Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.46 KB, 20 trang )

Lời mở đầu
Kinh tế tư nhân không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế
của hầu hết các quốc gia mà còn trở thành một lực lượng kinh tế có ý nghĩa
chính trị toàn cầu. Ở Việt Nam kinh tế tư nhân càng có vai trò quan trọng
trong việc hình thành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát
triển kinh tế cũng có nghĩa là bảo tồn tính đa dạng phong phú của đời sống
kinh tế, xem nó như nguồn gốc của sự phát triển .
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
vấn đề phát triển kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu cầu tất
yếu đối với nền kinh tế kinh Việt Nam. Kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã trải
qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau nhưng nó có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân của nước ta. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế
việt Nam sang kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước Việt Nam đã ban hành
nhiều chủ trương chính sách để phất triển các thành phần kinh tế trong đó có
nền kinh tế. Đối với nước ta kinh tế là thành phần kinh tế non trẻ của nước ta
đang phải đối diện với nhiều thách thức, khó khăn. Có nhiều khó khăn, chính
sách, môi trường đầu tư và cách thức tổ chức quản lý của nhà nước và xã hội
đang là trở ngại cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế.
Thành phần kinh tế ở Việt Nam từ khi hình thành và phát triển đến nay
đã có rất nhiều đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam
đang đứng trước thời cơ của công cuộc CNH, HĐH phấn đấu thành một nước
có nền kính tế phát triển trong khu vực và trên thế giới chính vì thế chúng ta
đang xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế đóng một vai trò
quan trọng. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam còn nhiều hạn chế, để xây
dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế như một động lực phát
triển cơ bản là một hướng đi đúng đắn. Kinh tế tư nhân Việt Nam đã phát
triển và có vai trò quan trọng tronng kinh tế của nước ta nhưng vẫn còn nhiều
hạn chế chưa được phát triển xứng với tiềm năng vốn có của nó. Chính vì vậy
em đã chọn đế tài : “Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
Tuy nhiên do thời gian có hạn và nguồn tài liệu ít nên không tránh khỏi


những hạn chế thiếu sót mong cô giáo hướng dẫn em thêm .
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn cùng
các bạn đã giúp đỡ em trong qúa trình làm đề án.

1
I, LÍ LUẬN CHUNG.
1.Quan niệm về kinh tế.
Một trong những nội dung có tầm quan trọng hàng đầu trong đường lối
đổi mới của Đảng là phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế.
Đại hội IX đã khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là một trong sáu thành plhần
kinh tế của nước ta. Đây cũng là đặc trưng quan trọng của cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì không có kinh tế nhà nước sẽ không có
định hướng xã hội chủ nghĩa, không có nền kinh tế sẽ không có nền kinh tế
thị trường.
Tuy nhiên cho đến nay, chưa có một cơ quan chính trị nào, một cơ quan
chức năng nào xác định như thế nào là tư bản tư nhân. Ngay cả Tổng cục thốn
kê- một cơ quan chức năng “ lượng hoá” các khái niệm, các chỉ tiêu, tính
toán- cũng chỉ được gửi đến các đơn vị trong nghành khi phân loại thành
phần kinh tế trong thống kê. theo quy định này : kinh tế bao gồm các doanh
nghiệp kinh tế, công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân, công ty cổ phần( mà tư
nhân chiếm 51%số vốn trở lên), công ty hợp danh tư nhân.
Các thành phần kinh tế ở nước ta là thành phần kinh tế cá thể , tiểu chủ
và thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa
trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của người lao động.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà xuất kinh doanh dựa trên cơ
sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột người
làm thuê.
Các loại hình tổ chức kinh doanh cơ bản.
-Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh

nghiệp.
-Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp có không quá 50

thành
viên góp vốn thành lập công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty bằng tài sản của minh.
Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công
ty được chia thành nhiều thành phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu
cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
2
cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Phần góp vốn của các thành viên
trong công ty được thể hiện bằng hình thức cổ phiếu.
Công ty hợp danh được pháp luật ghi nhận là một hình thức của công ty
đối nhân, trong đó ít nhất 2 thành viên đều là cá nhân hay thương nhân cùng
tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung hay hội danh và cùng
liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty.
2. Đặc điểm về kinh tế ở nước ta hiện nay.
2.1. Đặc điểm của kinh tế tư nhân.
Một là, kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích cá nhân, động lực thúc đẩy xã
hội phát triến. Sự tồn tại của loài người từ trước tới nay đã chứng minh rằng
lợi ích của mỗi cá nhân là động lực trước hết và chủ yếu thúc đẩy xã họi phát
triển. Nền kinh tế thị trường tồn tại chủ yếu dựa trên lợi ích cá nhân, tôn trọng
lợi ích cá nhân. sự hội sinh và phát triển của nền kinh tế tư nhân trong những
năm đổi mới vừa qua chính là nhờ đã kết hợp đúng lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội trong quá trình sản xuất , do đó đã tạo ra động lực quan trọng thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hai là, kinh tế tư nhân mà tiêu biểu là doanh nghiệp của tư nhân là mô
hình tổ chức kinh doanh của nền sản xuất hàng hoá ở giai đoạn cao. Kinh tế
thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Trong đó cơ chế
thị trường chủ yếu là dựa trên quy mô hình tổ chức doanh nghiệp có mục tiêu

cao nhất và cuối cùng tạo ra giá trị thặng dư.
Ba là, kinh tế tư nhân là nền tảng của kinh tế thị trường. Kinh té thị
trường là cách thức tốt nhất và duy nhất để một nền kinh tế thị trường vận
hành có hiệu quả cao.
Tóm lại sự tự do tham gia kinh doanh của kinh tế tư nhân mà chủ yếu là
các doanh nghiệp vào bất kỳ lĩnh vực sản xuất nào cũng là cơ sở của kinh té
thị trường ở đó có sự cạnh tranh của những người bán và những người mua.
Đó chính là động lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
2.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay.
2.2.1 Kinh tế tư nhân ở nước ta đang tồn tại và phát triển trong những
điều kiện chủ yếu sau:
Kinh tế tư nhân được phục hồi và phát triển nhờ công cuộc đổi mới do
Đảng khởi xướngvà lãnh đạo.
3
Kinh tế tư nhân hình thành và phát ttiển có nhà nước xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Kinh tế tư nhân ở nướ ta ra đời trong điều kiện quan hệ sản xuất thống trị
trong xã hội không phải là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế tư nhân ở nước ta ra đời và phát triển ở một nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội từ một nền kinh tế chậm phát triển, trong bối cảnh thực hiện
công nghiệp hoá hiện đại hóa, giải phóng sức lao động.
2.2.2 Kinh tế tư nhân ở nước ta có đặc điểm khác về bản chất so với kinh
tế ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay điều đó thể hiện ở chỗ:
Kinh tế ở nước ta là kết quả của chính sách phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Kinh tế ở nứơc ta phát triển theo định hướng mà Đảng Cộng Sản Việt
Nam để ra thông qua hệ thống các chính sách, pháp luật của Nhà Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kinh tế tư nhân ở nước ta ngay từ khi mới ra đời đã mang trong mình

những yếu tố có tính xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân ở nước ta cũng góp
phần tăng cường khối đoàn kết dân tộc, gắn kết các giai tầng xã hội vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
2.2.3 Mối quan hệ trực tiếp giữa chủ doanh nghiệp của kinh tế với công
nhân, người lao động trong từng doanh nghiệp không còn không còn là quan
hệ đối kháng, không hoàn toàn là quan hệ chủ thợ, quan hệ giữa một bên là
người làm thuê, bị bóc lột, bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất như trước đây nữa
mà mang tính chất hợp tác.
2.2.4 Sự phát triển của kinh tế góp phần tăng tính cộng đồng dân tộc, yếu
tố dân tộc, hình ảnh của dân tộc trong cộng đồng quốc tế. Sự mở rộng của các
loại sản phẩm mang thương hiệu việt trên thị trường thế giới là một minh
chứng nhằm tăng cường hình ảnh Việt Nam ,yếu tố Việt Nam trong tiến hành
hội nhập kinh tê quốc tế.
2.2.5.Đặc điểm về sở hữu:
Thành phần này tồn tại gắn với sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Chính vì thế kinh tế tư nhân có thời kì bị coi là biểu hiện của chủ nghĩa
tư bản nên có thời gian nó đã bị cấm tồn tại ở nước ta
4
3. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của kinh tế
trong nền kinh tế thị trường
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã mô tả một cách đầy đủ và
toàn diện về sự xuất hiện của sở hữu tư nhân đã khẳng định: chế độ sở hữu tư
nhân ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của lực lượng sản xuất
và phân công lao động xã hội và là cơ sở làm nảy sinh, tồn tại và phát triển
của kinh tế tư nhân. Sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư nhân
trong lịch sử đã chứng minh nó là một động lực cá nhân, thuộc tính tồn tại
lâu đời của con người và xã hội loài người.
Thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta là thời kì đấu tranh giữa
những cái cũ và cái mới, những cái nào có nhiều ưu điểm hơn thì tồn tại . Nền
kinh tế của nước ta vốn dĩ không đồng đều vế tính chất và trình độ sản xuất

của lực lượng sản xuất và theo yêu cầu của quy luật thị trường thì phải có sự
đa dạng về hình thức của quan hệ sản xuất. Kinh tế tư nhân là một trong số
những thành phần kinh tế cần phải phát triển mạnh hơn nữa để xây dựng nền
kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nên một trong những khuyết tật của nó là nạn thất
nghiệp. Thực tế kinh tế tư nhân đã góp phần lớn vào giải quyết nạn thất
nghiệp ở nước ta tạo ra sự ổn định trong tăng trưởng kinh tế.
Sự tồn tại của kinh tế tư nhân đã có tác dụng lớn đối với nền kinh tế
nhiều thành phần để giải phóng mọi năng lực sản xuất và khai thác các tiềm
năng kinh tế của đất nước, thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, đẩy nhanh
quá trình phát triển và hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta.
II. THỰC TRẠNG KINH TẾ VIỆT NAM.
1. Tiến trình phát triển
1.1. Thời kì trước đổi mới (trước năm 1986).
Trong thời kì phát triển của đất nước được coi như là cao trào của quá
trình quốc hữu hoá và hợp tác hoá, kinh tế hầu như không tồn tại. Trong công
cuộc phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất được thực hiện trên phạm
vi cả nước. Kế hoạch 5 năm 1976-1980 ngoài nhiệm vụ khắc phục hậu quả
chíên tranh, tiến hành cải tạo kinh tế xã hội theo mô hình chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế tư nhân vẫn tồn tại nhưng với một lượng rất nhỏ ; trong công nghiêp
5
vẫn còn có trên dưới 60 vạn người sản xuất cá thể năm 1980 :50,3 vạn , năm
1981:55,1 vạn, năm 1983 :66,6 vạn, năm 1984 :64 vạn, năm 1985 : 59,3 van.
Số lượng hoạt động trong kinh tế vẫn chiếm trên 20% tổng số lao động
ngành công nghiệp, năm 1980 :22,3% năm 1984 :26% năm1985 :23%
năm1986 :23,2%.
Giá trị sản lượng công ngiệp do khu vực kinh tế tạo ra hạng năm chiếm
trên dưới 15% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp.
Những người kinh doanh thương nghiệp những năm 1980 cũng ở mức 60

vạn, năm 1982 :63,7 vạn, năm 1985 :63,7 vạn, năm 1986 : 56,8 vạn.
Đó là những số liệu cho thấy sức sống của kinh tế cá thể rất bền bỉ, sự
hiện diện của thành phần kinh tế này trong suốt thời gian dài như một tất yếu
khách quan. Tuy bị kìm hãm, trong những điều kiện khó khăn nhưng kinh tế
cá thể vẫn tồn tại và ngày càng khẳng định chỗ đứng của mình.
1.2. Thời kì sau đổi mới (sau năm 1986).
Sự phát triển của nền kinh tế đã trải qua một quá trình nhiều biến động,
trong quá trình đó kinh tế có nhiều thăng trầm.Từ đường lối đổi mới ( đại hội
VI của Đảng 12-1986) khẳng định xây dựng, phát triển nền kinh tế nước ta
với cơ cấu nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tồn tại lâu dài.
nghị quyết trung ương khoá VI ghi rõ : chính sách kinh tế nhiều thành plhần
có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xúât nhỏ lên sản xuất lớn
XHCN và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, tư nhân được kinh doanh
không hạn chế trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Nhờ có
chính sách đổi mới kinh tế đựơc thừa nhận và tạo điều kiện phát triển đóng
góp tích cực và phát triển kinh tế của đất nước.
Trong công cuộc đổi mới khu vực kinh tế đã dần khẳng định được vai
trò vị trí của mình.
Trong công nghiệp tư nhân đã mở rộng các cơ sở hiện có, hoặc xây dựng
thêm các cơ sở mới. Năm 1988 khu vực nàyđầu tư thêm 80tỷ đồng, thành lập
thêm 17000 cơ sở, trong đó có 46 xí nghiệp tư nhân, 1100 cơ sở tiểu thủ công
nghiệp và hơn 15000 hộ cá thể. Năm 1989 số vốn đầu tư tăng thêm 102 tỷ
đỗng số xí nghiệp tăng gấp 4 lần so với năm 1988 từ 102 xí nghiệp tăng lên
1284 xí nghiệp , hộ tiểu thủ công nghiệp và cá thể từ 31,85 vạn lên 33,33 vạn
6
tăng4.6%. Trong hai năm1990- 1991 số vốn tăng thêm mỗi năm khoẩng 100
tỷ đồng. Năm 1989 thành phần kinh tế thu hút thềm 39,5 nghìn lao động.
Năm 1990 nước ta ban hành Luật công ty và luật doanh nghiệp, đã tạo
động lực cho khu vực kinh tế tiếp tục phát triển. Năm 1991 so với năm 1990
tăng thêm 4000 cơ sở và lao động tăng thêm 10 nghìn người. Tỷ trọng giá trị

sản lượng công nghiệp khu vực tư nhân, cá thể chiếm trong giá trị tổng sản
lượng toàn nghành công nghiệp tăng khá nhanh năm 1986 là : 15,6% thì đến
năm 1990 là : 26,5%.
Trong thương nghiệp, lao động của thành phần kinh tế phát triển nhanh
chóng: năm19886: 64 vạn người, thì đến năm 1990 đã tăng lên 81,1. ngoài ra
còn có lực lượng thương nghiệp kkhông chuyên tham gia hoạt động, năm1990
có khoảng 16i vạn người.
Trong giao thông vận tải, năm 1990 có 97194 họ tư nhân cá thể làm dịch
vụ vận tải. Tổng số lao động vận tải 138,5 nghìn người. Năm 1990 thực hiện
vận chuyển 16,6 triệu tấn hàng hoá chiếm 36,35% khối lượng vận chuyển
hàng hoá của tất cả các thành phần kinh tế và 165,3 triệu lượt hành khách,
chiếm 28,6 % khối lượng vận chuyển hành khách toàn nghành.
Tỷ trọng doanh số bán hàn hoá và dịch vụ của tư nhân trong tổng mức
bản lẻ hàng hoá dịch vụ tiêu dùng của xã hội ngày càng lớn: năm 1986 :
45,6% thì đến năm 1990: 66,9%, và năm 1991 đạt : 73,1 %.
Sự phát triển của kinh tế vẫn tiếp tục tăng trong những năm 1991-1996,
nhưng trong 2 năm 1997-1998 tốc độ plhát triển kinh tết tư nhân châm lại do
khủng hoảng tài chính khu vực, số hộ kinh doanh cá thể năm 1997 giảm, số
doanh nghiệp năm 1998 giảm.
Năm 1999 Luật doanh nghiệp được quốc hội thông qua và năm 2000 ban
hành Luật doanh nghiệp (thay cho luật công ty và luật doanh nghiệp trước
đây). Đạo luật này đi vào cuộc sống rất nhanh, tạo ra bước ngoặt, đột phá
trong nền kinh tế của nứơc ta đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân từ năm 2000
đến nay. Theo tổng cục thống kê, đến cuối năm 2000 cả nước ta có khoảng
59473 doanh nghiệp tư nhân với số vốn 52000 tỷ đồng, sử dụng tới 60000 lao
động và góp 7,6% GDP. Sự tăng trưởng mạnh mẽ này chủ yếu là do môi
trường kinh tế đã có nhiều chuyển biến tích cực tạo điều kiện cho kinh tế phát
trỉên. luật doanh nghiệp và các nghị định số 57 và 44 có vai trò quan trọng
7
nhất, tạo ra những bước ngoặt phát triển kinh tế. Số doanh nghiệp thành lập

trong vòng một năm sau khi có luật doanh nghiệp năm 2000 tương đương với
số lượng doanh nghiệp của 5 năm trước đây.
2. Đánh giá chung về thực trạng của nền kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1.Thành tựu đạt được.
Khu vực kinh tế đã tồn tại trong vòng 20 năm qua , song nó đã thể hiện
đựơc vị trí của nó trong việc phát triển lực lượng sản xuất của đất nước. Khu
vực kinh tế đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP , huy động vốn của
xã hội, tạo được nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu nhân
sách cho Nhà Nước, sản xuất hàng xuất khẩu, tác động tich cực tới chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cỏ chế quản lý kinh tế, xã hội.
2.1.1 Đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước.
Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nhìn chung tăng trưởng ổn định trong
những năm gần đây. nhịp độ tăng trưởng năm 1999 :7,5% năm 2000: 12,55%
và chiếm tỷ trọng tương đối ổn định trong GDP, tuy năm 2000 có giảm chút ít
so với năm 1996 còn 28,48% năm 1996 còn 26,87% năm 2000. tỷ trọng GDP
giảm đi chút ít do sự tham gia và đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài(FDI).
Vào những năm đầu đổi mới, kinh tê tư nhân hầu như chưa có gì nhưng
đã chiếm 14% trong tổng sản phẩm công nghiệp trong nước(GDP) và
năm1995 và tăng kên 23% vào năm 2003/ trong sản xuất công nghiệp, vị trí
của kinh tế tư nhân còn cao hơn:32% năm 1995 và năm 2003.
Đâu tư toàn xã hội năm 2005 đạt 39% GDP, trong đó mục tiêu đế ra là
30-32% GDP. Tổng mức đầu tư toàn xã hội đạt 326000 tỷ đồng, trong đó đầu
tư nước ngoài chiếm 17% đầu tư tư nhân trong nước chiếm 32%, 49% thuộc
về khu vực ngoài quốc doanh là một tỷ lệ ấn tượng
Dự báo trong năm năm tới nền kinh tế quốc dân sẽ có những bưốc đột
phá : mức đầu tư trong thời gian tới khoảng trên 40% GDP , tổng đầu tư toàn
xã hội 5 năm tới khoảng 130-140tỷ USD. Trong đó, 35% vốn nước ngoài,
65% trong nước, và đặc biệt khu vực tư nhân sẽ có tỷ lệ cao hơn nhiều hiện

nay, phải chiếm 53-54%.
8

×