trong buổi đầu sơ khai của báo chí Việt Nam là một giá trị mà người ta phải công nhận.
2.

Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà

2.1.


Quan niệm về nghệ thuật của Tản Đà

Trước sự chuyển mình một cách đau đớn, nhục nhã sang hướng tư sản của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, một
hướng tư sản què quặt, xã hội mà nhà nho vẫn tiếp tục làm thơ, làm phú, một số bộ phận vẫn tiếp tục làm ca,
làm vè, nền văn học cũ vẫn tồn tại khắp đất nước. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của một lớp nhà văn mới, một
nền văn học có tính chất khác trước, tạo thành một cảnh tượng giao thời giữa hai nền văn học. Lúc này, thị hiếu
công chúng văn học đổi mới.
Tương ứng với điều này, quan niệm về văn học, tư tưởng thẩm mỹ của người sáng tác cũng phải khác trước.
Điều đó thúc đẩy hình thành một nền văn học lấy đề tài từ chính cuộc sống bình thường trong xã hội, con
người.Một nền văn học đề cao sự thực hơn đạo lý, quan sát mô tả hơn là giáo huấn, truyền đạt… văn khơng cịn
gắn với sử, triết mà đã tách ra làm một nghệ thuật của cái đẹp. Và trong xã hội bấy giờ, sáng tác như là một
nghề để bán văn cho công chúng. Văn học Việt Nam cũng bắt đầu đi vào hướng hiện đại hóa.
Bởi vậy, văn học đã có sự chuyển mình để thay đổi phạm trù thi pháp, thay đổi cả hệ thống quan niệm, tư tưởng,
thẩm mỹ, hệ thống thể loại… Song, để đạt tới điều đó, cần phải có sự chuẩn bị của với những cơ sở, tiền đề nhất
định. Giai đoạn văn học giao thời 1900 – 1930 bắt đầu có các yếu tố hiện đại hóa. Trong đó, Tản Đà là một tác
giả tiêu biểu, người có vai trị quan trọng đóng dấu gạch nối giữa hai phạm trù thi pháp: trung đại và hiện đại.
Xã hội tư sản đương thời có ba mẫu nhà Nho là ẩn dật, hành đạo và tài tử thì Tản Đà chính là nhà Nho tài tử.
Tản Đà khơng cịn là “văn nhân” kiểu xưa, ơng thuộc thế hệ nhà văn đầu tiên xem việc sáng tác với ý thức lập
nghiệp văn học chứ không phải thi đỗ làm quan. Khi Tản Đà từ giã bút lông, đổi qua bút sắt, “mang văn chương
đi bán phố phường”, thì văn học Việt Nam rơi vào tình trạng “bĩ cực”. Ơng bước vào văn nghiệp khơng giống ai
lúc đó, dùng văn chương để kiếm sống và lập nghiệp. Nhưng cái nghề “bán văn buôn chữ” vừa tốn kém mà lại
lời lại chẳng cao:
“Bao nhiêu củi nước mới thành văn,
3


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
Được bán văn ra chết mấy lần.
Ơng chủ nhà in in đã đắt!

Lại ơng hàng sách mấy mươi phần”
Do đó:
“Quanh năm luống những lo văn ế,
Thân thế xem thua chú hát chèo.”
(Lo văn ế)
Tản Đà nhắc đến cái nghèo túng của đời viết văn với một cách thành thực và cay đắng, nhận ra sự thực trong đó
có cuộc đời mình:
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo,
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.”
(Hầu trời)
Dù đời đẩy đưa vào cảnh bi đát, nhưng mọi sáng tác của Tản Đà là biết bao tâm huyết với cái nghiệp mà ông
theo đuổi, nghiên cứu trong lĩnh vực nghệ thuật. Trong nhiều tác phẩm, ông cũng tự hào nhắc về bản than mình
một cách khơng giáu giếm.Điều đó làm nên nét đặc trưng riêng có của bậc nhà Nho tài tử.
Trong mục Thi đàn giảng tập của An Nam tạp chí và trong tập Bình Khang tân thanh, Tản Đà đem thơ của
chính mình ra giảng. Ơng tự phụ là tài tình, nhưng chỗ tâm đắc chính là tài, là nghệ thuật.ngoài chỗ hay về bố
cục, chọn ý, chọn chữ, chọn âm điệu Tản Đà còn tự hào về chỗ “Văn đã giàu thay lại lắm lối” (Hầu trời)
Trong cuộc sống xã hội tư sản, Tản Đà là một kẻ bất đắc chí, thất bại, thất vọng. Nhưng quan điểm sáng tác của
ông rõ ràng, không dễ dãi mà lại rất có ý thức coi trọng văn nghiệp. Ông chủ trương “văn chương là thiên
mệnh”. Tản Đà cho rằng: Văn chương phải được trả lại đúng chức năng của nó. Tản Đà mong muốn dùng văn
chương để làm nên một sự nghiệp “Có bóng mây hơi nước đến dân xã”. Đã có lúc, ơng mơ đến một chuyến
“Thiên du”. Bài thơ Hầu Trời để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc về những lần được gặp gỡ, được đi hầu trời
để tìm lại cảm hứng, tìm lại thiên năng, để được Trời “giao nhiệm vụ và động viên, để phấn khởi hoàn thành
nhiệm vụ”. Vốn là một nhà Nho tài tử nhưng ở một xã hội mới, Tản Đà đã tiếp thu luồng sinh khí văn học mới
mẻ được du nhập từ phương Tây. Song, những sáng tác của ông cũng cho thấy sự gắn kết chặt chẽ với truyền
thống.
Có thể nói, Tản Đà chưa thốt khỏi ràng buộc về chức năng đạo lý của quan niệm văn học cũ. Mà quan niệm
văn học của ông thể hiện rất rõ trong bài thơ Hầu Trời. Tản Đà chia văn chương của mình thành hai loại: “văn
chơi” và “văn vị đời”. Văn chơi gồm tiểu thuyết và thơ, được viết theo bút pháp người tài tử. Còn cái nói về tư
tưởng, đạo lý, giáo huấn như: Đài gương, Lên sáu, Lên tám mới là văn vị đời. Văn lý thuyết, vị đời được viết
theo yêu cầu của Nho giáo truyền thống. Với loại “văn chơi” ông đã đưa cái tôi ngông nghênh của văn chương

người tài tử ra chiếm chỗ trong thi đàn văn học Việt Nam.Và trong đó cái tơi của nhà Nho tài tử bắt đầu bằng
những lời than thở, những tâm tình… để tạo điệu kiện cho sự ra đời của văn học tiểu tư sản vào giai đoạn
sau.Trong loại này, Tản Đà sử dụng hầu hết tất cả các thể loại thơ ca truyền thống và cách tân trên từng thể loại.
2.2.

Cái tôi trữ tình trong thơ Tản Đà – sản phẩm độc đáo của văn học giao thời

Loại hình tác giả tài tử cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX , một giai đoạn giao thời, là hiện tương văn học độc
4


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
đáo, tồn tại trong một bối cảnh đặc thù. Có thể nói, những biến động xã hội có tác động rất lớn tới hồn thơ của
họ, ý thức về con người cá nhân, về bản ngã của đội ngũ tác giả này sẽ có những đặc trưng riêng. Nó vừa là sự
tiếp nối của tư tưởng nhà Nho tài tử, vừa phát triển cao hơn trong bối cảnh xã hội mới.Và cái tôi của Tản Đà là
nổi bật hơn cả.
Một cái tôi không cần giấu diếm gì, lấy chính mình để làm đề tài, viết tự truyệt về đời mình. Đó chính là cái tôi
mới mẻ, bản ngã như đúng ghi nhận của Xuân Diệu về Tản Đà: “Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho
thơ Việt nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đàng hoàng,
bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tơi”. Bản ngã mà Tản Đà đã đóng góp vào tiến trình văn học
Việt Nam hiện diện một cách xuyên suốt mọi tác phẩm, một bản ngã vinh danh, tự nói về mình, đặt chính mình
làm nhân vật trung tâm của tác phẩm. Cái tơi đó, thể hiện rất rõ qua 4 cung bậc khác nhau: ngơng, đa tình, thú
và sầu.
2.2.1. Cái “ngông”
“Ngông” là tỏ ra bất cần đến sự khen chê của người đời, có người nói, đó là thái độ khinh đời, ngạo đời dựa trên
sự tài hoa uyên bác của người nghệ sĩ. Người Trung Hoa hiểu ngông là cuồng, là loạn. Xét đến cùng, ngông thể
hiện một cá tính đặc biệt. Khái niệm “ngơng” trong văn học thường được dùng để chỉ định một kiểu ứng xử xã
hội và nghệ thuật khác thói thường của những nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ. Tất nhiên, ý thức cá
nhân ấy cũng chỉ được phát triển mạnh mẽ trong những điều kiện xã hội nhất định, gắn liền với tổng thể những
quan niệm khá mới mẻ (trong khuôn khổ trung đại) về vũ trụ, nhân sinh và nghệ thuật.

Trước hết, nổi bật trong thơ ca Tản Đà là một cái tôi rất “ngông”.Tản Đà không phải là một trường hợp “ngông”
cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Qt… đều ngơng, nhưng đó là cái
ngơng hào hùng. Cịn ở Tản Đà mới có cái kiểu ngơng “gánh thơ lên bán chợ trời”. Cái “ngông” ấy đi vào đập
phá, thách thức xã hội nhưng có nét hờn tủi tê tái trước xã hội, trước cuộc đời. Đó cũng chính là bản ngã như
cách nói của Xuân Diệu trên đây.
Lần đầu tiên trong văn đàn Việt Nam, Tản Đà bộc bạch hết cái tơi của mình một cách khơng giấu diếm, lấy
mình làm đề tài… để nói lên những tâm tư, tình cảm, những mộng vui của bản thân, viết thư cho người yêu
trong cơn mộng, làm thơ cho bạn bè của mình, kể về những nơi mình đã đặt chân đến và cả những cái thú ăn
chơi lịch lãm của chính mình. Và rồi tự đưa con người cá nhân mình vào thơ:
“Văn chương thời nơm na.
Thú chơi có sơn hà.
Ba vì ở trước mặt.
Hắc giang bên cạnh nhà Tản Đà”
(Tự thuật)
Lấy nôm na làm văn chương, lấy sơn hà làm cái thú chơi, gắn mình với sơng núi quê hương, danh hiệu Tản Đà
gắn với nước non, với quê hương hùng vĩ để xưng danh với đấng sang tạo mn lồi về con người mình, đất
nước mình.
“Con tên Khắc hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.
5


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
(Hầu Trời)
Trước luồng gió của chủ nghĩa cá nhân tư sản và trào lưu văn học lãng mạn trên thế giới, xã hội nảy sinh nhu
cầu địi giải phóng bản ngã, địi tự do và đời sống tình cảm riêng tư chống lại sự kiềm hãm, đè nén của xã hội
phong kiến.
Cái “ngông” của Tản Đà thực chất là sự phản ứng của xã hội đương thời ở góc độ nhân sinh quan. Sự phản ứng
đó là hết sức táo bạo, thể hiện bản lĩnh của một nhân cách sống. Hầu Trời đã cho thấy một cái tôi “ngông”, một

bản lĩnh táo bạo và một hồn thơ lãng mạn, phóng túng. Hay ở bài Tiễn Công lên chầu trời, thêm một lần nữa,
Tản Đà lại tự xưng danh:
“Tôi tên Khắc Hiếu, họ là Nguyễn
Đã có từ phen đến đế cung
Hầu Giời một chuyến từ năm ấy
Thấm thoắt nay đà mấy chục đông”
Rồi phũ phàng nhận định về cuộc đời trôi dạt của khách chơi ngơng nghênh:
“Trời sinh ra bác Tản Đà
Q hương thời có cửa nhà thời khơng”
(Thú ăn chơi)
Đó là cái ngơng, nhưng ngông đan xen với cả cái sầu.Tản Đà coi bốn phương là nhà, mang túi thơ đi khắp trong
thiên hạ, mang cái ngơng nghênh của mình thách thức với cả sơng núi.Và ơng cho rằng đó là định mệnh sắp đặt
ơng như vậy, dù ơng và mọi người có chấp nhận hay khơng. Có thể nói trong sáng tác của mình, Tản Đà đã thực
sự là người kế tục của khuynh hướng văn học đã kịp thời trở thành truyền thống lịch sử. Đã có lúc ơng tự nhận
mình có tính ngơng, khơng che giấu:
“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngơng”
(Hầu trời)
“Ngơng” chính là bản lĩnh làm nên chất riêng có của Tản Đà, tạo nên nét độc đáo trong thơ ơng. Khơng có cái
ngơng thị tài của Cao Bá Qt, khơng có cái ngỗ ngược của Nguyễn Cơng Trứ, khơng có một chàng Kim Trọng
Rắp mong theo ấn từ quan để tìm kiếm lại người đẹp thì khó mà có cái tun ngơn ngạo nghễ của Tản Đà: “Thơ
lưng chất nặng tay buồn rỗi/ Bán áo mà mua giấy viết ngông”.
Hỏng thi, nếm trải cảnh bi kịch xưa nay khơng ít. Tú Xương đã viết về điều đó thật thấm thía. Nhưng Tản Đà thì
lại khác, hỏng khoa thi Đinh Dậu, khoa Nhâm Tí, ơng đã đe dọa và hùng hổ đến tức cười:
“Bởi ông hay quá ông không đỗ,
Không đỗ ông càng tốt bộ ngơng.”
(Tự trào)
Nhà thơ xem đời mình như một cuộc chơi, một cuộc dạo chơi không giới hạn.Trong cuộc chơi đó, Tản Đà
khơng biết lùi bước bao giờ và đã sống trọn vẹn cái say ngạo mạn, thách thức. Ở bất cứ trường hợp nào, dù
6



Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
trong đời hay trong thơ, hình ảnh của ơng vẫn ngất ngưởng chu du khắp trời đất. Có lúc mơ được lên cung trăng
vui vầy cùng chị Hằng, hầu Trời, thoát li lên trời, đọc thơ cho trời nghe. Chính cái ngơng này phát triển hơn
những nhà thơ trước đó.
Để rồi, trong hai chục năm dư cảnh cuối cùng, Tản Đà mới xót xa:
“Ngày xanh như ngựa, đầu xanh bạc
Chán cả giang hồ, hết cả ngông”
(Tiễn ông Công lên chầu Giời)
Kế thừa truyền thống văn học dân tộc và phát triển lên với sắc thái mới trong hồn cảnh xã hội mới, cái tơi
ngơng của người tài tử “vắt mình qua hai thế kỷ” nói lên được rất nhiều nhiều trong nhân cách, bản lĩnh và dự
báo cho những bi kịch mà họ đã, đang và sẽ chịu đựng.
2.2.2. Cái “đa tình”
Trần Đình Hượu gọi đa tình là “một cái tật dễ thương” mà bất kì một người tài tử nào cũng mắc phải, bởi có tài
ắt sẽ có tật, Tản Đà cũng khơng nằm ngồi “cái tật” ấy.
“Tài”, “tình” vốn là phẩm chất chính của người tài tử. Đó là những con người tài hoa, đa tài, đa tình, đa cảm. Đa
tình khơng chỉ đơn thuần là đam mê cái đẹp mà nó là cảm xúc dễ dâng trào trước vạn sự cuộc đời. Và cũng bởi
dễ xúc động và nhiều tình cảm nên người nghệ sĩ dễ bị cuốn vào sắc đẹp và những số phận éo le của những con
người tài sắc.
“Tình” làm con người ta đi trệch ra khỏi những lẽ thường, trệch ra khỏi khuôn khổ của lễ giáo.Cũng chính vì
vậy mà Nho giáo khơng chấp nhận và đồng tình. Các nhà Nho thường tỏ ra nghi ngại trước tình u, đặt ra
nhiều lễ tiết, lo nghĩ và hồi nghi cân nhắc. Và sắc đẹp, đối với họ là thứ của “làm mất nước tan nhà” hay như
câu “hồng nhan họa thủy” là vậy. Tản Đà trong cái mạch chung ấy thể hiện mạnh mẽ hơn khi tự nhận cái đa tình
của mình là có di truyền: “Cho hay vẫn si tình là thói” (Đa tình). Để rồi tự soi mình trong gương, tự trào một
cách dun dáng:
“Trơng gương mình lại ngợ mình,
Phải chăng vẫn giống đa tình ngày xưa.”
(Nói chuyện với ảnh)
Cái đa tình của Tản Đà thể hiện một nỗi sầu cô đơn với những khát khao cháy bỏng trong tình cảm. Rồi cố tâm

tìm đến giai nhân để được sẻ chia.Từ chỗ lấy tình tri kỷ thành tình luyến ái nam nữ. Điều đó trở thành lăng kính
để soi rọi thế giới. Vì thế “mọi sự” trong thơ ông đều xoay quanh tâm trạng yêu đương. Khao khát yêu đương,
muốn có tri kỷ để chia sẻ trong ơng nhiều khi nó gần như trở thành một căn bệnh, làm ông âu sầu đau đớn.Thế
nhưng nỗi đau ấy được ơng thể hiện hết sức kín đáo và không ầm ĩ, một cách thể hiện đậm chất phương Đơng.
Cái phong tình, lãng mạn ấy đã vượt ra ngồi quan niệm thẩm mỹ khơ khan, lý trí của Nho giáo:
“Quái lạ vì sao cứ nhớ nhau?
Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu
Bốn phương mây nước người muôn ngả
7


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
Hai chữ tương tư một gánh sầu”
(Tương tư)
Sống trong tâm trạng của “khách phong lưu”, “bậc tài danh” của thời đại trước, Tản Đà đã đi qua xã hội bằng
một khối những mâu thuẫn khơng hề nhỏ. Song song và cịn có lúc đồng nhất với điều đó là cái tơi đa tình, đa
cảm.
Tản Đà đã thể hiện niềm thương cảm cho bậc giai nhân tài tử, những người phụ nữ chưa chồng hoặc có chồng
mà khơng được gần nhau, sống xa cách để nhớ thương, lạnh lẽo lên đến tột cùng:
“Đêm thu gió lọt song đào
Chồng ai xa vắng, gió vào chi đây”
Để rồi nâng nỗi buồn ấy cùng với gió lạnh, với thiên nhiên:
“Đêm thu gió lạnh đơi mày
Gió ơi! có biết nỗi này cho chăng?”
(Hát tạp)
Hay khuyên những người con gái khi cịn trẻ thì nên đi lấy chồng, đừng để đến khi má đào tàn phai, một cách
tương tự ca dao trong văn học dân gian:
“Người ta có vợ có chồng
Em như con sáo trong lồng kêu mai
Má đào gìn giữ cho ai

Răng đen, đen q cho hồi luống cơng”
Riêng ơng, trong cuộc đời của chính mình đã để lại cho đời ba bức thơ ngỏ:
Thư đưa người tình nhân khơng quen biết (Khối tình con, quyển 2, trang 56, 57):
“Ngồi buồn lấy giấy viết thư chơi
Viết bức thư này gửi đến ai
Non nước xa khơi, tình bỡ ngỡ
Ai tri âm đó, nhận mà con…”
Thư trách tình nhân khơng quenbiết (Tản Đà vận văn, tập 1, trang 91):
“Ngồi buồn ta lại viết thư chơi
Viết bức thư này gửi trách ai
Non nước bấy lâu lòng tưởng nhớ
Mà ai tri kỉ vắng tăm hơi…”
Thư lại trách người tình nhân khơng quen biết
“Ngồi buồn ta lại viết thư chơi
Viết bức thư này lại trách ai
8


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
Ai những nhớ ai, ai chẳng nhớ
Để ai luống những nhớ ai hoài!...”
Ba bức thư ấy thể hiện cái mong muốn tìm được sự đồng cảm, chia sẻ cảm thơng. Cái tình ấy cũng chính là thứ
tình u đặc biệt, đậm đà, lai láng, khơng bờ khơng bến, có sức lan tràn, cần phải san sẻ.Tản Đà là người đa tình
nhưng lại khơng có may mắn gặp được giai nhân. Những thứ không thể thỏa mãn được trong thực tế lại khúc xạ
vào trong văn chương thành những giấc mộng yêu đương, thành những khối tình tha thiết.
Vì thế, Tản Đà đã thương cho chính mình và khóc cho đời với cái ngơng riêng có. Để rồi, Tản Đà tìm đến
Vương Chiêu Qn, Tây Thi, Dương Quý Phi để cùng san sẻ, tâm sự vì ở họ có nét đồng điệu, đồng cảm của
khách phong trần bạc mệnh. Qua đó nhấn mạnh cái khát khao thoát tục, lên hầu Trời, bầu bạn cùng chị Hằng
trên cung trăng. Cái đa tình ấy đang say ngất trước cái mộng cuộc đời lãng mạn quá đỗi, phong tình q đỗi. Đó
là sự ý thức cao độ về tình cảm, tình u mà khơng phải ai cũng nói lên được.

2.2.3. Cái “thú”
Tản Đà tơn thờ tình u, ham chơi, ham rượu, thích ăn ngon. Những khi thất vọng, bế tắc, ơng có tư tưởng
ngơng cuồng và yếm thế.Tất cả đều là sự phản ứng lại xã hội của nhà Nho tài tử. Ông ca ngợi thú ăn chơi, đưa
hồn thơ phiêu du khắp mọi nơi, bước chân cùng nước chảy mây bay. Cách sống phóng túng, giang hồ, say sưa
trong men rượu và thơ ca, rồi những cuộc phiếm du, gặp gỡ trong mộng say… tất cả đều tiêu biểu cho hồn thơ
lãng mạn của ông. Đối với ông, rượu và thơ là cứu cánh của cuộc đời, làm cho cuộc đời nửa mộng nửa say.
Đồng thời đó còn là hứng thú thanh cao của các văn nhân Nho sĩ ngày trước, nhưng ở đây đậm màu sắc khối
lạc. Xu hướng ưa khối lạc và bản tính tự nhiên của Tản Đà nhưng lại bị xã hội dồn ép đi theo con đường ấy.
“Trời đất sinh ta rượu với thơ,
Không thơ không rượu sống như thừa.
Công danh hai chữ mùi men nhạt,
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ.
Mạch nước sơng Đà tim róc rách,
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ.
Còn thơ còn rượu còn xuân mãi,
Còn mãi xuân còn rượu với thơ.”
(Ngày xuân thơ rượu)
Những cuộc chơi của Tản Đà thật đa dạng và khối lạc. Có cái chơi của thơ rượu đầy ngất ngưởng, có cái chơi
trong thú giang hồ xê dịch - ở đó cái Tơi của ơng tìm thấy mình trong cảnh sắc non nước: Chơi Hịa Bình, Chơi
Huế, Nhớ cảnh cầu Hàm rồng...Cái mới mẻ trong những bài thơ nói trên (dù chưa thật nhiều về số lượng) là tư
thế của Tản Đà khi đến với thiên nhiên như một khách du để tìm kiếm và thưởng ngoạn cái đẹp.
Thơ, rượu ở dây không hồn tồn là những khối trá vật chất mà phải có nguồn cảm hứng. Nguồn cảm hứng ấy
là cảnh vật thiên nhiên, riêng đối với tác giả là núi Tản sông Đà mến yêu muôn thuở. Đặc biệt thơ và rượu đều
có thể giải thốt con người ra khỏi trần lụy, say là sống ngồi đời và để nhìn thời cuộc thay đổi:
“Rượu say thơ lại khơi nguồn,
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình.
Rượu thơ mình lại với mình,
9



Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
Khi say quên cả cái hình phù du.”
Nếu thơ là một cố gắng của tri thức để nhảy vọt ra khỏi biên giới thực tại thì rượu là một trạng thái thụ động của
cơ thể. Điều này gợi nhớ đến những câu thơ hay của Hà Nguyên Thạch về tương quan giữa thơ, rượu và cuộc
đời:
“Còn những chén rượu sầu lòng chưa uống rượu,
Nên làm thơ cịn có nghĩa chờ say,
Lúc say khướt sẽ quay cuồng hoài vọng,
Chạy quanh đời nghe hồn nhẹ như mây.”
(Nguyệt san Tản văn, Sài Gịn 1970)
Chỉ có ra đời, trải đời mới có thể thấu đời và đau nỗi đau của đời như Tản Đà đã nhắc đến trong thơ mình:
“Mảnh hình hài quen giả giá như xưa nay,
Chút sinh tướng lúc này coi mới hiện.”
Chỉ có khi say, con người ta mới có thể thốt ra khỏi những cấu thức của trần lụy, của thân thể phù du, tạo cho
thần trí lưng chừng. Phút thốt nghiệp trong hơi cay là một thứ cứu rỗi của Tản Đà trong trần thế phôi pha, cho
nên nhà thơ vừa say sưa, vừa tả cái say sưa một cách say sưa. Âu say sưa ấy cũng là một cách để tránh say đắm:
“Trăm năm thơ túi rượu vị,
Nghìn năm thi sĩ, tửu đồ là ai?”
Hầu như các thi bá đời xưa lấy rượu làm nguồn cảm hứng cho các sáng tác của mình, và Tản Đà cũng khơng
ngoại lệ. Nhờ có rượu mà người nghệ sĩ có thể say hết cái say cuộc đời, ngơng hết cái ngơng của mình:
“Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư đời hư vậy, say thời cứ say.
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay như cười.”
(Lại say)
Tản Đà đã say, đã sống trọn vẹn trong cái say của chính mình, cái say ngạo mạn và thách thức. Phải chăng
người nghệ sĩ đang say vì rượu? Không. Rượu chẳng qua chỉ là cái cớ, là một trị chơi tiêu khiển,và say chính là
một cách chơi. Rượu thể hiện tiếng nói và say để nhìn ngắm cuộc đời. Cái say của Tản Đà, một trong những thú
say lừng lẫy nhất trong văn chương Việt Nam, đó là một trong những cái chơi độc đáo của Tản Đà.
2.2.4. Cái “sầu mộng”




Tình cảnh chán đời và sầu:

Khơng phải đến Tản Đà văn học Việt Nam mới biết đến chữ “sầu”.Trong văn học truyền thống sầu là một phạm
trù thẩm mỹ có ý nghĩa to lớn. Sầu cịn là một tiêu chí quan trọng để phân biệt giữa văn học mang tính nghệ
thuật với bộ phận văn học chức năng.
10


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
Hiểu một cách đơn giản nhất, cái “Sầu” đó là những cảm xúc tự nhiên khác của con người cá nhân khơng có lý
do để hiện diện. Nhưng trong những tác phẩm nghệ thuật thì khác, ở đó con người được sống với cái “tơi riêng
tư” của mình với những hồi vọng, những day dứt, những đam mê và sự khổ đau, những dự phóng và cả những
bất thành, dang dở. Sầu vì thế là một ơ cửa sổ để nhìn vào thế giới của “cái tôi” trong văn học trung đại.
Mạch sầu của Tản Đà, trước tiên, bắt nguồn từ mạch sầu truyền thống. Ở đó ta thường bắt gặp một cách phổ
biến, là cái sầu về kiếp người ngắn ngủi.Tản Đà chán đời và sầu, lộ ra nỗi bi quan yếm thế khơng gây gắt nhưng
nhè nhẹ, thâm trầm.
Ơng chán đời nhưng cũng phải chấp nhận bi kịch mà đời tạo ra như một quy luật tất yếu của cuộc đời, của kiếp
người:
“Như tớ xưa nay vốn vẫn nghèo,
Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu.
Quanh năm luống những lo văn ế,
Thân thể xem thua chú hát chèo.”
(Lo văn ế)
Và rồi ngậm ngùi mà hồi nghi chính mình rằng:
“Ấy ai quay tít địa cầu
Đầu ai nửa trắng nửa pha mầu xuân xanh
Trông gương mình lại ngợ mình

(Bài hát xuân tình)
Sự hữu hạn của kiếp người càng đeo đuổi nhà thơ khi họ sống dài hơn, trải dài hơn với thời gian.Và Tản Đà
chịu tác động hơn cả, khi ông là người sống trong hai thế kỷ, nhận định rất rõ về sự đổi thay của buổi giao thời.
Nó khiến ơng bâng khng trước cảnh tượng tự nhiên của bơng hoa, q đỗi bình thường cũng khiến thi sĩ giật
mình: “Đương ở trên cành bỗng chốc rơi” (Hoa rụng); chạnh lịng trước ngơi mả cũ ven đường; ngao ngán,
thậm chí hoảng sợ khi phải đối diện với thực cảnh: “Tuyết nhuộm đầu xanh, tóc bạc phơ” (Thơ thẩn)...
Để rồi, cam chịu và van xin trước cuộc đời:
“Thương thay! xuân chẳng đợi chờ
Tiếc thay! xưa những hững hờ với xn
Trăm nghìn gửi lại Đơng qn
Hãy khoan khoan tới, hãy dần dần lui”
(Xuân cảm)
Cái chán chường của thi sĩ càng tăng thêm khi đi đến giai đoạn chót của cuộc đời và nhìn lại “đoạn đường”
mình đã “dẫm” lên, thấy nó thật trơi nổi, mơng lung chẳng ra gì:
“Lăng lăng thân thế đi đi đứng,
Nghiêng ngả quan hà tỉnh tỉnh say”
(Đánh quay)
Cái sầu về kiếp người ngắn ngủi là cái sầu của nhân sinh phổ quát. Tản Đà phơ diễn thấm thía cái “sầu” gắn với
11


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
thân thế sự nghiệp - nỗi sầu được chắt ra từ những trải nghiệm rất riêng của cuộc đời Tản Đà. Là người lỡ dở,
thất bại trước bao phen biến đổi cuộc đời, càng về cuối đời thì thơ văn của Tản Đà (hơn bao giờ hết) càng ngậm
ngùi nỗi buồn của một kẻ trắng tay:
“Bốn phương mây mỏi cánh hồng,
Đường mây bãi tuyết chán lịng tha hương.
Tản Viên bóng gác tà dương,
Gió thu giục khách lên đường về quê.”
(Một bức thư của người nhà quê)

Từ mạch sầu này trở thành cái nhìn nghệ thuật để Tản Đà viết Giấc mộng lớn -cuốn tự truyện về những đỗ vỡ
trong cuộc đời ông. Hơn mười năm bút sắt, bút lơng, hao giấy mực chẳng ích gì cho xã hội:
“Trải ba xứ đường xe đường bể,
Trụi râu mày cịn thẹn với giang san.”
Cái cơ đơn là một âm giai khác của nỗi sầu mà qua đó cái “tôi” cá nhân trong những sáng tác của Tản Đà hiện
diện, đó cũng là sầu của cái bi. Nhà Nho ý thức về phận vị đặc tuyển của mình, với tinh thần tự nghiệm nên
những nỗi “tiên ưu” (Nguyến Trãi), những cảnh ngộ “ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ” (ta có tấc lịng khơng biết
nói cùng ai - Nguyễn Du) khiến họ khơng ít phen phải đối diện với nỗi cô đơn. Mạch khác của nỗi cô đơn được
khơi nguồn từ cảm hứng thương thân, xót thân ở Hồ Xuân Hương, nàng chinh phụ, người cung nữ... Đấy là cái
cô đơn bi phẫn, ưu uất. Đến Tản Đà, cái cơ đơn đã bắt đầu có những nét mới lạ trong cách phô diễn, trong diện
mạo. Diễn tả cái cô đơn, ngay cả khi bi lụy nhất, Tản Đà cũng nhẹ nhàng như một hơi thở:
“Chiều quá khách chơi về đã vãn
Gốc cây thơ thẩn một mình ngồi”
(Chơi trại hàng hoa)
Cái cơ đơn ở đây rõ ràng khơng cịn thích thú với cung bậc bi thương, chất chứa vẫn thường bắt gặp trong thơ
cổ điển mà bắt đầu hướng tới cái du dương, êm ái, thi vị đầy mới mẻ. Cái Tơi cá nhân trong bước khởi đầu tìm
kiếm chính mình đã hiện ra trong thơ Tản Đà với gương mặt của những nỗi cô đơn duyên dáng và tình tứ như
thế. Nó báo trước cho cái tơi cảm xúc và sự say mê đặc biệt với những cô đơn, sầu khổ của thơ ca giai đoạn tiếp
theo.



Mộng và mộng:

Nguyễn Khắc Hiếu nói: “Mộng và mộng, đời người cũng là mộng, mộng là cái mộng con, đời là cái mộng nhớn
chỉ khác nhau vì dài ngắn, lớn nhỏ mà thôi”. Thật vậy, cuộc đời Tản Đà là một giấc mộng lớn, trong giấc mộng
lớn là nhiều những giấc mộng con, mộng nối tiếp mộng.Tản Đà lấy mộng làm lẽ sống cho đời mình. Khi đọc
thơ ơng, người ta thường liên tưởng đến nét mặt không mấy thay đổi, và trí “tiêu hao những chốn mộng ảo bất
kinh”.
Khi ơng mộng, ông được sống những cuộc đời đẹp, mới mẻ, tự ông vẽ ra theo trí tưởng tượng của ông. Chính

trong cuộc đời ấy, Tản Đà tìm được cái tự do trong sạch, cái độc lập thanh nhàn, mà từ trước đến nay cái óc lãng
mạn của ơng ao ước. Những khi ông ngao du như vậy, ông mới thấy được “cảnh bao la bát ngát” mà trí tưởng
tượng để khao khát là núi tuyết, rừng băng, là sông Ngân Hà, là bể Nam Định. Lại trong mộng, ơng mới có thể
gặp được những người cùng chung ý tưởng.
12


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà

Tản Đà vẫn canh cánh trong lòng một giấc mơ đẹp về cõi thế người đời. Suốt trong thơ ông, đâu đâu ta cũng
đều bắt gặp hình ảnh “mộng”.
Tản Đà yêu mộng, ngây ngất trong mộng, chìm đắm trong mộng. Cho nên lời thơ tả mộng cũng là lời thơ tuyệt
sướng của ông:
“Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi,
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi.
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng,
Tiếc mộng bao nhiêu để ngán đời!
Những lúc canh gà ba cốc rượu,
Nào hay cánh diệp bốn phương trời.
Tìm đâu cho thấy người trong mộng,
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai?”
(Nhớ mộng)
Bằng thơ ca, Tản Đà theo đuổi những cuộc chơi cũng là những giấc mộng của riêng mình. Ơng tun ngơn về
nó một cách tự tin và ngông ngạo:
“Chơi cho biết mặt sơn hà,
Cho sơn hà biết ai là mặt chơi”
(Chơi Huế)
Thi sĩ từng nói mộng là mộng, đời người cũng là mộng, mộng là cái mộng con, đời người là cái mộng nhớn.
Những giấc ngủ đương say, tâm hồn phảng phất như gần như xa, chợt thấy xuất hiện ra một cuộc đời hoặc vui
hơn, hoặc sướng hơn, đẹp hơn hay bi thảm. Kỳ quái hơn với thân thế mình, mà trong cuộc đời ấy mọi việc liên

tiếp nhau như thực, khiến mình nằm trong mộng mà khơng biết rằng là mộng, thế mới thực là mộng.
Tất cả những miêu tả ở trên cho thấy cõi mộng là khơng gian ở đó cái “tơi” của Tản Đà phơi trải những dự
phóng, sở thích của mình. Mộng như thế là phương tiện để thám hiểm những chân trời mới lạ trong thế giới tinh
thần của cái “tơi”.Đây chính là ý nghĩa mỹ học mới của thế giới ảo mộng mà Tản Đà đem đến cho văn học thời
kỳ này. Bên cạnh đó thế giới mộng cịn đảm nhận một chức năng khác, đó là “thân tình chẳng mộng nên mộng
cho cam thân”.
2.3.

Những cách tân về phương thức thể hiện

Trương Tửu đã từng nhận định: “Tôi gặp những cuộc ca vũ nhịp nhàng của âm điệu, tôi gặp những mãnh lực
thần kỳ của chữ, những hội bay linh diệu của thần tượng. Tôi tưởng đang lạc vào thế giới của ngơn ngữ và hịa
nhạc”. Để có nhận định như vậy là cả một quá trình cách tân sáng tạo của Tản Đà về mặt ngôn ngữ, giọng điệu
và thể loại. Tất cả làm nên nét độc đáo của một tác gia lớn trong văn học giao thời.
2.3.1. Ngôn ngữ thơ ca Tản Đà
Tản Đà- một trí thức sinh ra trong buổi giao thời, với nền tảng giáo dục Nho học theo kiểu khoa cử của gia đình,
cùng với đó là sự tác động của dòng chảy văn minh phương Tây (cụ thể là Pháp) đang ảnh hưởng trực tiếp đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đương thời, trong đó có thơ văn, nghệ thuật. Các sáng tác của ơng vừa có nét
13


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
cổ kính, thuần thục, già dặn của thời kì trung đại, vừa có những nét phá cách, tân tiến của “Thái Tây”. Điều này
biểu hiện rõ nét trên phương tiện ngôn từ.
Minh chứng đầu tiên là cách sử dụng khẩu ngữ, cách xưng hô trong các thi phẩm của ông. Màu sắc âm thanh
từng con chữ cũng là một tinh hoa của nghệ thuật thơ ca Tản Đà.
Trong bài Muốn làm thằng cuội, ông mở đầu bằng những ngôn từ nhẹ nhàng:
“Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.”
Cách xưng hộ trực tiếp như đối thoại, rất mực gần gũi: “chị”, “em”, “tớ”, “bác”, “ơng”… vốn ít xuất hiện trong

thơ ca trung đại, trừ truyện thơ (như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia
Thiều…). Ở thời trung đại người nghệ sĩ còn giữ khoảng cách với thi hứng để có thể nhìn nó một cách khái qt
hơn, nên hạn chế xưng hơ, nếu có thì dùng từ “ta”, cịn lại là khơng xưng gì cả. Họ muốn diễn rộng cái hồn của
bài thơ, tạo sự đồng điệu, kiểu như tạo thành một “khuôn” tiếp nhận. Cịn với Tản Đà từ “chị”, “em”, “tớ”… mà
ơng sử dụng cũng đã được Việt hóa, hiện đại hóa rất nhiều, lược qua những từ mang sắc thái Hán ngữ như
“thiếp”, “chàng”, “huynh”, “đệ”, “tỉ”… Thực ra sự thay đổi trên rất bình thường đối với những nhà thơ cách tân
kể từ giai đoạn thơ mới, nhưng đối với thế hệ của Tản Đà – một thế hệ chuyển biến từ cũ sang mới thì sự thay
đổi này rất đáng được chú ý.
Hay trong bài Cảm thu, tiễn thu từ “hỡi ai”, cảm thán lên một tâm sự lòng người, tiếng khóc thương, gần gũi,
nhẹ nhàng mà chua xót:
“ Nào người cố lý tha hương
Cảm thu ai có tư lường hỡi ai.”
Khơng chỉ vậy, thơ ơng cịn đặc biệt ở cách sử dụng các từ khó (trước thơ mới) mang chất khoa học tự nhiên
hay báo chí nhiều hơn là văn chương, nghệ thuật,như “Á Châu”, “Địa cầu”, “nữ quyền” (“Nữ quyền hôm ấy tớ
rao chơi” – Ai nữ quyền ra mua), Văn minh (“Văn minh giầy đã bán khai” – Chơi Huế), “Tiến trình” (“Tiến
trình vạn lí anh cịn chơi xa” – Chơi Huế)... Điều này khơng chỉ chứng tỏ ông biết tiếp thu cái mới, mà chứng tỏ
ơng cịn rất quan tâm đến vấn đề thời sự.
Qua cách dùng từ, ngữ của ơng có thể khẳng định rằng tầm hiểu biết của ông là vô cùng rộng, cả cổ lẫn kim.
Tuy trong thơ không dẫn nhiều điển tích điển cố nhưng qua đọc một số bài như “Hầu Trời”, “Bài ca thi của hai
tiên nữ tiễn hai chàng Lưu, Nguyễn ra cửa động Thiên Thai về trần”, “Đời hậu Trần”... ta sẽ rõ được điều trên.
Trong bài “An Nam tạp chí lại ra đời”, ơng cịn dẫn kinh sách cổ nhân (Mạnh Tử): “Sách có chữ: "”Cố thiên
tương giáng đại nhiệm ư thị nhân dã, tất tiên khổ kỳ tâm chí, lao kỳ cân cốt, ngạ kỳ thể phu, khống phạp kỳ
thân, hành phật loạn kỳ sở vi. Sở dĩ động tâm nhẫn tính, tàng ích kỳ sở bất năng". Phải rằng ý thế, hay chăng?”
Trích lời xưa thì biết bao nhiêu người đã trích, nhưng trích nguyên văn một đoạn thật dài, đưa cả vào thơ thì Tản
Đà quả thực quá phá cách. Đọc thơ của ông ta còn dễ dàng bắt gặp vô số những động từ, tính từ mạnh, có sắc
thái diễn đạt cao (gợi hình, gợi thanh) như “nực cười” (Hủ nho lo việc đời), “trẻ con” (Mậu Thìn xuân cảm), “ăn
chơi” (Họa mi hót trong lồng), “sướng”, “nở dạ”, “lè lưỡi”, “rẻ như bèo” (Hầu trời), “mua” (mua ở đây là mua
“nữ quyền” – Ai “nữ quyền” ra mua), “hoan lạc” (Đời lắm việc)... Những từ ngữ này minh chứng cho cái
ngông của ông, một cái ngông kiểu như đang trơ mặt với đời, nhưng thực tế thì chẳng thể trơ được, đau luôn cái
14



Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
đau của đời.
Tản đà còn là một nhà thơ ưa chơi chữ. Trong bài Chim họa mi trong lồng:
“Hoạ mi ai vẽ nên mi?
Trông mi mi đẹp, hót thì mi hay!”
Từ “mi” ở đây vừa là đại từ phím chỉ, vừa là danh từ, cho nên câu thơ trở nên có nhiều cách hiểu. Trước nhất,
“mi” trong họa mi, kế đến là “mi” trong lông mi, và “mi” nữa là trong nhà mi, nhà ngươi. Trong bài Còn chơi:
“Ai đã hay đâu tớ chán đời
Đời chưa chán tớ, tớ còn chơi
Chơi cho thật chán, cho đời chán
Đời chán nhau thời tớ sẽ thôi.”
Từ “đời” và từ “chơi” vần với nhau được lập lại xuyên suốt cả bài thơ làm cho bài thơ rất nhịp nhàng, êm tai.
Cho nên có thể khẳng định thêm rằng, thơ ông rất giàu nhạc điệu. Riêng trong đoạn này tác giả còn sử dụng lối
đầu cuối tương lập.Chơi chữ là một nét thú vị của những nhà nho tài tử, thường được sử dụng trong lối thơ trào
phúng.Chứng tỏ thơ của ơng vừa có cả cái sâu sắc, vừa có cả cái dí dỏm.
Thơ Tản Đà cịn mang tính hình tượng hóa rất cao. Trong bài Thề non nước, Tản Đà viết:
“Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi chẳng về cùng non
[...]
Dẫu rằng sơng cạn đá mịn
Cịn non còn nước hãy còn thề xưa
Non xanh đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn”.
“Non” và “nước” ở đây là hai hình tượng khái qt, có thể hiều non nước là cha - con, mẹ - con, chồng - vợ, dân
- đất nước.... Từ hai hình tượng đó tác giả biểu đạt những suy tư, những ý nghĩ của mình, để rồi người đọc có
thể soi chiếu tìm mình trong đó. Câu chuyện giữa non và nước, non hờn trách nước quên lời thề xưa bỏ non lại
bơ vơ trơ trụi, khơng về. Cảm giác đó chắc hẳn con người ai cũng từng trải qua một lần trong đời, gọi là sinh li.
Nhưng tác giả khuyên, cịn non cịn nước thì vẫn cịn lời thề, nước có đi đến đâu, có ra tận bể thì lúc bốc hơi

thành mưa cũng trở về nguồn.
Núi có cây xanh tốt là nhờ đâu? Khơng nhờ có nước ở bên thì cây sao mọc được? Với ý nghĩa, cái xa ta nếu ta
vẫn nghĩ đến thì nó vẫn tồn tại ở dạng tiềm ẩn đâu đó bên mình.
Ngồi ra, cách dùng như, cách hành văn như lối kể truyện cũng được sử dụng:
“Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng khơng có
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng cịn một bụng văn đó.
Giấy người mực người thuê người in
15


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
Văn chương hạ giới rẻ như bèo”
(Hầu Trời)
Hầu trời như là một truyện thơ ngắn của Tản Đà, cùng với Muốn làm thằng Cuội, dường như khi đọc, ta khơng
có cảm giác tác giả đang trị chuyện với Trời, với chị Hằng, mà tác giả đang trò chuyện, tâm tình với chính ta.
Ta thấu cảm được tâm tư của tác giả. Giọng văn trở nên tha thiết hơn, trìu mến hơn.
Một nhà thơ vừa ngơng, vừa có sự suy tư, vừa dí dỏm, đủ mọi cung bậc. Chính sự đa dạng đó đã tạo nên cái
riêng biệt khơng trộn lẫn đi đâu được, làm cho Tản Đà luôn là Tản Đà.
2.3.2. Giọng điệu thơ ca Tản Đà
Nhìn chung, có thể thấy thơ Tản Đà có hai giọng điệu tuy khác nhau nhưng cũng liên quan, gắn kết chặt chẽ và
bổ trợ cho nhau. Hai giọng điệu đó là: Giọng ngơng nghênh, phóng túng và giọng đầy thương cảm, ưu ái.



Giọng ngơng nghênh, phóng túng:

Thơ Tản Đà diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng. Ơng đưa cái tơi cá nhân

của mình trong thơ yêu nước, là sản phẩm của xã hội đang tư sản hóa.Nhưng cái tơi ấy lại đậm nét phương
Đơng. Cái ngơng này của Tản Đà có thể nói như là giọng điệu đặc trưng của ông, xuất hiện hầu hết trong các án
thơ của ông.
Giọng điệu trong thơ ơng khá linh hoạt: đó là giọng kể mang tính tự sự phối hợp với giọng trữ tình nhiều sắc
điệu, khi hóm hỉnh hài hước, lúc thì sơi nổi phóng khoáng, khi lại ngậm ngùi, chua chát. Điều này thể hiện rõ
trong bài Hầu Trời.
Ơng đã thể hiện cái ngơng của mình khi đưa ra lời đề nghị lên cung trăng chơi với chị Hằng:
“Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nữa rồi.
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.”
Cách xưng hơ “chị, em” thân tình với chị Hằng của Tản Đà đã thể hiện cái ngông của nhà thơ, hai câu thơ sau
hình thức là câu hỏi, nhưng lại mang đầy tính đề nghị. Ơng cịn thẳng thắn đưa ra lý do của mình:
“Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui.”
Và cái ngơng này của Tản Đà đạt tới đỉnh điểm khi ơng cịn vẽ nên một bức tranh mà trong đó ơng và chị Hằng
cùng “tựa nhau” để nhìn xuống thế gian:
“Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám,
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.”
16


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà

Cái ngơng đó cũng giúp cho Tản Đà mạnh dạn thể hiện “cái tôi “ cá nhân - một “cái tơi” ngơng nghênh, phóng
túng đến lạ kì! Đây cũng là một cách thể hiện ý thức về tài năng, giá trị đích thực của bản thân và khao khát
được khẳng định mình giữa cuộc đời.
Tác giả cố tình mượn lời Trời để ca ngợi thơ văn mình, để khẳng định mạnh mẽ cái tài của mình:
“Trên trời bỗng thấy hai cơ xuống
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng :

- Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà !
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua.”
Thái độ ngơng trong văn chương chính là phản ứng của những nghệ sĩ tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, khơng chịu
trói mình trong khng khổ chật hẹp có sẵn. Ngơng cũng là thái độ của những người trí thức có nhân cách cứng
cỏi, quay lưng ngoảnh mặt trước một xã hội bất công, nhiễu nhương mà họ không chấp nhận. Tú Xương cũng
đã từng chửi thẳng vào cái xã hội thối nát:
“Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo,
Nhân tình trắng thế lại bơi vơi.”
Nhưng cái ngơng của mỗi người mỗi khác, so với những người đi trước, Tản Đà giống như tiến thêm một bước,
ngông hơn một chút, Tản Đà khẳng định nhiều hơn và trực tiếp, bạo dạn, bất chấp hơn:
“Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay”.
Tản Đà nhấn mạnh, đánh giá thơ của mình hay đến mức mà Trời và chư tiên đều phải hết lời khen ngợi, ở nơi
hạ giới khơng có ai xứng đáng để làm tri âm tri kỷ. Nhà thơ cịn tự nhận mình là tiên bị đoạ vì tội ngơng, xuống
hạ giới truyền thiên lương cho con người:
“Trời rằng: “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”
Việc nhà thơ thêu dệt nên chuyện “Hầu Trời” hàm chứa một sự thách thức đối với cái nhìn đầy thành kiến về
bậc thang giá trị của con người trong xã hội tôn thờ đồng tiền, coi nhẹ các giá trị tinh thần. Cái ngơng của Tản
Đà có nhiều điểm tương đồng với cái ngông của Nguyễn Công Trứ trong bài “Bài ca ngất ngưởng” Nguyễn
Công Trứ cũng ý thức rất cao về tài năng của bản thân, dám nói giọng bơng lơn về những đối tượng như Trời,
Tiên, Bụt… và dám khẳng định“cái tơi cá nhân”vượt ra ngồi khn khổ của ln lý, đạo đức Nho giáo. Điểm
khác biệt giữa hai người là Nguyễn Công Trứ tuy ngất ngưỡng tột bật nhưng vẫn giữ : “Nghĩa vua tơi cho vẹn
đạo sơ chung”, cịn Tản Đà lại khơng coi đó là chuyện hệ trọng, ông căn bản không mảy may để ý tới.
Với giọng điệu tương đối tự do, linh hoạt, cách biểu hiện cảm xúc của tác giả trở nên phóng túng, tự do, không
17



Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
bị gò ép. Đây cũng chính là một cách tốt nhất để tác giả có thể thể hiện cái ngơng và cá tính của mình.



Giọng thương cảm, ưu ái:

Ngồi cái ngơng đặc trưng trong giọng điệu, thơ Tản Đà còn mang giọng điệu thương cảm, ưu ái rất nhẹ nhàng,
êm dịu, có khi cịn mang chút sầu não. Ông thương cảm cho xã hội, thương cảm cho con người ở cái xã hội này,
thương cảm cho những thứ tốt đẹp bị những thứ nhơ nhớp, xấu xa sốn ngơi, vùi lấp, hơn nữa, ơng cịn thương
cảm cho chính bản thân mình khi nhận thấy được thời cuộc trước mắt.
Sự thương cảm, ưu ái này cũng như giọng điệu ngông nghênh, đã trở thành đặc trưng của ông, xuất hiện trong
hầu hết những bài thơ của ông, đặc biệt là trong bài thơ “Muốn làm thằng Cuội”.
Nếu ở phần trên ngông nghênh của nhà thơ khi đề nghị lên cung trăng chơi với chị Hằng, thì ngồi cái ngơng đó
trong bài thơ này chỉ là một phần nhỏ, chỉ như giọng điệu bình thường của Tản Đà, đáng chú ý hơn chính là
giọng điệu đầy thương cảm của nhà thơ trong bài.
Vừa mở đầu bài thơ, Tản Đà đã buông ra một câu cảm thán nhấn mạnh sự buồn bã:
“ Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nữa rồi.”
Hai chữ “buồn lắm” thật chân thành, đến độ người đọc có thể cảm thấy bản thân cũng bị cái buồn của thi sĩ lây
sang và cũng cảm thông được rằng chắc phải buồn lắm nên thi sĩ mới "muốn làm thằng Cuội”. Cái buồn ở đây
của nhà thơ không phải là vô cớ, mà nó là cái buồn đời, buồn chán cuộc đời tối tăm, đen bạc, đảo điên. Khơng ít
lần Tản Đà kêu chán đời:
"”Đời đáng trách biết thôi là đủ,
Sự chán đời xin nhủ lại tri âm",
Hay
"”Gió gió mưa mưa đã chán phèo,
Sự đời nghĩ đến lại buồn teo”

Sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến những năm đầu thế kỉ XX, trong cái khơng khí tù hãm, u uất của
dân tộc thì nỗi buồn thời đại là khơng thể khơng có, nhất là đối với một thi nhân nhạy cảm. Bế tắc trước thực tại
cuộc đời, từ đó mà sinh ra chán nản, bất mãn đối với thời cuộc.Cái buồn của Tản Đà cũng bắt nguồn từ đấy. Và
thế là thi sĩ tìm lối thốt bằng cách thốt li khỏi cuộc sống hiện tại và tìm tới một thế giới khác:
“Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi”
Ngông thực chất là một thái độ ứng xử đối với cuộc đời, một biểu hiện khác của sự chán ngán, bất mãn với thời
cuộc. Phải là một người yêu lắm, tha thiết lắm với cuộc sống thì mới buồn chán đến bất hịa trước cuộc đời đang
rối ren, đen tối như thế.

18


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
“Có bầu có bạn, cùng tri kỷ
Cùng gió cùng mây, thế mới vui.”
Vốn đa tình đa cảm nên thi nhân ln ln khát vọng có được người tri kỉ, mà cõi trần thì "”Chung quanh
những đá cùng cây/ Biết người tri kỉ nơi đâu mà tìm". Khát vọng lên trên, lánh đời ở đây thực ra là một cách
bộc lộ khao khát đồng cảm, tri âm trong cuộc đời của Tản Đà:
“Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười”
Chữ cười ở cuối bài thơ làm cho người ta suy nghĩ nhiều. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi thực hiện
được ước vọng thoát tục của mình. Cái cườii này cịn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những
sầu khổ, cô đơn. Cái cười đầy thách thức với thời cuộc nhưng cũng ẩn chứa đầy trong đó nỗi thương cảm xót xa
của tác giả đối với con người.
Hay trong bài thơ Hầu Trời Tản Đà đã vẽ ra một bức tranh hiện thực trần trụi, nghiệt ngã về nghề văn bằng
ngôn ngữ đời thường. Đó là cảnh sống nghèo khổ: “Trần gian thước đất cũng khơng có”. Thi sĩ đành phải mưu
sinh bằng công việc viết văn, làm thơ mà vốn liếng chẳng có gì ngồi ngịi bút: “Giấy người mực người thuê
người in/ Mướn cửa hàng người bán phường phố”.
Người nghệ sĩ phải cam chịu cảnh:

“Văn chương hạ giới rẻ như bèo,
Kiếm được đồng lãi thực rất khó,
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều,
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng”
Những câu thơ ấy thật khiến cho người ta đau lòng, đau lòng cho xã hội, đau lòng cho con người. Ở trong cái xã
hội ấy, người ta phải đem những thứ thanh cao, nho nhã mà người ta tôn trọng nhất ra bán, đem thơ văn thi vị
nhuốm đầy những lấm lem của bụi trần tầm thường. Nhưng không được người đời coi trọng, phải cam chịu
cảnh bán những thứ quý giá với giá “rẻ như bèo”.
Rồi ông lại vẽ tiếp cái cảnh bí bách, túng quẫn đến tận cùng của mình:
“Hơm qua chửa có tiền nhà,
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào.
Đi ra rồi lại đi vào,
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ.”
Thi sĩ bỗng giống như một lái buôn tầm thường, khi làm thơ bây giờ khơng cịn là hứng chí mà làm, khơng cịn
là tự nguyện hay tức cảnh sinh tình, mà làm thơ bây giờ giống như một công việc hằng ngày bắt buộc phải làm,
một công việc kiếm ra tiền nuôi sống bản thân bình thường như bao cơng việc khác.
Chua chát làm sao khi nhà thơ nhận ra được cái nỗi bất hạnh đó, nhưng cứ mãi bị nó quấn chặt lấy khơng cách
nào thốt ra được. Đây cũng là nỗi buồn thời cuộc chung của các nhà thơ. Tản Đà đã thành công khi dùng giọng
điệu thương cảm, ưu ái kết hợp với giọng điệu ngơng nghênh phóng túng của mình để vẽ nên một bức tranh xã
hội sống động, thể hiện được nỗi niềm của bản thân cũng như của xã hội.
19


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà

2.3.3. Thể loại thơ ca Tản Đà
Thơ Tản Đà làm theo thể thơ cổ phong, Đường luật, đường luật phá thể, lục bát, song thất lục bát. Tản Đà là nhà
cách tân táo bạo khi ông mạnh dạng nêu lên một cái mới, cái phá cách dựa trên những nét vốn có của dân gian.
Kết hợp với nhiều thể thơ để cho ra đời những câu thơ, bài thơ đặc sắc, độc đáo về hình thức như Tống biệt,
Cảm thu tiễn thu…Thế nhưng, thành công đáng chú ý nhất là áp dụng thành tựu của văn học dân gian về thể

loại. Ngoài ra lĩnh vực ca trù hay hát nói cũng là thể loại nổi bật trong sáng tác của ông.
Tản Đà đã rất chú ý khai thác các làn điệu xẩm, lý, chèo, ca cổ, các thể loại dân ca ở miền Bắc lẫn miền Trung.
Sự am hiểu dân ca làm cho Tản Đà viết phong thi và ca khúc đạt trình độ nghệ thuật rất cao, rất nhiều những bài
ca dao của Tản Đà trở thành tác phẩm văn học dân gian được mọi người đón nhận và lưu hành rộng rãi trong
quần chúng nhân dân.

III.

KẾT LUẬN

Hơn nửa thế kỷ sau khi Hoài Thanh “cung chiêu anh hồn Tản Đà” làm người mở đầu cho “một cuộc hịa nhạc
tân kỳ”, vị trí là đại diện thơ ca quan trọng trước năm 1932 của Tản Đà khơng cịn gì phải bàn cãi. Thơ ca trở
thành bộ phận được khảo sát cặn kẽ nhất trong tổng thể di sản văn chương của ông. Và những giá trị nghệ thuật
nổi lên theo đúng quy luật của nó.
Tản Đà đã một mình làm được “cơn gió lạ”. Nối dài một truyền thống sáng tạo, ông đã đem lại cho văn học Việt
Nam thời cận đại hàng loạt những sáng tác mẫu mực. Đóng góp lớn nhất của ông là việc thể hiện con người cá
nhân, khẳng định ý thức cá nhân một cách mạnh mẽ, táo bạo.
Thơ nói riêng và văn chương Tản Đà nói chung, với những đặc sắc về ngôn ngữ, giọng điệu và hình thức thể
loại… được thể hiện trong cái tơi trữ tình riêng có của nền văn học giao thời. Và cũng từ đó tạo điều kiện cho
các nhà thơ mới “xích lại” gần với Tản Đà hơn, từ bỏ quan niệm sai lệch về ơng và coi trọng những đóng góp
nghệ thuật của ơng. Điển hình người chịu ảnh hưởng sâu sắc từ ơng là Nguyễn Cơng Hoan, học trị của Tản Đà,
với tác phẩm “Kiếp hồng nhan” nhưng lại mang những nét riêng có, khơng lẫn vào đâu được, chính cậu học trị
của ơng cũng đã ươm mầm, ấp ủ một tài nghệ mới.
Thơ ông xứng đáng là cái gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại. Ơng đã tìm được
hướng đi đúng đắn để khẳng định mình giữa lúc thơ phú nhà nho đang dần tới hồi chấm hết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1)
Bài thuyết trình “Chất ca dao trong thơ Tản Đà”
2)
Bài thuyết trình “Những cách tân nghệ thuật trong thơ Tản Đà”

3)
Phê bình văn học- Quá trình cách tân và những giới hạn trong sự nghiệp sáng tác văn xuôi của Tản Đà
Nguyễn Khắc Hiếu
4)
Vanthoviet.com- Cái tôi độc đáo của Tản Đà trong bài Hầu Trời
5)
"Tuyển tập Tản Đà" qua con mắt của các Nhà nghiên cứu
6)
Luận văn sư phạm ngữ văn cảm hứng thế sự trong văn thơ tản đà
20


Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà
7)
8)
9)
10)

Gánh thơ lên bán chợ Trời (Học Văn – Văn học)
Tản Đà - Người mở đầu thơ Việt Nam hiện đại (Kiều Thu Hoạch)
Trang thơ Tản Đà – Thi viện
Tản Đà - nhà thơ giao thời với cái tôi sầu mộng - Trần Văn Tồn (Thư Viện Ngữ Văn Ngơ Quang Hớn)

MỤC LỤC:
I.

MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................1

II.


NỘI DUNG.................................................................................................................................1

1.

Tản Đà – tác gia tiêu biểu của văn học giao thời...................................................................1

1.1.

Cuộc đời................................................................................................................................1

1.2.

Sự nghiệp sáng tác của Tản Đà.........................................................................................2

2.

Nghệ thuật trong thơ ca Tản Đà..............................................................................................4

2.1.

Quan niệm về nghệ thuật của Tản Đà............................................................................4

2.2.

Cái tơi trữ tình trong thơ Tản Đà – sản phẩm độc đáo của văn học giao thời..........6

2.2.1.

Cái “ngông”..................................................................................................................6


2.2.2.

Cái “đa tình”................................................................................................................9

2.2.3.

Cái “thú”....................................................................................................................12

2.2.4.

Cái “sầu mộng”...........................................................................................................14

2.3.

Những cách tân về phương thức thể hiện.....................................................................18

2.3.1.

Ngôn ngữ thơ ca Tản Đà..........................................................................................18

2.3.2.

Giọng điệu thơ ca Tản Đà........................................................................................21

2.3.3.

Thể loại thơ ca Tản Đà.............................................................................................26

III.


KẾT LUẬN............................................................................................................................27

21



×