Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bài giảng dược học cổ truyền - Nắm rõ thuốc đông dược

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.32 KB, 16 trang )

Sự quy kinh của thuốc
Quy kinh là tác dụng đặc biệt của các vị thuốc đối với các bộ phận khác nhau
của cơ thể, tuy về tính năng dược vật (khí, vị, bổ, tả) có thể giống nhau, nhưng tác
dụng chữa bệnh ở các vị trí lại khác nhau. Thí dụ: bệnh nhiệt phải sử dụng thuốc
hàn lương, nhưng nhiệt ở phế, vị, đại tràng… khác nhau, phải sử dụng thuốc khác
nhau.
Sự quy kinh của thuốc căn cứ vào:
1. Trên cơ sở hệ kinh lạc và các trạng phủ để thể hiện sự quy kinh. Quy kinh là
đem tác dụng của vị thuốc quan hệ với: lục phủ ngũ tạng và 12 kinh mạch, nói rõ
tác dụng của vị thuốc đối với bệnh trạng của phủ, tạng, kinh lạc nào đó.
Theo kinh nghiệm thực tế lâm sàng, người xưa đã tổng kết một số các triệu
chứng quy nạp thành hội chứng bệnh của từng kinh lacj, từng tạng phủ, sau đó
nghiên cứu tác dụng của thuốc thấy nó tác dụng vào kinh lạc, tạng phủ nào.
Thí dụ: Cát cánh, Hạnh nhân chữa chứng ho hen thuộc bệnh của phế: Táo nhân
vào tâm kinh vì nó tác dụng an thần: Cương tàm vào can vì chữa co giật.
2. Sự quy kinh lấy lý luận ngũ hành làm cơ sở, đặc biệt là quan hệ giữa ngũ
sắc, ngũ vị, ngũ tạng. Như cam thảo màu vàng vị ngọt chữa bệnh ở tỳ và vị: Mang
tiêu mặn và đen vào thận; Chu sa đắng và đỏ vào tâm…
3. Căn cứ vào học thuyết kinh lạc về sự liên quan chặt chẽ giữa các đường
kinh để thể hiện sự quy kinh:
- Sài hồ là vị thuốc chữa bệnh thuộc đởm kinh cũng có tác dụng chữa vào kinh
can (sơ can giải uất, thanh can minh mục) vì can và đởm có quan hệ biểu lý về
đường kinh và tạng phủ.
- Câu đằng là vị thuốc bình can tức phong chữa bệnh ở kinh can, cũng có tác
dụng đến tâm bào lạc vì kinh can và kinh tâm bào lạc cũng là kinh quyết âm.
Trên thực tế lâm sàng, ta thấy một số vị thuốc có nhiều tác dụng khác nhau,
chữa nhiều bệnh khác nhau vì sự quy kinh của nó vào nhiều tạng phủa khác nhau
như hạt Sen có tác dụng cầm ỉa chảy, cầm di tinh, an thần vì vào kinh tỳ, thận,
tâm. Ơ mai vồ kinh phế, tỳ, can nên có tác dụng chữa ho, cầm ỉa chảy, chưa đau
bụng giun. Có những vị thuốc vào cả 12 kinh như Cam thảo nên việc dùng rất



rộng rãi và phổ biến (trong sách Thương hàn luận có 250 bài thuốc thì 120 bài có
Cam thảo).
Khi nghiên cứu tác dụng của thuốc, nắm được sự quy kinh có thể giúp cho sự
vận dụng tổng hợp các vị thuốc được chính xác, giải thích được sự phối hợp của
các vị thuốc mà bản thân chúng nằm ở các chương khác nhau. Thí dụ: Bạch
thược, Sài hồ hay phối hợp với nhau vì chúng đều quy vào kinh can (Sài hồ là
thuốc giải biểu, Bạch thược là thuốc bổ âm).
VI. Sự phối hợp giữa các vị thuốc
Phối ngũ là việc sử dụng hai vị thuốc trở lên, nó là cơ sở cho việc tạo thành các
bài thuốc dùng trên lâm sàng.
Mục đích của sự phối ngũ các vị thuốc là để phát huy hiệu lực chữa bệnh, hạn
chế tác dụng xấu của vị thuốc, mặt khác để thích ứng với những chứng hậu bao
gồm nhiều triệu chứng phức tạp trong q trình bệnh tật.
Có mấy loại phối ngũ sau đây:
- Tương tu: 2 thứ thuốc cùng một tác dụng hỗ trợ kết quả cho nhau
- Tương sử: 2 vị thuốc trở lên dùng chung, một thứ là chính một thứ là phụ để
nâng cao hiệu quả chữa bệnh.
Tương tu và tương sử là hai loại phối ngũ thường thấy nhất
- Tương uý:khi một thứ thuốc có tác dụng xấu dùng chung với một vị khác để
chế ngự: Thí dụ: Bán hạ sống gây ngứa dùng với Gừng cho hết ngứa.
- Tương sát:một vị thuốc có độc, dùng với một vị khác để tiêu trừ độc tính trở lên
khơng độc.
Tương uý và tương sát là sự phối ngũ thường thấy đối với các thuốc độc.
- Tương ố:hai thứ thuốc dùng chung với nhau sẽ làm giảm hoặc làm mất hiệu lực
của nhau như Hoàng cầm vơi Sinh khương.
- Tương phản: một số ít thuốc đem phối ngũ gây tác dụng độc thêm, như Ô dầu
với Bán hạ.
Tương ố và tương phản là sự phân phối ngũ nói trên sự cấm kỵ trong khi thuốc
dùng.

- Ngồi ra cịn lối dùng đơn độc một vị thuốcmà tác dụng như Độc sâm thang
(có một vị Nhân sâm).


Bảy loại phối ngũ này YHCT gọi là thất tình hoà hợp.
VII. Sự cấm kỵ trong khi dùng thuốc
7.1. Những vị thuốc cấm kỵ khi có thai
a. Loại cấm dùng: Ba đậu (tả hạ), Khiên ngưu, Đại kích, Thương lục (trục thuỷ):
Tam thất (hoạt huyết); Sạ hương (phá khí); Nga truật, Thuỷ diệt, Manh trùng (phá
huyết). Các vị thuốc trên có tác dụng trục thuỷ, tả hạ, phá khí, phá huyết.
b. Loại dùng thận trọng: Đào nhân, Hồng hoa (hoạt huyết); Bán hạ, Đại hồng
(tả hạ): Chỉ thực (phá khí); Phụ tử, Can khương, Nhục quế (đại nhiệt). Các vị
thuốc trên có tác dụng phá khí, tả hạ, hoạt huyết, đại nhiệt.
7.2. Các vị thuốc tương phản lẫn nhau
- Cam thảo chống: Cam toại, Nguyên hoa, Hải tảo
- Ô dầu phản: Bối mẫu, Bán hạ, Bạch cập, Bạch liễm.
- Lê lô phản: các loại Sâm, Tế tân, Bạch thược
7.3. Cấm kỵ trong khu uống thuốc
Cam thảo, Hoàng liên, Cát cánh, Ô mai kiêng ăn thịt lợn: Bạc hà kiêng Ba ba;
Phục linh kiêng gấm.
Khi ăn uống chú ý không nên dùng các thức ăn chống lại tác dụng của thuốc.
Thí dụ: dùng thuốc ơn trung trừ hàn (nóng ấm) khơng ăn các đồ ăn lạnh; dùng
các thuốc kiện tỳ, tiêu đạo khơng nên ăn chất béo, chất khó tiêm dùng thuốc an
thần khơng nên ăn chất kích thích.
Đại cương Đơng dược
1,Định nghĩa:
Thuốc cổ truyền là một vị thuốc sống hoặc chín hay một chế phẩm thuốc được
phối ngũ lập phương và bào chế theo phương pháp của y học cổ truyền từ một hay
nhiều vị thuốc có nguồn gốc thực vật, động vật, khống vật có tác dụng chữa bệnh
hoặc có lợi cho sức khoẻ con người.

Một số khái niệm có liên quan đến thuốc cổ truyền:
- Thuốc cổ phương: là thuốc được sử dụng đúng như sách vở cổ ( cũ) đã ghi về số
vị thuốc, lượng từng vị, cách chế, liều dùng, cách dùng và chỉ định của thuốc.


- Cổ phương gia giảm là thuốc có cấu trúc khác với cổ phương về số vị thuốc,
lượng từng vị, cách chế , cách dùng, liều dùng theo biện chứng của thày thuốc,
trong đó cổ phương vẫn là cơ bản ( hạnh tâm ).
- Thuốc gia truyền: là những môn thuốc, bài thuốc trị một chứng bệnh nhất định
có hiệu quả và nổi tiếng một vùng, một địa phương, được sản xuất lưu truyền lâu
đời trong gia đình.
- Tân phương: là thuốc có cấu trúc khác hồn tồn với cổ phương về số vị thuốc,
lượng từng vị, dạng thuốc, cách dùng, chỉ định.
2.Tính năng dược vật:
Tính năng dược vật là tác dụng dược lý của vị thuốc để điều chỉnh lại sự mất
thăng bằng về âm dương trong cơ thể
Tính năng của một vị thuốc bao gồm : khí, vị, thăng , giáng, phù , trầm và bổ tả.
2.1. Tứ khí
Thuốc cổ truyền có tứ khí ( bốn khí) , cịn gọi là tứ tính , đó là hàn, lương , ơn ,
nhiệ t. Bốn loại tính chất này do sự phản ứng của cơ thể khi dùng thuốc mà nhận
thấy.
Hàn , lương thuộc âm , những vị thuốc hàn , lương cịn gọi là âm dược. Ơn, nhiệt
thuộc dương , những vị thuốc ơn , nhiệt cịn gọi là dương dược. Ơ giữa mức độ
hàn lương, ơn nhiệt cịn có tính bình. Tính của vị thuốc tồn tại một cách khách
quan và mang tính chất tương đối.
Những vị thuốc có tính hàn hoặc lương được dùng để điều trị những bệnh thuộc
chứng nhiệt.Ví dụ : Thạch cao có tính hàn vì thạch cao có tác dụng đối với bệnh
sốt cao; hồng liên có tính hàn vì hồng liên có tác dụng thanh tâm hoả; miết giáp
có tính hàn vì nó có tác dụng trừ nhiệt phục do thể âm hư ; mạch mơn có tính
lương có tác dụng chữa ho do nhiệt; kim tiền thảo tính lương chữa bàng quang

thấp nhiệt dẫn đến tiểu tiệnvàng, đỏ, buốt , dắt... Tóm lại thuốc có tính hàn lương ,
có tác dụng thanh nhiệt tả hoả, lương huyết, giải độc , lợi tiểu...
Những vị thuốc có tính nhiệt (nóng) hoặc tính ơn (ấm) được dùng để điều trị
những bệnh thuộc chứng hàn . Ví dụ : quế nhục , phụ tử... có tính nhiệt vì chúng
có tác dụng với các bệnh chứng hàn, hàn nhập lý( quế nhục), thận hư hàn ( phụ
tử). Ma hồng, tía tơ, kinh giới có tính ơn , chữa các bệnh mang triệu chứng hàn ,


song mức độ thấp hơn ( cảm mạo phong hàn) .Tóm lại, các thuốc có tính nhiệt
hoặc ơn, có tác dụng giải cảm hàn, phát hãn , thông kinh , thông mạch hoạt huyết ,
giảm đau , hồi dương cứu nghịch...
Các vị thuốc có tính bình trên thực tế chúng có tác dụng lợi thấp , lợi tiểu , hạ khí,
long đờm , bổ tỳ vị ; ví dụ: hồi sơn, cam thảo, bạch cương tằm, tỳ giải , kim tiền
thảo, râu ngô...
2.2.Ngũ vị
Thông qua vị giác mà nhận thấy vị: Cay( tân), chua (toan), đắng ( khổ), ngọt
(cam), mặn( hàm). Ngồi ra, thực tế cịn có vị nhạt( đạm) và vị chát. Mỗi dược
liệu được đặc trưng bởi một hoặc nhiều vị do cảm giác của lưỡi đem lại ; có thể
chỉ có một vị đắng như hồng cầm , hồng bá , xun tâm liên ; có thể có hai vị
vừa đắng vừa ngọt như địa cốt bì , thảo quyết minh ; hoặc vừa đắng lại vừa cay
như cát cánh ; hoặc vừa cay lại vừa mặn như tạo giác; hoặc cay và chua như ngư
tinh thảo . Cũng có khi có ba vị như tê giác : đắng , chua, mặn. Cá biệt có tới năm
vị như ngũ vị tử: chua, cay, đắng , mặn , ngọt.
2.2.1. Vị cay
Có tính chất phát tán , giải biểu , phát hãn , hành khí , hành huyết , giảm đau, khai
khiêú.Thường dùng vị cay trong các bệnh cảm mạo, các bệnh đầy bụng, trướng
bụng, đau bụng, dùng thuốc cay với tính chất khử hàn ơn trung chỉ thống: chữa
đau răng, đau buốt cơ nhục...
Trên thực tế có một ít vị thuốc thực chất khi nhấm không thấy vị cay, song do có
tác dụng phát hãn nên cũng được coi như có vị cay như vị cát căn

2.2.2.Vị ngọt
Có tác dụng hồ hỗn, giải co quắp của cơ nhục, tác dụng nhuận tràng, làm cho cơ
thể tỉnh táo và bồi bổ cơ thể. Ví dụ: mật ong, cam thảo , di đường, cam giá...
2.2.3. Vị đắng
Có ở rất nhiều vị thuốc . Nói chung đắng có tác dụng tương đối mạnh . Mức độ
đắng của vị thuốc có thể từ đắng nhẹ như nhân sâm, tam thất; đến rất đắng như
xuyên tâm liên, long đởm thảo.
Vị đắng có tác dụng thanh nhiệt ( thanh nhiệt tả hoả và thanh nhiệt táo thấp ),
chống viêm nhiễm , sát khuẩn, chữa mụn nhọt hoặc rắn độc cơn trùng cắn . Ngồi


ra vị đắng cịn có tác dụng độc với cơ thể( đương nhiên còn phụ thuộc vào liều
lượng dùng). Các thuốc có tính độc thường có vị đắng . Các thuốc có vị đắng
dùng lâu thường gây táo cho cơ thể ; trước hết ảnh hưởng xấu tới thần kinh vị giác
làm cho ăn uống khơng biết ngon; kích thích lên niêm mạc dạ dày , ruột ( đặc biệt
lúc đói) tạo ra cảm giác buồn nơn khó chịu . Nhiều vị thuốc sau khi chế biến trở
nên đắng như đởm nam tinh. Sau khi sao tồn tính hoặc sao cháy , vị thuốc thường
trở nên đắng nhẹ
2.2.4. Vị chua
Vị chua có tác dụng thu liễm (làm săn da), liễm hãn (giảm ra mồ hôi), cố sáp (làm
chắc chắn lại), chỉ ho, chỉ tả, sát khuẩn, chống thối . Một số thuốc có vị chua như
sơn tra, táo nhục, ơ mai, ngũ vị tử...
Vị chua được quy vào kinh can đởm ; nhiều vị thuốc được tẩm với dấm để dẫn
thuốc vào kinh can
2.2.5. Vị mặn
Vị mặn có tác dụng nhuyễn kiên ( làm mềm khối rắn ), có tác dụng nhuận hạ, tiêu
đờm, tán kết. Thường được sử dụng trong các bệnh loa lịch (bệnh tràng nhạc),
ung nhọt, bướu cổ. Vị mặn cịn có tác dụng dẫn thuốc vào kinh thận.
Nhiều vị thuốc bản thân nó đã mang vị mặn như hải tảo, thạch quyết minh, long
cốt... Nhiều vị thuốc khi dùng phải tẩm trích với muối ăn để có thêm vị mặn như

đỗ trọng, hương phụ, trạch tả... Tuy nhiên đối với từng loại bệnh thận cụ thể phải
có cách trích muối sao cho phù hợp, để tránh tác dụng phụ sau khi dùng.
2.2.6.Vị nhạt
Có tác dụng làm tăng tính thẩm thấp, tăng lợi thuỷ, lợi tiểu, có tác dụng thanh lọc,
thanh nhiệt. Thường dùng các vị thuốc có vị nhạt để chữa các bệnh phù thũng,
ung nhọt, nhiệt độc hoặc cơ thể bị viêm nhiễm , sốt cao hoặc chứng nhiệt trong cơ
thể , các trường hợp tiểu tiện bí dắt, nước tiểu vàng đỏ rất thích hợp với loại vị
này.
Những thuốc vị nhạt thường thể chất nhẹ, màu trắng như bạch mao căn, đăng tâm
thảo, thông thảo, bạch phục linh...
2.2.7.Vị chát


Khi nhấm vị thuốc có vị chát sẽ cho cảm giác se lưỡi ; cũng có tác dụng thu liễm,
cố sáp như vị chua . Tính chất sát khuẩn , chống thối rữa của vị chát mạnh hơn vị
chua. Ngoài ra cịn có tác dụng kiện tỳ , sáp tinh . Thường dùng vị thuốc có vị
chát để điều trị các bệnh tiết tả, di tinh, bỏng, mụn nhọt vỡ lt hoặc lâu liền
miệng. Ví dụ như thạch lựu bì, búp sim, búp ổi, liên nhục, khiếm thực.
2.3. Quan hệ giữa khí và vị
Khí ( tính) và vị của vị thuốc trên thực tế không thể tách rời nhau ; nó quan hệ với
nhau một cách hữu cơ . Ví dụ, các vị thuốc có tính hàn thường vị đắng,
mặn...thuốc có tính nhiệt thường có vị cay; thuốc có tính bình thường có vị nhạt ,
chát...
Chú ý, một số vị thuốc cho nhiều vị khác nhau, ví dụ sơn thù du vừa chát lại vừa
chua, long cốt vừa ngọt lại vừa chát, vì thế khi sắp xếp “vị “ của nó, ta ưu tiên cho
những vị sẽ cho cơng năng rõ hơn lên trên. Ví dụ: ngũ vị tử có 5 vị, song vị chua
được ưu tiên trước nhất, sơn thù du vị chát được xếp ưu tiên vì tác dụng cố sáp
của nó rõ hơn.
2.3.1. Các vị thuốc có tính và vị giống nhau
Các vị thuốc có tính và vị giống nhau thì tác dụng của nó giống nhau hoặc gần

giống nhau. Ví dụ, hồng bá , hồng cầm đều có vị đắng tính hàn, chúng đều có
tác dụng thanh nhiệt, táo thấp , chống viêm, thoái nhiệt. Quế chi, bạch chỉ đều có
vị cay, tính ơn tác dụng của chúng là tán hàn, giải biểu, phát hãn, thông kinh hoạt
lạc, giảm đau.
Do đó trong những trường hợp cần thiết , ta có thể dùng chúng thay thế cho nhau
mà vẫn đạt được những hiệu quả mong muốn . Tuy nhiên trong những trường hợp
cụ thể cũng cần xem xét đến tác dụng đặc thù của từng vị thuốc. Ví dụ: bạch chỉ
tán hàn giải biểu, giảm đau,song cịn có tác dụng bài nùng (làm hết mủ); quế chi
cũng có tác dụng giải biểu , tán hàn, song lại có tác dụng trục ứ huyết thơng kinh
bế, trục thai chết lưu...
2.3.2. Các vị thuốc có tính hoặc vị khác nhau
Các vị thuốc có cùng tính, nhưng khác vị, tác dụng cũng khác nhau. Ví dụ, hồng
liên, sinh địa cùng tính hàn, nhưng hồng liên vị đắng, sinh địa đắng nhẹ, ngọt.


Hồng liên có tác dụng táo thấp ; sinh địa có tác dụng tư âm , lương huyết, sinh
tân, chỉ khát.
Các vị thuốc có cùng vị, nhưng khác tính, tác dụng cũng khác nhau.Ví dụ, bạc hà
vị cay , tính lương có tác dụng giải cảm nhiệt ; tơ diệp vị cay, tính ơn có tác dụng
giải cảm hàn. Hoặc thạch cao vị cay, tính hàn tác dụng thanh nhiệt, hạ hoả ; sa
nhân vị cay, tính ơn tác dụng hành khí, giảm đau kiện tỳ, hố thấp.
2.3.3. Các vị thuốc có tính và vị khác hẳn nhau
Các vị thuốc có tính hoặc vị khác nhau, có tác dụng khác hẳn nhau. Ví dụ, quế
nhục vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, có tác dụng khử hàn ơn trung. Hồng liên vị
đắng, tính hàn, tác dụng thanh nhiệt táo thấp. Ơ mai vị chua, tính ấm, có tác dụng
thu liễm, chỉ ho, sinh tân , chỉ khát.
2.3.4. Tính và vị của vị thuốc thay đổi khi tiến hành chế biến bằng các phương
pháp chế của dược cổ truyền.
Tính và vị của vị thuốc thay đổi khi tiến hành chế biến bằng các phương pháp chế
của dược cổ truyền và tác dụng của nó cũng thay đổi . Ví dụ, sinh địa vị đắng ,

tính hàn có tác dụng thanh nhiệt lương huyết . Sau khi chế biến thành thục địa,
tính trở nên ấm, vị trở nên ngọt, có tác dụng bổ huyết. Đỗ trọng vị ngọt, hơi cay
sau khi trích muối, đỗ trọng thêm vị mặn, tăng cường tác dụng bổ can thận. Cam
thảo vị ngọt tính bình, sau trích mật ong tính trở nên ấm hơn, tác dụng kiện vị, chỉ
ho tốt hơn.
2.4. Khuynh hướng thăng, giáng, phù, trầm của vị thuốc
Thăng , giáng , phù , trầm chỉ 4 khuynh hướng tác dụng của thuốc cổ truyền . Cần
nắm chắc các khuynh hướng tác dụng của chúng để phát huy hiệu quả điều trị .
Đa số trong các trường hợp khuynh hướng tác dụng của thuốc luôn ngược với
chiều của bệnh tật thì mới đạt kết quả tốt trong điều trị.
2.4.1.Thăng
Khuynh hướng của khí vị của thuốc hướng lên thượng tiêu , sau khi uống thuốc
vào cơ thể , với mục đích để chữa các bệnh có khuynh hướng sa giáng ( sa dạ dày,
trĩ , sa dạ con...) để đưa các tạng phủ dó về vị trí ngun thuỷ. Các vị thuốc chủ
thăng thường có tính chất kiện tỳ ích khí thăng dương khí như hồng kỳ, đẳng
sâm, thăng ma, sài hồ.


2.4.2. Giáng
Khuynh hướng của khí vị của thuốc hướng xuống hạ tiêu sau khi uống vào cơ thể,
với mục đích để chữa các bệnh có khuynh hướng đi lên thượng tiêu(thượng
nghịch) như bệnh hen suyễn khó thở, ho đờm, nơn mửa... Các vị thuốc chủ giáng
thường có tính chất hạ khí, giáng khí, bình suyễn như ma hồng, hạnh nhân, cát
cánh... (hạ phế khí nghịch), thị đế, bán hạ, phục long can...( hạ vị khí nghịch).
2.4.3.Phù
Khuynh hướng của khí vị của thuốc hướng ra phía ngồi (phía biểu), với mục đích
để chữa các bệnh có xu hướng lấn sâu vào phía trong (phía lý) . Ví dụ các bệnh
cảm mạo phong hàn, cảm mạo phong nhiệt. Các vị thuốc chủ phù thường có tính
chất phát hãn, phát tán giải biểu, hạ nhiệt, chỉ thống. Đó là các vị thuốc tân lương
giải biểu như cát căn, bạc hà, tang diệp, cúc hoa... hoặc các vị thuốc tân ôn giải

biểu như quế chi, bạch chỉ, phòng phong, tế tân...
2.4.4. Trầm
Khuynh hướng của khí vị của thuốc đi vào phía trong (phía lý ) với mục đích để
chữa các bệnh có xu hướng phù nổi ra phía biểu như bệnh đạo hãn, tự hãn, bệnh
phù thũng, bệnh mụn nhọt, ban chẩn dị ứng, mẩn ngứa. Đó là các vị thuốc thẩm
thấp lợi niệu như kim tiền thảo, sa tiền tử, tỳ giải... hoặc thuốc tả hạ như đại
hồng, mang tiêu, trầm hương, tơ mộc... hoặc thuốc thanh nhiệt, giải độc như liên
kiều, kim ngân, bồ cơng anh.
Mỗi vị thuốc đều có khuynh hướng tác dụng của nó, song khơng cố định mà có
tính chất tương đối. Thông qua sao, tẩm, chế biến hoặc thơng qua phối ngũ với
các vị thuốc khác có thể làm thay đổi hoặc giảm nhẹ khuynh hướng tác dụng của
nó. Ví dụ: hồng liên bản chất có khuynh hướng giáng dùng để điều trị các bệnh ở
vùng trung tiêu, hạ tiêu như viêm ruột, lỵ...song khi sao với rượu, khuynh hướng
tác dụng của hoàng liên lại trở nên thăng, lúc này dùng để chữa chứng tâm hoả
dẫn đến loét mồm miệng, phồng rộp lưỡu... Sài hồ bản chất là thăng, khi sao với
dấm nó trở thành giáng. Bán hạ, tỳ bà diệp bản chất là trầm, sao với nước gừng nó
trở thành phù, có tác dụng phát tán. Sinh khương bản chất phù, thăng, có tác dụng
phát tán phong hàn, sau khi chế qua lửa( sao, nướng), tác dụng lại trầm hướng vào
trong.


Khuynh hướng của vị thuốc có quan hệ đến khí vị của vị thuốc như : ma hoàng,
quế chi vị cay, ngọt, tính ơn, nhiệt, có khuynh hướng thăng phù. Đại hồng, mang
tiêu vị mặn, đắng, tính hàn lương có khuynh hướng trầm giáng.
Khuynh hướng của vị thuốc có quan hệ đến thể chất của vị thuốc. Các loại hoa, lá
có thể chất mỏng manh, nhẹ có khuynh hướng thăng, phù. Các loại khống thạch,
các loại có thể chất rắn chắc, nặng có khuynh hướng trầm, giáng.
Trong khi bào chế cần chú ý một số nguyên tắc sau: với các vị thuốc thăng, phù
không nên đun lâu và nên dùng lửa nhỏ; cịn sắc vị trầm giáng có thể dùng lửa to
và thời gian đun lâu hơn cũng không ảnh hưởng tới dược tính của nó.

2.5. Bổ tả
Bệnh tật là quá trình đấu tranh mất đi hay phát triển của chính khí và tà khí. Vì
vậy bệnh tật có 2 mặt : hư và thực.
Nguyên tắc điều trị: hư thì bổ, thực thì tả, do đó tính của thuốc căn cứ yêu cầu
chữa bệnh còn chia thành hai loại: thuốc bổ và thuốc tả.
Trong khi vận dụng thuốc để điều trị bệnh, trước hết phải nắm được khí ,vị sau đó
tiến lên phân loại thuốc bổ hay tả.Ví dụ: Hồng liên vị đắng, tính hàn có tác dụng
thanh nhiệt táo thấp là thuốc tả; thiên mơn vị ngọt, tính hàn chữa âm hư gây sốt là
thuốc bổ.
Trên thực tế lâm sàng, do tính chất phức tạp của bệnh tật, chứng hư và chứng thực
thường lẫn lộn, đan xen nhau, hoặc bẩm tố là hư mắc thêm bệnh mới thì khi dùng
thuốc phải vận dụng bổ tả cho thích hợp ( công bổ kiêm trị).
3. Sự quy kinh của các thuốc
3.1. Định nghĩa
Sự quy nạp khí vị, tinh hoa (hoạt chất) của vị thuốc vào tạng, phủ, kinh mạch nhất
định, nói cách khác là sự quy nạp tác dụng của thuốc vào tạng phủ, kinh mạch,
được gọi là sự quy kinh.
Mỗi vị thuốc có thể quy vào một hay nhiều kinh khác nhau. Ví dụ: tang bạch bì
vào 1 kinh phế; đại hoàng quy tới 10 kinh; cam thảo quy 12 kinh... Dĩ nhiên khi
sắp xếp thứ tự thì ưu tiên những kinh mà nó có tác dụng nhất.
3.2. Cơ sở của sự quy kinh thuốc y học cổ truyền
3.2.1.Dựa vào lý luận y học cổ truyền


Trên thực tế dựa vào thuyết ngũ hành, tạng tượng, kinh lạc. Dựa vào màu sắc, mùi
vị của thuốc như thuốc có màu xanh, vị chua quy vào hành mộc(tạng can,phủ
đởm). Thuốc có màu đỏ, vị đắng vào hành hoả ( tâm, tiểu trường). Thuốc có màu
vàng, vị ngọt quy vào hành thổ(tỳ, vị). Thuốc có màu trắng vị cay quy vào hành
kim (phế, đại tràng). Thuốc có màu đen, vị mặn quy vào hành thuỷ(thận , bàng
quang). Tuy nhiên sự quy kinh mang tính chất tương đối.

Trên cơ sở quan hệ kinh lạc và các tạng phủ để thể hiện sự quy kinh
Căn cứ vào học thuyết kinh lạc về sự liên quan chặt chẽ giữa các đường kinh để
thể hiện sự quy kinh.
3.2.2. Dựa vào thực tiễn lâm sàng.
Người ta tổng kết sự tác dụng của thuốc với tạng phủ và kinh lạc nhất định. Từ đó
biết được sự quy kinh của thuốc.
3.2.3.Chế biến làm tăng sự quy kinh của thuốc
Chế biến có thể làm tăng sự quy kinh của thuốc.
Đối với sự quy kinh của vị thuốc, để phát huy thêm khả năng quy nạp của chúng
vào những kinh cụ thể, có thể tiến hành chế biến chúng với các phụ liệu nhất định,
ví dụ như: đỗ trọng, hương phụ, trạch tả, trích với muối ăn để cho chúng tăng
nhập vào kinh thận; diên hồ sách tẩm dấm để tăng nhập vào kinh can; xương bồ
tẩm chu sa để tăng nhập vào kinh tâm; bạch truật, hoàng kỳ tẩm hoàng thổ hoặc
mật ong để tăng nhập vào kinh tỳ,vị ...Cũng có thể đem sao (ở các mức độ khác
nhau)để vị thuốc có màu đen, để chúng tăng quy nạp vào thận, ví dụ hà diệp, trắc
bách diệp, hoa hoè sao cháy.
Trên thực tế lâm sàng thấy rằng, khi dùng thuốc đúng kinh mà chúng quy nạp thì
phát huy được tác dụng. Ví dụ: đau đầu, đau vùng trán và xương lông mày là đau
theo kinh dương minh vị và đại tràng, dùng bạch chỉ; nếu đau hai bên thái dương
hoặc đau nửa đầu ( migren) là đau theo kinh thiếu dương đởm, dùng mạn kinh tử;
nếu đau vùng chẩm, vùng gáy là đau theo đường kinh bàng quang dùng cát căn;
đau chính đỉnh đầu là đau theo đường kinh can thì dùng cảo bản thì phát huy được
tác dụng điều trị.
Mặt khác mỗi vị thuốc có quy vào một kinh nhất định, cho nên khi sử dụng cần
quan tâm tới sự quy kinh của nó; điều đó cịn có ý nghĩa khi ta tiến hành phối hợp


các vị thuốc với nhau trong một đơn thuốc. Ví dụ, những vị thuốc đóng vai trị
“qn” trong đơn, thường được quy vào kinh “chủ”, cịn các vị thuốc đóng vai trò
“thần” hoặc quy kinh “chủ” hoặc quy kinh “khách”.

Đồng thời cần quan tâm đến mối liên hệ giữa sự quy kinhcủa vị thuốc tính của vị
thuốc với tính của bệnh tật. Ví dụ, khi nói đến các vị thuốc chữa ho ta có thể dùng
một số vị thuốc quy vào kinh phế như ma hồng, hạnh nhân, mạch mơn, hồng
cầm... Nhưng nếu ho tính nhiệt thì ta dùng tiền hồ, tang bạch bì có tính hàn; cịn
nếu ho do tính hàn thì ta dùng bách bộ, hạnh nhân vì hai vị này có tính ấm. Nếu
ho do tính thực ( phế thực) thì dùng tang bạch bì, đình lịch tử vì chúng đều quy
kinh phế song lại có tính lợi tiểu(tả thận thuỷ) để bớt chứng thực ở phế . Nếu ho
do phế hư ( ho lao , ho lâu ngày) dùng nhân sâm, đẳng sâm vì chúng đều quy kinh
phế, song lại mang tính chất bổ tỳ, kiện vị, ích khí.
Ngồi ra, cần chú ý rằng các vị thuốc có tính vị giống nhau, nhưng quy kinh khác
nhau thì tác dụng cũng khác nhau. Như hồng liên, hồng bá, hịang cầm, chi tử
đều vị đắng, tính hàn, chúng đều có tác dụng thanh nhiệt, nhưng hồng liên quy
kinh tâm có tác dụng thanh tâm; hồng bá quy kinh thận có tác dụng chữa thận
hoả; hồng cầm quy kinh phế có tác dụng tả phế hoả, phế ung, phế có mủ; chi tử
quy kinh tam tiêu dùng trị tam tiêu hoả.
4. Bảy trường hợp tương tác của thuốc cổ truyền
4.1. Đơn hành (tác dụng của một vị thuốc)
Khi dùng riêng một vị thuốc cũng có thể phát huy được hiệu quả chữa bệnh của
nó. Ví dụ, dùng riêng nhân sâm ( độc sâm thang) cũng có tác dụng bổ khí, nhất là
khi cơ thể ở trạng thái vơ lực, thốt dương, mệt mỏi... Một vị tam thất cũng có tác
dụng chỉ huyết, bồi bổ cơ thể, nhất là đối với phụ nữ sau sinh đẻ. Một vị kim ngân
cũng có tác dụng chữa mụn nhọt, mẩn ngứa.
4.2. Tương tu (tác dụng hiệp đồng của hai vị thuốc có tính vị giống nhau)
Hai vị thuốc có tính vị giống nhau khi phối hợp lại thì tác dụng điều trị tốt hơn.
Kim ngân phối hợp với liên kiều tăng sức thanh nhiệt, giải độc dùng tốt trong các
bệnh mụn nhọt, mẩn ngứa, dị ứng. Sinh địa với huyền sâm tăng tác dụng lương
huyết. Hoàng liên dùng cùng liên tâm tăng tác dụng thanh tâm hoả. Đại hoàng
dùng cùng mang tiêu tăng tác dụng tả hạ lên nhiều so với dùng riêng từng vị.



4.3.Tương sử (tác dụng hiệp đồng của hai vị thuốc có tính vị khác nhau)
Hai vị thuốc có tính vị khác nhau, khi dùng chung, tác dụng tăng lên. Ví dụ liên
kiều vị đắng tính hàn, ngơ thù du vị cay tính ấm, khi dùng chung tác dụng cầm
nơn tăng lên. Đó chính là do chúng có khả năng hạn chế tiết dịch nước bọt và dịch
vị. Trên cơ sở đó có thể chữa chứng ợ chua của bệnh đau dạ dày.
4.4. Tương uý( ức chế độc tính của nhau)
Khi hai vị thuốc dùng chung, vị này ức chế độc tính của vị kia thì gọi là tương .
Ví dụ, bán hạ uý sinh khương, bán hạ dùng với sinh khương thì sinh khương làm
mất tính kích thích họng của bán hạ, đồng thời làm hết tác dụng phụ của bán hạ
như buồn nơn, lợm giọng. Có 18 vị nhau nếu dùng chung với nhau, đó là:Lưu
huỳnh uý phác tiêu, thuỷ ngân uý thạch tín, đinh hương uý uất kim, ba đậu uý
khiên ngưu, lang độc uý mật đà tăng, nha tiêu uý tam lăng, ô đầu uý tê giác, nhân
sâm uý ngũ linh chi, quế uý xích thạch chi.
4.5. Tương sát ( tiêu trừ độc tính của nhau)
Khi phối hợp, vị thuốc này có thể làm mất độc tính của vị thuốc kia. Ví dụ, phịng
phong trừ độc thạch tín ; đậu xanh trừ độc ba đậu. Vì vậy vận dụng tương sát để
giải độc khi ngộ độc asen hoặc ba đậu...
4.6. Tương ác (Kiềm chế tính năng, tác dụng của nhau)
Khi hai vị thuốc dùng chung, vị naỳ kiềm chế tính năng của vị kia. Hồng cầm
dùng với sinh khương: hồng cầm vị đắng tính hàn, sinh khương vị cay tính ấm,
khi dùng chung tính hàn của hồng cầm sẽ kiềm chế tính ấm của sinh khương.
4.7. Tương phản.
Hai vị thuốc được gọi là tương phản là khi dùng phối hợp chúng sẽ gây ra những
phản ứng không tốt cho cơ thể và sẽ gây thêm độc tính cho cơ thể.
YHCT có qui định 19 vị thuốc phản nhau, đó là:
Cam thảo phản cam toại, đại kích, nguyên hoa, hải tảo.
Ô đầu phản bối mẫu, bán hạ, bạch cập, bạch liễm, qua lâu nhân.
Lệ lô phản các loại sâm (nhân sâm, huyền sâm, đan sâm, sa sâm, khổ sâm), tế tân,
thược dược.
Tóm lại, khi tiến hành phối hợp các vị thuốc trong một đơn thuốc cần lưu ý tới

bảy tình huống trên. Cần khai thác mặt tốt của chúng vào việc chữa bệnh và chế


biến thuốc; đồng thời hết sức tránh các trường hợp tương phản, tương ác... để
tránh các hậu quả khi dùng thuốc .
5. Phân loại thuốc cổ truyền
Có nhiều phương pháp phân loại thuốc y học cổ truyền
5.2. Phân loại theo tính vị
Dựa vào tính vị để phân loại thuốc, ví dụ:
- Thuốc tân ôn giải biểu
- Thuốc tân lương giải biểu
- Thuốc ôn trung trừ hàn
- Thuốc ôn bổ......
5.3. Phân loại theo tác dụng
- Thuốc phát tán phong hàn
- Thuốc phát tán phong nhiệt
- Thuốc phát tán phong thấp
- Thuốc thanh nhiệt
- Thuốc chỉ khái trừ đàm
.....
5.4. Phân loại dựa vào tính vị và tác dụng của thuốc
Đây là cách phân loại phổ biến hiện nay , dựa vào tính vị và tác dụng của các vị
thuốc để phân loại thuốc. Kết hợp hai loại hình này thì đơng dược được chia thành
nhiều loại, ví dụ : thuốc giải biểu, thuốc thanh nhiệt, thuốc bổ....
Tóm lại , có nhiều cách phân loại thuốc , song để tiện cho người học, giáo trình
này sẽ tiến hành phân loại theo phương pháp 4.
6. Các thành phần cấu tạo nên phương thuốc ( bài thuốc)
Phương thuốc là kết quả cụ thể của lý pháp và sử dụng thuốc.
Nguyên tắc để xây dựng một phương thuốc hồn chỉnh là phải có các vị thuốc
đảm nhận các vị trí quân- thần- tá- sứ.

- Quân: vị thuốc có tác dụng chính trong phương, có cơng năng chính, hoặc giải
quyết các triệu chứng chính của hội chứng bệnh.


- Thần: một hay nhiều vị có tác dụng hỗ trợ vị thuốc Quân để giải quyết triệu
chứng chính, đồng thời vị Thần cũng có tác dụng giải quyết một khía cạnh nào đó
của bệnh. Có thể có nhiều nhóm Thần giải quyết nhiều khía cạnh khác nhau.
- Tá: Một hay nhiều vị thuốc có tác dụng giải quyết các triệu chứng phụ của hội
chứng bệnh. Có nhiều nhóm Tá, mỗi nhóm giải quyết một triệu chứng bệnh.
Ngồi ra, vị Tá cịn có tác dụng hạn chế tính độc và tác dụng mãnh liệt của vị
Quân, hiệp đồng với vị Quân để tăng tác dụng điều trị.
- Sứ: Vị thuốc có tác dụng dẫn thuốc vào kinh, hoặc giải quyết một triệu chứng
phụ của bệnh, cũng có khi mang tính chất hồ hỗn sự mãnh liệt của phương
thuốc.
*Đơn vị đo lường:
Một đồng cân tương đương 3g78; nay lấy chẵn lá 4g. Tuy nhiên, với các vị thuốc
độc, nếu trong phương ghi bằng đồng cân, thì phải cân theo số lượng thực của
đồng cân.
Một lạng (ta) theo đơn vị cũ là 37g8, cũng làm trịn là 40g với các thuốc khơng có
độc
Hiện nay, thường sử dụng gam (g), lạng (100g)
7. Cách sắc thuốc ( môn bào chế)
8. Cách uống và kiêng kị
8.1. Cách uống thuốc
- Bệnh cảm hàn, trúng hàn phong thấp cần uống lúc nóng; bệnh nhiệt (thuốc thanh
nhiệt) cần uống lúc nguội; các thuốc lý khí, nhuận hạ cần uống lúc ấm.
- Thường lấy bữa ăn làm điểm tính thời gian uống thuốc. Thường uống sau bữa ăn
từ 1h30' đến 2h. Tuy nhiên có một số thuốc cần uống lúc đói như thuốc tả hạ,
thuốc tiêu hố.
8.2. Kiêng kỵ

Để phát huy hiệu quả của thuốc khi uống thuốc cần kiêng các thức ăn mang tính
đối lập với chiều hướng tác dụng của thuốc.Ví dụ:
- Khi uống thuốc thanh nhiệt khơng nên ăn các thức ăn có tính kích thích như vị
cay nóng, như rượu, ớt, hạt tiêu, thịt chó...


- Khi uống thuốc ôn lý trừ hàn, thuốc tân ôn giải biểu thì không ăn các thức ăn
sống lạnh như rau sống, thịt trâu, thịt ba ba, cua, ốc, rau giền...
- Khi uống thuốc chữa dị ứng không nên ăn các thức ăn như tơm, cua biển, nhộng,
lịng trắng trứng...
Ngoài ra, một số vị thuốc kỵ các thức ăn như:
Kinh giới kỵ thịt gà, mật ong kỵ hành, thương nhĩ tử kỵ thịt ngựa, thịt lợn, bạc hà
kỵ ba ba, ...
Khi uống thuốc thanh phế trừ đàm kiêng ăn chuối tiêu, khi uống thuốc thanh nhiệt
kiêng ăn trứng, khi uống các phương thuốc bổ kiêng ăn các loại rau mang tính lợi
tiểu như rau cải.
Nói chung khi uống thuốc y học cổ truyền theo kinh nghiệm nên kiêng đậu xanh
và rau cải vì bị giã thuốc.
Tuy nhiên khơng nên ăn uống kiêng khem quá khắt khe mà ảnh hưởng tới sức
khoẻ của người bệnh.
8.3. Cấm kỵ khi có thai
- Loại cấm dùng:
Các vị thuốc có tác dụng trục thuỷ, cơng hạ, phá khí, phá huyết như: ba đậu (tả
hạ), khiên ngưu, đại kích, thương lục (trục thuỷ), tam thất (hoạt huyết), sạ hương
(phá khí), nga truật, thuỷ điệt, manh trùng (phá huyết)...
- Loại thận trọng:
Các vị thuốc có tác dụng đại nhiệt, cơng hạ, phá khí, hoạt huyết như: bán hạ, đại
hoàng, chỉ thực, phụ tử, can khương, nhục quế, ...




×