Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN, HỢP QUY LUẬT CỦA CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM. VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NIỀM TIN, LÝ TƯỞNG CHO SINH VIÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.98 KB, 25 trang )

Nguyễn Thanh Phú

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN, HỢP QUY LUẬT
CỦA CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM. VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG
NIỀM TIN, LÝ TƯỞNG CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
GVHD:
SVTH:

Mã lớp học: LLCT

1. Nguyễn Thanh Phú_19128060

3. Trần Thị Thanh Trúc_19128060

2.Võ Thị Lê Duyên_ 19132023

4. Võ Minh Trí_19110483

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 05 năm 2021


Nguyễn Thanh Phú


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

.............................................................................................................
.............................................................................................................
.............................................................................................................
.............................................................................................................
.............................................................................................................
.............................................................................................................
.............................................................................................................
.............................................................................................................
.............................................................................................................
.............................................................................................................
Điểm..........................................
KÍ TÊN


Nguyễn Thanh Phú

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu...........................................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................2
B. NỘI DUNG.........................................................................................................3
Chương 1. Tính tất yếu khách quan, hợp quy luật của con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam......................................................................................................3
1.1. Khẳng định quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính tất yếu khách
quan của lịch sử..........................................................................................................3
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội........9
1.1.1. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.......................................9

1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội...10
Chương 2. Vận dụng xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh viên hiện nay............12
2.1. Thực trạng về niềm tin, lý tưởng của sinh viên hiện nay..................................12
2.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh
viên hiện nay............................................................................................................13
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc xây dựng niềm tin, lý tưởng cho
sinh viên hiện nay.....................................................................................................16
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................20


Nguyễn Thanh Phú

A. MỞ DẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của loài người, qua từng thời kì các mối quan hệ sản
xuất thay đổi làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi mà trải qua các hình thái kinh
tế xã hội từ thấp đến cao với hình thái phát triển cao nhất là chủ nghĩa xã hội. Tiến
lên chủ nghĩa xã hội là quy luật, không ai có thể ngăn cản được, muốn hay khơng
muốn nó vẫn cứ diễn ra, chỉ có điều nhanh hay chậm mà thôi. V.I.Lênin đã khẳng
định: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh
khỏi”. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ thực tế, gần gũi với đời sống, vì con người,
do con người và cho con người, thấm nhuần truyền thống văn hóa dân tộc và kết
tinh những giá trị nhân văn của văn hóa nhân loại. Để phù hợp với xu thế của thời
đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam đã đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa bước vào thời kì quá độ
đầy khó khăn, thử thách nhưng phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm
lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế. Nước ta nói riêng và thế giới nói
chung muốn xây dựng một xã hội đương đại cũng cần có những con người tiêu
biểu đại diện cho lực lượng phát triển của xã hội đó, mà lịch sử thường gọi là “thời
đại” và “con người của thời đại”. Vậy nước ta đã đi lên chủ nghĩa xã hội như thế

nào, quá trình ra sao và việc đào tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa trong
thời gian đầu có những khó khăn nào thì chúng ta sẽ cùng đi tiềm hiểu đề tài “ Tính
tất yếu khách quan, hợp quy luật của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Vận dụng vào việc xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh viên hiện nay”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
-Mục tiêu 1: Chỉ ra tính tất yếu, hợp quy luật của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
-Mục tiêu 2: Đưa ra những khái quát cơ bản về chủ nghĩa xã hội.

1


Nguyễn Thanh Phú

-Mục tiêu 3: Cách vận dụng để xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh viên hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài “Tính tất yếu khách quan, hợp quy luật của con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Vận dụng vào việc xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh viên
hiện nay” được nghiên cứu bằng các phương pháp khoa học như: phương pháp
tổng hợp, quy nạp, phân tích, diễn giải, so sánh,...

B. NỘI DUNG
Chương 1. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN, HỢP QUY LUẬT CỦA CON
ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. Khẳng định quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính tất yếu
khách quan của lịch sử
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam chịu sự đô hộ từ thực dân Pháp,
trong thời gian đó nhân dân trong rơi vào tình cảnh “một cổ hai chồng” vừa chịu sự
chèn ép của triều đình phong kiến vừa chịu sự bốc lột vơ vét của thực dân. Các
cuộc đấu tranh của nông dân, các phong trào ra khắp nơi nhưng nhanh chóng bị dập

tắt. Một số sĩ phu yêu nước đã ra đi tìm đường cứu nước như Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh,... nhưng chưa tìm ra được con đường đúng đắn, do chúng không phù
hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của nước ta dẫn tới các cuộc cải cách tư tưởng đều
thất bại. Nhận thấy cần có một tư tưởng tiến bộ, một con đường đúng đắn để dẫn
dắt cách mạng Việt Nam. Năm 1911, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường
cứu nước, người đã tìm hiểu về chủ nghĩa tư bản, tìm hiểu cuộc sống của người dân
ở chính quốc và các nước thuộc địa, nhưng cuối cùng người nhận thấy các cuộc
cách mạng tư sản chỉ đem lại lợi ích cho thiểu số, đa số quần chúng nhân dân lao
động vẫn chịu nhiều áp bức, bốc lột. Đến năm 1917, sự thành công của cuộc Cách

2


Nguyễn Thanh Phú

mạng tháng Mười ở Nga đã ảnh hưởng đến vị lãnh tụ của nước ta, người tìm hiểu
về chủ nghĩa Mác - LêNin, đọc bản Luận cương của Lênin về Vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa, vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lênin về sự phát triển tất yếu
của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế – xã hội, Hồ Chí Minh đưa ra quan
điểm: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi
nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vơ sản”.
Sau những biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80 đầu
những năm 90 thế kỷ XX, một chiến dịch cơng kích, phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác - Lênin được dấy lên trên khắp thế giới bởi các
thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội. Họ nhanh chóng chớp lấy cơ hội “ngàn năm
có một” này để tổng tấn cơng hịng “chơn vùi vĩnh viễn” chủ nghĩa Mác - Lênin và
chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào khủng hoảng,
phong trào cách mạng thế giới đứng trước những thử thách đầy cam go, những
người hoang mang, dao động về lý tưởng đã “khuyến cáo” Đảng Cộng sản Việt
Nam từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Bác

Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Bởi theo họ, đến thành trì của chủ nghĩa xã
hội hùng mạnh như Liên bang Xơ Viết mà cịn khơng đứng vững, thì một đất nước
nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam làm sao có thể đi lên chủ nghĩa xã hội
được. Một số người thậm chí cho rằng, giá như vào nửa đầu thế kỷ XX, nếu lựa
chọn đi con đường khác thì biết đâu nước ta vẫn giành được độc lập, kinh tế, văn
hóa vẫn phát triển, lại tránh được mấy cuộc kháng chiến gian khổ, hao tổn xương
máu.v.v.. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện
nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng
tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát
triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước
3


Nguyễn Thanh Phú

tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội”(1). Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam
“đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển
của lịch sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp
giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước
phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Điều đó được lý giải
bởi những lẽ sau:
Thứ nhất, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay
thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Song, khơng phải hình thái kinh tế - xã
hội này kết thúc hồn tồn rồi hình thái kinh tế - xã hội tiếp sau mới ra đời. Giữa
hình thái kinh tế - xã hội cũ bị thay thế và hình thái kinh tế - xã hội mới sẽ thay thế

nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, đó là thời kỳ quá độ. Xây dựng xã
hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, một chế độ xã hội
mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại càng địi hỏi phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách, khó tránh khỏi những va
vấp, đổ vỡ tạm thời. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác đã chỉ rõ “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một
thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là
một thời kỳ quá độ chính trị...”.
Thứ hai, học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, lồi người với tính cách
một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Nhưng, do đặc
điểm lịch sử - cụ thể về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách
quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi phối, không phải quốc gia nào cũng
tuần tự trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao theo một trình tự
sơ đồ chung. Có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội
4


Nguyễn Thanh Phú

nào đó trong tiến trình phát triển của mình tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể đặc
thù của từng nước. Điều đó hồn tồn phù hợp quy luật khách quan.
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội lồi người nói chung, trong thời đại ngày nay,
việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được
quy định bởi: Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu
giai đoạn mới của q trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh
vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất kỹ thuật, xã hội lồi người địi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh
cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên chủ nghĩa xã

hội là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau chủ nghĩa tư bản nhất
định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ xã hội chủ nghĩa mà sự lựa
chọn của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta là nước đã giành được độc lập
dân tộc, có chính quyền dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những
thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử của hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng
nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung
bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có
vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện
tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Sự lựa
chọn xu hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ
nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta
nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa
và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở
5


Nguyễn Thanh Phú

kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa
nhỏ, do tác động của quy luật giá trị thì sẽ hình thành chủ nghĩa tư bản, dẫn đến
những hậu quả như: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và
chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột và khó có
thể thực hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hướng tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta không đi
theo con đường tư bản chủ nghĩa vì thời đại ngày nay khơng phải là thời đại của
chủ nghĩa tư bản, mặc dù chủ nghĩa tư bản đang có sự Động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân với

nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể
và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của
tồn xã hội...” điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ,
nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công
xã hội thuộc về bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo quy luật phát triển của
lịch sử thì chủ nghĩa tư bản khơng thể khơng bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa
chọn hướng đi phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở củng cố chính quyền
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh cơng - nơng - trí
thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành
cơng nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Con
đường này hoàn toàn mới mẻ và khơng ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ
cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh
đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng
6


Nguyễn Thanh Phú

và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...”.Những thành tựu đã đạt
được qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ sự lựa chọn đó là đúng hướng, phù hợp
với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh:
quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Và trong thực tiễn, chủ nghĩa
xã hội không những đã trở thành động lực tinh thần, mà còn là sức mạnh vật chất to
lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta đến

thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật
chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã
hội. Vì thế, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc
điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nơ lệ thực dân của nước
ta chứng minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều phong trào
đấu tranh chống Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào
bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược. Và
như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước theo
hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường
tiểu tư sản, tư sản, đều được lịch sử khảo nghiệm nhưng rốt cuộc đều thất bại.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta ra đời, nhanh chóng gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi
lên.
Như vậy, đi tới chủ nghĩa xã hội là quy luật, khơng ai có thể làm khác, làm
trái được, “không ai ngăn cản được”, muốn hay khơng muốn nó vẫn cứ diễn ra, chỉ
có điều nhanh hay chậm mà thôi. Vấn đề này được Lênin khẳng định: “Tất cả các
7


Nguyễn Thanh Phú

dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều khơng tránh khỏi”. Vì vậy, vận
dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu và phù hợp. Chủ nghĩa tư bản tuy đã có
nhiều điều chỉnh về mặt lợi ích, giải quyết có hiệu quả về phát triển kinh tế cũng
như một số vấn đề xã hội. Tuy nhiên, bản chất của chế độ áp bức, bóc lột thì khơng
thay đổi, khoảng cách giàu nghèo, phân biệt màu da, chủng tộc chưa được khắc
phục; nhiều tệ nạn xã hội chưa được giải quyết; khủng bố, gây chiến tranh vẫn là

vấn đề nóng bỏng. Do vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là một xã hội mà tương lai
của loài người muốn đạt tới.
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng và bản chất của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
1.2.1. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ học thuyết Mac Lênin. Theo học
thuyết Mác-Lênin lồi người trải qua năm hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Từ
sau cách mạng tháng 10 Nga, loài người đã bắt đầu bước vào Thời đại mới – Thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới , ở
đó giai cấp cơng nhân là giai cấp trung tâm có xứ mệnh lãnh đạo xã hội. Hồ Chí
Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Mac Lênin từ lập trường của một
người yêu nước đi tìm con đường giải phóng dân tộc để xây dựng một xã hội mới
tốt đẹp. Hồ Chí Minh cũng cho rằng, loài người nhất định sẽ vươn lên chủ nghĩa xã
hội, xã hội có nền văn hóa phát triển cao. Ngồi ra, Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa
xã hội từ những khía cạnh khác nhau: từ chủ nghĩa u nước và khác vọng giải
phóng dân tộc, vì bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng là nhằm giải
phóng cho con người; từ phương diện đạo đức, hướng tới giá trị nhân đạo, nhân
văn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: chủ
nghĩa xã hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề phủ nhận cá
8


Nguyễn Thanh Phú

nhân, trái lại, đề cao, tôn trọng con người cá nhân, các giá trị cá nhân, phát triển
mọi năng lực cá nhân với phát triển xã hội và hạnh phúc con người. Chủ nghĩa xã
hội tạo mọi điều kiện cho sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội. Xã hội tôn
trọng mọi cá nhân, đồng thời cá nhân biết đề cao mọi lợi ích xã hội, có thể hi sinh
lợi ích cá nhân vì lợi ích xã hội; từ phương diện văn hóa, đưa văn hóa xâm nhập
vào bên trong chính trị, kinh tế tạo nên một sự thống nhất biện chứng giữa văn hóa,

chính trị, kinh tế. Điều này cho thấy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội chính là hình
thái phát triển của văn hóa, một đỉnh cao của nền văn minh nhân loại. Do đó, q
trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội lại càng gắn với văn hóa, và chỉ
có đứng trên đỉnh cao của văn hóa , chủ nghĩa xã hội mới phát triển theo đúng quy
luật xã hội khách quan, phù hợp với tiến trình phất triển chung của nhân loại; từ cơ
sở kế thừa và phát triển truyền thống lịch sử, văn hóa xã hội và con người Việt
Nam. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng là quá trình xây dựng
một nền văn hóa mà trong đó kết tinh kế thừa phát triển những giá trị truyền thống
văn hóa tốt đẹp hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa
thế giới, kết hợp truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc tế. Nhân dân Việt Nam
xây dụng một xã hội như vậy theo quan điểm của Hồ Chí Minh cũng tức là tuân
theo một quy luật phát triển của dân tộc Việt Nam: Độc Lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội gắng liền với nhau. Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là một điều kiện đảm
bảo vững chắc, đồng thời là mục tiêu cho độc lập dân tộc hướng tới.
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã
hội.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân lao động, mục tiêu chung là độc lập tự do cho
dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân với những mục tiêu cụ thể như sau: Về chế độ
chính trị: là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân do dân vì
9


Nguyễn Thanh Phú

dân,nhà nước thực hiện hai chức năng là dân chủ đối với nhân dân và chuyên chính
đối với kẻ thù; Về kinh tế: nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần phải phát
triển toàn diện các ngành, trong đó có những ngành chủ yếu như: công nghiệp,
nông nghiệp, thương nghiệp; Về xã hội: xây dựng và phát triển nền giáo dục để

nâng cao dân trí,đạt được trình độ văn hóa cao; Về quan hệ xã hội: phải xây dựng
được một xã hội, trong đó có sự công bằng dân chủ, xây dựng mối quan hệ giữa
người với người đề ra được các chính sách xã hội và phải quan tâm thực hiện.
Động lực bao gồm các nhân tố góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội, có cả hệ thống động lực nội sinh và ngoại sinh nhưng các động
lực đó muốn phát huy tác dụng phải thơng qua vai trị tác động của con người, do
đó động lực quan trọng nhất quyết định nhất là động lực con người đó là cá nân
người Việt Nam. Động lực chủ yếu là phải biết khai thác và phát huy được sức
mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Muốn vậy phải xây dựng mặt trận dân tộc
thống nhất do Đảng Cộng Sản lãnh đạo và liên minh công nông, tri thức làm nồng
cốt. Phát huy sức mạnh con người với tư cách là cá nhân con người lao động. Do
đó cần phải tìm cách khơi dậy sức mạnh cá nhân của mỗi người. Phải kết hợp và
giải quyết hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội, phải quan tâm đến lợi ích
chính đáng của người lao động, đảm bảo sự cơng bằng và bình đăng đối với người
lao động. Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát tiển kinh tế sản xuất,
kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người mọi nhà trở nên
giàu có, ích nước lợi dân, gắng kinh tế với kỹ thuật với xã hội. Tác động với
phương diện chính trị, tu tưởng với tinh thần phát huy quyền làm chủ của nhân dân
lao động, phát huy vai trị của các nhân tố chính trị, đạo đức, pháp luật. Khắc phục
các trở lực kiềm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân,chống chia rẻ bè phái, mất đoàn kết vô kỷ luật, chống chủ quan bảo thủ
giáo điều, lười biến, chống tham ơ, lãng phí quan liêu. Chính sách đối ngoại đúng

10


Nguyễn Thanh Phú

đắng, khai thác sức mạnh ngoại lực, đặc biệt là tiếp thu những thành tựu của khoa
học công nghệ cao vào việc xây dựng và phát triển kinh tế.


11


Nguyễn Thanh Phú

Chương 2. VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NIỀM TIN LÝ
TƯỞNG CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng về niềm tin, lý tưởng của sinh viên hiện nay.
Vấn đề suy thối tư tưởng chính trị trong một bộ phận giới trẻ hiện nay được
biểu hiện dưới nhiều góc độ, đầu tiên là sự thờ ơ, lơ là của sinh viên đối với các
lĩnh vực liên quan đến chính trị, thiếu hứng thú học tập trong các môn lý luận chính
trị. Khoa học Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền tảng của
đảng, góp phần quan trọng vào sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng,
phương pháp luật khoa học và cách mạng cho người học, tuy nhiên một bộ phận
không nhỏ sinh viên các trường đại học cao đẳng lại chưa ý thức được đầy đủ vị trí
và vai trị của các mơn này nên chưa có động cơ, thái độ học tập đúng đắn, chỉ học
một cách thụ động, miễn cưỡng, học mang tính chất đối phó, học mà khơng hiểu
được cốt lõi vấn đề, khơng suy nghĩ tìm tịi khả năng ứng dụng trong thực tiễn xã
hội, nghề nghiệp. Bên cạnh đó, sinh viên khơng xác định được mục tiêu, chiều
hướng phát triển nhân cách cá nhân. Có tư tưởng bình quân chủ nghĩa, học lệch,
lười học, gian lận trong học tập, thi cử. Sa vào lối sống thực dụng, hưởng thụ, ích
kỷ, xa hoa, lãng phí, đề cao chủ nghĩa cá nhân, giá trị vật chất, sùng bái văn hóa, lối
sống phương Tây, từ bỏ các giá trị văn hóa, truyền thống đạo đức của dân tộc, thiếu
trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội. Có trường hợp sinh viên rơi vào các
tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, ma túy, có hành vi vi phạm pháp luật… Sinh
viên chưa tự đánh giá được những biểu hiện trong lối sống của bản thân là lành
mạnh hay tiêu cực, chưa định hướng được hành vi của bản thân theo chuẩn mực
đạo đức xã hội, thể hiện trong quan hệ xã hội, giao tiếp ứng xử với thầy cô, bạn bè,
sinh hoạt hàng ngày. Những vấn đề được liệt kê trên cần phải có những giải pháp

lâu dài, để sinh viên nói riêng và tất cả cơng dân Việt Nam nói chung hiểu rõ tầm

12


Nguyễn Thanh Phú

quan trọng từ những nội dung liên quan đến chính trị, và ln phải được cập nhật
hàng ngày, tiếp thu và truyền lại những tinh hoa đời trước đến với thế hệ mai sau.
2.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh
viên hiện nay.
Để xây dựng niềm tin cộng sản cho sinh viên, Đảng và Nhà nước, mà trực tiếp
là cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, tổ chức, đoàn thể cần nâng cao nhận
thức, trách nhiệm trong việc giáo dục, rèn luyện sinh viên trở thành lớp người có
ích cho xã hội. Đào tạo, bồi dưỡng sinh viên là sự chủ động chuẩn bị cho tương lai
của dân tộc, như Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định, đây là một công
việc vô cùng quan trọng và cần thiết. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với nguyện vọng, xu thế phát triển của dân tộc, thời đại, đã được kiểm
nghiệm trong thực tiễn. Sinh viên ngày nay có thấm nhuần, kiên định với mục tiêu
này mới đảm bảo cho đất nước phát triển bền vững, thực sự mang lại ấm no, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân. Nói nước nhà thịnh hay suy phụ thuộc vào thanh niên;
song, thực chất là phụ thuộc vào việc giáo dục, rèn luyện của lớp người đi trước,
nhất là của tổ chức, đoàn thể đối với sinh viên. Chúng ta phải nghiêm túc thấy rằng,
những hạn chế, lệch lạc trong lối sống của sinh viên hiện nay có một phần trách
nhiệm rất lớn từ gia đình đến nhà trường và xã hội, chưa làm tốt công tác giáo dục,
rèn luyện sinh viên. Do đó, cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, tổ chức, đồn
thể phải tiếp tục quán triệt sâu sắc về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa”, nâng cao
nhận thức, trách nhiệm, thường xuyên làm tốt việc giáo dục, xây dựng niềm tin

cộng sản, làm cho thế hệ sinh viên Việt Nam giàu lòng yêu nước, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành
pháp luật, sống có văn hóa, vì cộng đồng; có năng lực, tri thức, kỹ năng và tác
phong công nghiệp trong lao động, trở thành những công dân tốt của đất nước.
13


Nguyễn Thanh Phú

Vấn đề không thể xem nhẹ hiện nay là phải nâng cao hiệu quả cơng tác giáo
dục chính trị, tư tưởng. Trên cơ sở đó, làm cho thế hệ trẻ, đặc biệt là thế hệ sinh
viên hiện nay thấm nhuần sâu sắc bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật Nhà nước; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Quá trình giáo dục, làm cho thanh niên thấy được những giá trị bền vững của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin cần phải kế thừa, trung thành và vận dụng sáng tạo vào điều
kiện cách mạng Việt Nam và những vấn đề đang được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung,
phát triển. Đồng thời, làm cho họ nhận thức sâu sắc vị trí, vai trị, giá trị của tư
tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, để chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành kim chỉ nam cho nhận
thức và hành động của sinh viên. Việc tuyên truyền, giáo dục phải được tiến hành
thường xun, với nhiều hình thức sáng tạo, có tính thuyết phục cao; gắn giáo dục
mục tiêu, lý tưởng với đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Trên cơ sở đó, xây dựng cho sinh viên có ước mơ, hồi bão lớn, lối sống
trong sạch, lành mạnh, khắc phục những biểu hiện thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm
với công việc, cộng đồng. Thời gian tới, trong các trường Cao đẳng, Đại học và
Dạy nghề, bên cạnh việc chú trọng nền tảng tri thức, phát triển năng lực tư duy
sáng tạo, tay nghề, cần chú trọng giáo dục, trau dồi niềm tin cộng sản cho học sinh,
sinh viên, kết hợp dạy chữ với dạy người; làm cho sinh viên có nhu cầu học tập,
ham học, ham làm, ham tiến bộ, ham làm việc lớn, ích quốc lợi dân chứ khơng ham

làm quan to. Đó là chỉ dẫn định hướng giá trị thanh niên mà Hồ Chí Minh đã căn
dặn. Trong giáo dục, phải chú ý bảo đảm lý luận gắn liền với thực tiễn, với sản xuất
và đời sống xã hội; học phải đi đôi với hành theo phương châm và phong cách Hồ
Chí Minh. Cần chú trọng thực hiện dân chủ hóa đời sống học đường, lấy người học
là trung tâm và người dạy đóng vai trị chủ đạo; rèn trí thơng minh, sáng tạo và hình
thành năng lực độc lập, chủ động chứ khơng thụ động, ỷ lại; đồng thời, địi hỏi sinh
14


Nguyễn Thanh Phú

viên phải nâng cao lòng tự trọng, tự giáo dục, tự đào tạo thì mới có thể phát triển.
Cùng với đó, phải xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực của con người Việt Nam, phải
nêu cao tính gương mẫu, thúc đẩy các thế hệ thanh niên, sinh viên tương lai noi
theo.
Xây dựng niềm tin cộng sản không chỉ bằng giáo dục mà còn là vấn đề tổ
chức thực tiễn xã hội. Do đó, Đảng, Nhà nước phải chăm lo phát triển kinh tế - xã
hội, đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều việc làm cho lớp trẻ, đặc biệt là sinh viên khi
ra trường. Bởi khơng có việc làm, khơng lao động thì khơng có cơ sở cho sự hình
thành niềm tin ở sinh viên. Đặc biệt, phải tích cực đấu tranh, phịng, chống tham
nhũng, lãng phí. Nếu tham nhũng khơng được khắc phục thì đó là phản cảm lớn
nhất làm xói mịn niềm tin ở sinh viên. Đây cũng là thách thức phải vượt qua để
bảo vệ dân, bảo vệ Đảng và chế độ.
Xây dựng niềm tin cộng sản của thanh niên phải chú trọng đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong thanh niên. Thực tiễn cho
thấy, tuyệt đại đa số sinh viên hiện nay luôn khát khao được sống, cống hiến theo
mẫu hình nhân cách lớn mà họ ngưỡng mộ, như: Hồ Chí Minh, Võ Ngun Giáp,...
Vì vậy, các cấp, các ngành, các tổ chức cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để
thanh niên nhận thức sâu sắc giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh; tổ chức, hướng cho họ học tập và làm theo bằng những nội dung cụ thể, thiết

thực. Lẽ sống của sinh viên ngày nay là sống, làm việc theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, mà trước hết là học tập và làm theo tư tưởng, phương pháp,
phong cách của Người. Đó là niềm tin khoa học đối với mục tiêu lý tưởng, độc lập
dân tộc và CNXH; là việc thực hành đạo đức cách mạng: “cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng vơ tư”; tồn tâm, tồn ý vì dân, vì nước, đấu tranh khơng khoan nhượng
với chủ nghĩa cá nhân - giặc nội xâm nguy hiểm nhất. Đó cũng là dũng khí và bản
lĩnh “giữ chủ nghĩa cho vững”, “ít lịng ham muốn về vật chất”, “khơng màng danh
lợi”, “tuyệt đối đứng ngồi vịng danh lợi” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm
15


Nguyễn Thanh Phú

gương sáng. Sinh viên học tập và làm theo Bác về mục đích, động cơ, lẽ sống, nghị
lực vượt qua khó khăn, thử thách; gắn bó với nhân dân, làm điều lợi cho dân, tránh
điều hại tới dân, vì dân chứ khơng vì mình, thực hiện “dĩ cơng vi thượng” theo tấm
gương Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp.
Xây dựng niềm tin cộng sản cho sinh viên có phần trách nhiệm rất lớn của tổ
chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Với chức năng là trường học
XHCN của sinh viên, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải đổi mới tư
duy, khắc phục bệnh giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, xây dựng phong cách và
lối sống công nghiệp, hướng tới các giá trị của xã hội hiện đại văn minh; có nhiều
mơ hình, câu lạc bộ, hình thức hoạt động để thu hút đồn viên, thanh niên tham gia;
chủ động góp sức vào cơng cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới, nâng cao chất
lượng hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân. Đó là hoạt động tham chính đầy trách nhiệm của thanh niên,
của tổ chức đồn; thơng qua đó, đồn viên, thanh niên tự rèn luyện mình về ý thức
và bản lĩnh chính trị, xây dựng niềm tin cộng sản vững chắc.
Niềm tin lý tưởng của sinh viên ngày nay phải là niềm tin cộng sản. Đó là kiên
định, thực hiện cho được mục tiêu: “Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”. Xây

dựng niềm tin cộng sản cho sinh viên hiện nay là vấn đề quan trọng; là trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị, nhằm bồi dưỡng họ trở thành những
người “vừa hồng”, “vừa chuyên”, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới.
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc xây dựng niềm tin, lý tưởng
cho sinh viên hiện nay.
Một là, học tập các môn khoa học xã hội và nhân văn, cốt lõi là các mơn lý
luận chính trị, bao gồm: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị học Mác - Lênin,
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh và môn Đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam là một trong những hình thức nổi bật nhất, giữ vai trò quan
16


Nguyễn Thanh Phú

trọng. Với tư cách là hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra một quan
niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên hệ cơ bản của hiện thực và những bài
học về sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, các mơn lý luận chính trị góp phần xác
lập những khát khao, nguyện vọng về lý tưởng, hoài bão, thái độ sống, lối sống đạo
đức phù hợp với định hướng giá trị xã hội Việt Nam và vận dụng vào thực tiễn của
mỗi sinh viên. Với tư cách là những vũ khí lý luận để cải tạo tự nhiên, xã hội, cải
tạo con người, xét về chiều sâu bản chất nhân văn, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là khoa học vun trồng lý tưởng, đạo đức cách mạng, trao cho sinh
viên những phương tiện “học để làm người”, góp phần hình thành phẩm chất chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa cho sinh viên. Cùng với những nội
dung cơ bản, cần thiết được quy định bởi chương trình, giáo trình, khung chương
trình, thơng qua các bài giảng có liên hệ với những vấn đề nóng bỏng của xã hội
như chống “diễn biến hịa bình” trong tư tưởng - chính trị, đạo đức, lối sống; nâng
cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc, truyền thống yêu nước, tự cường dân tộc…, mơn

lý luận chính trị góp phần xây dựng, bồi dưỡng những thế hệ sinh viên kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng
đắn trên cơ sở nắm vững, quán triệt, thấm sâu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động cách mạng.
Hai là, công tác thông tin, tuyên truyền, quán triệt về tình hình thế giới và
trong nước, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, định hướng và nhiệm vụ
chủ yếu của ngành giáo dục… có ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với việc giáo dục lý
tưởng cách mạng cho sinh viên: Thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thơng
tin đại chúng của Nhà nước có tính chất chung, phổ biến và có phổ rộng, bao quát
nhiều nội dung của đời sống xã hội, tác động tích cực đối với sinh viên trong việc
17


Nguyễn Thanh Phú

tiếp cận thông tin, trau dồi tri thức về những vấn đề tư tưởng - chính trị; Thơng tin,
tuyên truyền được thực hiện qua website, facebook, bản tin nội bộ, tuyên truyền
qua loa phóng thanh, các cuộc thi… trực tiếp, cụ thể và phù hợp điều kiện thực tế
mỗi nhà trường; Các đợt học tập chính trị sâu rộng trong các nhà trường như học
tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các chính sách và hệ thống pháp
luật của Nhà nước; các đợt học tập cảm tình Đảng, học chính trị đầu khóa, học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cuộc thi Olympic các
môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh… Các hoạt động này về quy
mơ, mức độ tuy khác nhau, song đều có vai trò quan trọng trong việc giáo dục lý
tưởng, đạo đức cách mạng cho sinh viên và hỗ trợ hiệu quả cho nhau trong việc đưa
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các sự kiện
chính trị quan trọng của đất nước, các ngày kỷ niệm quan trọng của Đảng, Đồn và
các đồn thể chính trị - xã hội; các thành tựu kinh tế - xã hội; hệ thống pháp luật

như Luật Thanh niên, Luật Giao thơng đường bộ, Luật Hơn nhân và Gia đình, Bộ
luật Lao động; gương người tốt, việc tốt, điển hình rèn luyện, tu dưỡng của các thế
hệ giáo viên, sinh viên; giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc… đến
với sinh viên. Thơng qua đó, giúp sinh viên cập nhật thông tin kịp thời, nắm bắt
được những diễn biến chính trị - xã hội, tránh được hiện tượng “mù” thơng tin;
đồng thời, nâng cao ý thức chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng và rèn luyện
bản lĩnh cho sinh viên.
Ba là, các phong trào hành động của Đồn, Hội và hoạt động ngoại khóa là
phương thức hiệu quả để tập hợp và tạo điều kiện cho sinh viên rèn luyện, phấn đấu
và trưởng thành. Các phong trào hành động cách mạng như “Thanh niên tình
nguyện”, “Thanh niên xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “Thanh niên lập
nghiệp”, “Tiếp sức mùa thi”, “Sinh viên 5 tốt”, … ; các phong trào bảo vệ môi
trường, thực hiện nếp sống văn minh đô thị, đảm bảo trật tự đơ thị; các cuộc vận
động qun góp ủng hộ quần áo, sách vở cho gia đình, trẻ em có hồn cảnh khó
18


Nguyễn Thanh Phú

khăn, khắc phục hậu quả thiên tai; các hoạt động tình nguyện dài ngày các trung
tâm thương bệnh binh, các chương trình văn hố hè cho thiếu niên, nhi đồng, xây
dựng tủ sách tại các trường tiểu học, tổ chức các hoạt động thăm hỏi và trao quà
cho bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình liệt sĩ… thực sự là những hoạt động
truyền cảm hứng, không chỉ vun đắp những tình cảm cao đẹp, đậm tính nhân văn,
cảm thơng, sẻ chia của sinh viên mà cịn tạo hiệu ứng mạnh mẽ trong xã hội.
Cùng với đó, hoạt động ngoại khóa có vai trị quan trọng trong việc trau dồi,
hồn thiện bản thân, nhân cách và tính năng động thông qua việc bổ trợ kiến thức,
bổ sung các kỹ năng và kinh nghiệm sống. Đây là những hoạt động được thực hiện
ngoài giờ học, tuỳ thuộc vào hứng thú, sở thích, nguyện vọng của mỗi sinh viên
trong khuôn khổ và điều kiện tổ chức của mỗi nhà trường. Thơng qua các phong

trào thi đua, các chương trình ngoại khóa, diễn đàn, các câu lạc bộ, với từng nội
dung cụ thể, sinh viên không chỉ phát huy khả năng học hỏi, dễ thích ứng với thực
tế mà cịn góp phần rèn luyện các kỹ năng cơ bản về phối hợp tổ chức nhóm, thực
hành nhóm, giúp họ trở thành những con người toàn diện. Cùng với học tập, việc
tích cực tham gia các hoạt động này chính là thể hiện một cách đầy đủ nhất, đậm
nét nhất vai trị xung kích, những việc làm thiết thực của sinh viên hướng đến cộng
đồng, vì cộng đồng, vì mái nhà chung; khơng chỉ đáp ứng nguyện vọng u nước,
địi hỏi đích thực và mong muốn cống hiến của tuổi trẻ mà cịn tạo sức sống lâu bền
trong sinh viên, góp phần giáo dục lý tưởng cách mạng cho họ.

19


Nguyễn Thanh Phú

C. KẾT LUẬN
Như vậy, lịch sử nhân loại cho đến hiện tại đã trải qua 5 hình thái KTXH bao
gồm: Công xã nguyên thủy, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và
Cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa. Các hình thái KTXH
phát triển theo thứ tự từ thấp đến cao nhưng đã có trường hợp ngoại lệ, đó là phát
triển từ tư phong kiến lên xã hội chủ nghĩa mà khơng thơng qua tư bản chủ nghĩa.
Hình thức đó gọi là quá độ. Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt
đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành thắng lợi, đất nước đã hịa bình
thống nhất q độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây dựng chủ nghĩa xã hội,
dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp. chủ nghĩa cộng sản như là một
chế độ xã hội hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống, là con
đường giải phóng nhân loại khỏi áp bức, bóc lột.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là chính là không ngừng nâng cao đời sống vật

chất và tinh thần cho nhân dân lao động, độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho
nhân dân. Động lực chủ yếu là phải biết khai thác và phát huy được sức mạnh đoàn
kết của dân tộc Việt Nam. Phải kết hợp và giải quyết hài hịa các lợi ích cá nhân,
tập thể, xã hội, phải quan tâm đến lợi ích chính đáng của người lao động, coi trọng
động lực kinh tế cùng với đường lối chính trị, chính sách đối ngoại đúng đắng, khai
thác sức mạnh ngoại lực.
Vấn đề suy thối tư tưởng chính trị trong một bộ phận giới trẻ hiện nay về
chính trị xã hội được biểu hiện qua nhiều gốc độ như chán nản với các môn chính
trị trên lớp, học tập lơ đễnh. Do nhiều sinh viên chưa ý thức được đầy đủ vị trí và
vai trị của các mơn này nên chưa có động cơ, thái độ học tập đúng đắn. Đảng và
nhà nước cũng có các chính sách về xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh viên
nhưng vẫn chưa đủ. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sinh viên khơng có kiến
20


Nguyễn Thanh Phú

niềm tin vững vàng, hay bị dụ dỗ lôi kéo, do sa vào vật chất, coi trọng tiền bac,
khơng quan tâm những gì xung quanh mình, cơng tác giáo dục còn nhiều hạn chế,
chưa tạo được nhiều hứng thú cho sinh viên. Để khắc phục tình trạng trên, chúng ta
cần cải tiến giáo dục giúp sinh viên yêu thích học tập các mơn khoa học xã hội và
nhân văn, cốt lõi là các mơn lý luận chính trị; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên
truyền giáo dục tư tưởng về chính trị, tích cực bài trừ các tệ nạn xã hội; tổ chức
phong trào hành động của Đoàn, Hội và hoạt động ngoại khóa giúp củng cố niềm
tin cho sinh viên.

21


Nguyễn Thanh Phú


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Vũ Văn Phúc, Quá độ lên chủ nghĩa xã hội- Một tất yếu của lịch sử,
/>2. Chủ nghĩa xã hội và con người chủ nghĩa xã hội,
/>3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H,
2011, t.13, tr. 66, 5, 376, 66-67, 69.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.21, 23, 69, 70.
5. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H, 1995, t.
19, tr. 47.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr. 66.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận: Báo cáo tổng kết một số
vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb. Chính trị quốc
gia, H.2016.
8. PGS,TS. Phạm Nhất Linh - TS. Nguyễn Tiến Hoàng, Về những điểm mới của
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011.
9. Bảo vệ nền tư tưởng của Đảng,
/>
22


×