Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Dạy học hóa học gắn với các bài tập thực tiễn, thực nghiệm – hóa học THPT”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.83 MB, 57 trang )

PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhấn mạnh “Phát triển giáo dục
và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển
mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn;
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.
Hóa học là một trong những môn khoa học tự nhiên lý thuyết và thực
nghiệm, vì thế việc lồng ghép các bài tập thực tiễn, các bài tập thực nghiệm vào
trong quá trình dạy và học là tạo điều kiện cho việc “học đi đôi với hành”, tạo cho
học sinh sự hứng thú, hăng say trong học tập, thấy được sự thiết thực của học tập,
đồng thời giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực trong đó có năng lực
vận dụng kiến thức, kỹ năng thực hành thí nghiệm vào giải quyết các vấn đề thực
tiễn liên quan.
Thực nghiệm và bài tập thực tiễn có vai trị rất quan trọng trong q trình
lĩnh hội tri thức của học sinh. Thơng qua thí nghiệm, các bài tập thực tiễn, từ
những điều học sinh quan sát được, học sinh sẽ tin tưởng vào khoa học, các em sẽ
có hứng thú hơn trong nghiên cứu khoa học và từ đó mới hình thành phẩm chất
sáng tạo khoa học.
Thực tế hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực đã
được quan tâm ở tất cả các bộ mơn, trong đó có mơn hóa học, thí nghiệm thực
hành hóa học đã được tăng cường nhiều hơn bởi qua thí nghiệm từ những hiện
tượng quan sát được mà học sinh suy ra được tính chất của chất, hiểu được bản
chất của hóa học là sự biến đổi từ chất này thành chất khác. Khắc sâu kiến thức và
vận dụng tốt vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều bài tập hóa học cịn xa rời thực tiễn, thực nghiệm.
Bài tập cịn q chú trọng vào thuật tốn hàn lâm mà chưa quan tâm nhiều đến bản
chất hóa học, các bài tập hóa học đang ưu tiên cho việc giải quyết nhanh, đúng kết
quả cuối cùng mà quên bản chất, qn thực tiễn thực nghiệm của nó, thậm chí là
sai và phi thực tế. Thí nghiệm thì các giáo viên giảng dạy sơ sài, dạy chay qua mơ
hình vẽ bảng do thiếu hóa chất, dụng cụ và thiếu lịng đam mê khoa học. Chính


những điều đó làm cho học sinh không hiểu bản chất vấn đề, không khắc sâu về
kiến thức, dẫn đến chán học, thiếu đam mê và sáng tạo.
Trả lại bản chất mơn học Hóa học là việc phải đặc biệt phải được quan tâm
và làm ngay. Dạy học hóa học phải gắn với các vấn đề thực tiễn, thực nghiệm trong
các nhà trường trung học, rèn cho các em tư duy thao tác thực hành. Đó là lí do
chúng tơi chọn đề tài “Dạy học Hóa học gắn với các bài tập thực tiễn, thực
nghiệm – Hóa học THPT”.
Tuy vậy, vấn đề thực tiễn trong mơn Hóa học rất rộng. Trong phạm vi đề tài
này, chúng tôi mới chỉ đề cập đến một số bài gắn với phần hóa học vơ cơ.
1


PHẦN 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1. Cơ sở khoa học.
1.1. Năng lực và sự phát triển năng lực hóa học cho học sinh THPT.
1.1.1. Khái niệm về năng lực.
Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT về Ban hành Chương trình giáo dục phổ
thơng: “Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất
sẵn có và q trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các
kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,...
thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong
những điều kiện cụ thể”.
1.1.2. Năng lực chun biệt mơn hóa học.
Theo Chương trình giáo dục phổ thơng 2018, ngồi phát triển năng lực cốt
lõi cho học sinh (gồm năng lực chung và năng lực chuyên mơn) thì cịn hình thành
và phát triển cho các em năng lực đặc thù mơn học. Trong đó năng lực cốt lõi là
năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kỳ ai cũng cần phải có để sống, học tập và làm
việc hiệu quả. Còn năng khiếu là những năng lực đặc biệt về trí tuệ, văn nghệ, thể
thao, kỹ năng sống… nhờ tố chất sẵn có ở mỗi người.
Mục tiêu của hóa học phổ thơng là hình thành và phát triển cho học sinh

năng lực hóa học; đồng thời cùng với các môn học, hoạt động giáo dục khác hình
thành, phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung, đặc biệt là
thế giới quan khoa học; hứng thú học tập, nghiên cứu; tính trung thực; thái độ tôn
trọng các quy luật của thiên nhiên, ứng xử với thiên nhiên các yêu cầu của phát
triển bền vững.
Khi học sinh học hóa học, các em sẽ được tiếp thu kiến thức khoa học phổ
thông cơ bản về các đối tượng hóa học quan trọng trong tự nhiên và đời sống, tâp
trung vào hiểu biết các khái niệm cơ bản của hóa học, về chất và sự biến đổi giữa
các chất, cơng nghệ hóa học, hóa học môi trường và các ứng dụng của chúng trong
đời sống tự nhiên. Qua đó các em được hình thành và phát triển các năng lực
chun biệt của mơn Hóa học gồm:
- Năng lực sử dụng ngơn ngữ hóa học: Năng lực sử dụng biểu tượng hóa học;
Năng lực sử dụng thuật ngữ hóa học; Năng lực sử dụng danh pháp hóa học.
- Năng lực thực hành hóa học: Năng lực tiến hành thí nghiệm, sử dụng thí nghiệm
an tồn; Năng lực quan sát, mơ tả, giải thích các hiện tượng thí nghiệm và rút ra kết
luận; Năng lực xử lý thơng tin liên quan đến thí nghiệm.
- Năng lực tính tốn hóa học: Tính tốn theo khối lượng chất tham gia và tạo thành
sau phản ứng; Tính tốn theo mol chất tham gia và tạo thành sau phản ứng; Tìm ra
2


được mối quan hệ và thiết lập được mối quan hệ giữa kiến thức hóa học với các
phép tốn học; Vận dụng các thuật tốn để tính tốn trong các bài tốn hóa học.
- Năng lực giải quyết vấn đề thơng qua mơn hóa học: Phát hiện và nêu được tình
huống có vấn đề trong học tập mơn hóa học. Phân tích được tình huống trong học
tập mơn hóa học; Xác định được và biết tìm hiểu các thơng tin liên quan đến vấn
đề phát hiện trong các chủ đề hóa học; Đề xuất được giải pháp giải quyết vấn đề đã
phát hiện; Lập được kế hoạch để giải quyết một số vấn đề đơn giản; Thực hiện
được kế hoạch đã đề ra có sự hỗ trợ của giáo viên.
- Năng lực vận dụng kiến thức hoá học vào cuộc sống: Năng lực phân tích tổng

hợp các kiến thức hóa học vận dụng vào cuộc sống thực tiễn; Năng lực phát hiện
các nội dung kiến thức hóa học được ứng dụng trong các vấn để các lĩnh vực khác
nhau; Năng lực phát hiện các vấn đề trong thực tiễn và sử dụng kiến thức hóa học
để giải thích; Có năng lực hệ thống hóa kiến thức.
1.1.3. Năng lực vận dụng kiến thức.
“Năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn là khả năng chủ thể vận
dụng tổng hợp những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú,... để
giải quyết có hiệu quả các vấn đề của thực tiễn có liên quan đến hóa học.”
Các biểu hiện của năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn của
học sinh THPT được mô tả như sau:
- Khả năng hệ thống hóa được các kiến thức. Năng lực này có các mức độ
thể hiện: Hệ thống hóa, phân loại được kiến thức hóa học, hiểu rõ đặc điểm, nội
dung, thuộc tính của loại kiến thức hóa học đó. Khi vận dụng kiến thức chính là
việc lựa chọn kiến thức một cách phù hợp với mỗi hiện tượng, tình huống cụ thể
xảy ra trong cuộc sống, tự nhiên và xã hội.
- Khả năng phân tích, tổng hợp các kiến thức hóa học vận dụng vào cuộc
sống thực tiễn. Các mức độ thể hiện của năng lực này gồm: Định hướng được các
kiến thức hóa học một cách tổng hợp và khi vận dụng kiến thức hóa học có ý thức
rõ ràng về loại kiến thức hóa học đó được ứng dụng trong các lĩnh vực gì, ngành
nghề gì, trong cuộc sống, tự nhiên và xã hội.
- Khả năng phát hiện các nội dung kiến thức hóa học được ứng dụng trong
các vấn đề, các lĩnh vực khác nhau. Năng lực này thể hiện ở việc: Phát hiện và hiểu
rõ được các ứng dụng của hóa học trong các vấn đề thực phẩm, sinh hoạt, y học,
sức khỏe, khoa học thường thức, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và môi
trường.
- Khả năng phát hiện các vấn đề trong thực tiễn và sử dụng kiến thức hóa
học để giải thích. Năng lực này được thể hiện: Tìm mối liên hệ và giải thích được
3



các hiện tượng trong tự nhiên và các ứng dụng của hóa học trong cuộc sống dựa
vào các kiến thức hóa học và các kiến thức của các mơn khoa học khác.
- Khả năng độc lập sáng tạo trong việc xử lí các vấn đề thực tiễn. Mức độ
thể hiện của năng lực này là: Chủ động sáng tạo lựa chọn phương pháp, cách thức
giải quyết vấn đề; Có năng lực hiểu biết và tham gia thảo luận về các vấn đề hóa
học liên quan đến cuộc sống thực tiễn và bước đầu biết tham gia nghiên cứu khoa
học để giải quyết các vấn đề đó.
Như vậy, năng lực vận dụng kiến thức được mô tả thông qua 5 năng lực
thành phần và có các mức độ thể hiện cụ thể của mỗi năng lực.
1.1.4. Những biện pháp phát triển năng lực vận dụng kiến thức cho học sinh.
Để phát triển cho học sinh năng lực vận dụng kiến thức, chúng ta cần thực
hiện các biện pháp:
- Giáo viên cần trang bị cho cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, vững
vàng, sâu sắc về các khái niệm, các định luật, các tính chất, các quy luật...
- Đưa ra các tình huống để học sinh vận dụng kiến thức theo các cấp độ từ
dễ đến khó, tăng cường các tình huống gắn liền với bối cảnh cụ thể (thực tiễn đời
sống, thí nghiệm thực hành), tăng cường câu hỏi mở, câu hỏi yêu cầu học sinh sử
dụng kiến thức nhiều bài, nhiều lĩnh vực, câu hỏi tích hợp.
- Rèn cho học sinh khả năng biết tự đặt ra vấn đề, giải quyết vấn đề, kiểm tra
cách giải quyết vấn đề, khơng thỏa mãn với những cái có sẵn, ln ln tìm ra cách
giải quyết mới trong cả những dạng bài tập quen thuộc cũng chính là rèn khả năng
độc lập suy nghĩ, tăng tính sáng tạo cho học sinh.
- Thông qua việc hướng dẫn học sinh ra đề, tự giải và tự kiểm định kết quả.
Tích cực liên hệ giữa các kiến thức lý thuyết với các hiện tượng thực tiễn, các vấn
đề liên quan trong thực tiễn đời sống và sản xuất, năng lực vận dụng kiến thức của
học sinh sẽ phát triển.
- Khuyến khích học sinh lập nhóm, cùng tìm hiểu, nghiên cứu một số vấn đề mang
tính thực tế, cấp thiết: lập kế hoạch, thực nghiệm, báo cáo kết quả (dù thành công
hay thất bại).
1.2. Bài tập hóa học.

1.2.1. Khái niệm về bài tập hóa học.
Bài tập hóa học (BTHH) là những bài tốn, những câu hỏi hay đồng thời cả
bài toán và câu hỏi thuộc về hóa học mà trong khi hồn thành chúng, học sinh nắm
được một tri thức hay kĩ năng nhất định.

4


Câu hỏi là những bài làm mà trong quá trình hoàn thành chúng, học sinh
phải tiến hành một hoạt động tái hiện. Trong các câu hỏi, giáo viên thường yêu cầu
học sinh phải nhớ lại nội dung của các định luật, quy tắc, khái niệm, trình bày lại
một mục trong sách giáo khoa,…cịn bài tốn là những bài làm mà khi hoàn thành
chúng, học sinh phải tiến hành một hoạt động sáng tạo gồm nhiều thao tác và nhiều
bước.
1.2.2. Ý nghĩa của bài tập hóa học.
Trong dạy học hóa học ở trường phổ thơng, bài tập hóa học có ý nghĩa và tác
dụng rất to lớn trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo. Bài tập hóa học vừa là mục
đích, vừa là nội dung lại vừa là phương pháp dạy học (PPDH) hiệu quả.
Bài tập hóa học giúp học sinh hiểu sâu hơn và làm chính xác hố những khái
niệm HH; đồng thời mở rộng sự hiểu biết một cách sinh động phong phú không
làm nặng nề khối lượng kiến thức của học sinh.
Sử dụng bài tập hóa học giúp học sinh ơn tập, hệ thống hố kiến thức đã học
một cách chủ động tích cực.
Bài tập hóa học giúp học sinh thường xuyên rèn luyện các kỹ năng kỹ xảo về
hóa học (sử dụng ngơn ngữ hóa học, lập cơng thức, cân bằng phương trình hóa
học; các tính tốn đại số: giải phương trình và hệ phương trình; kĩ năng nhận biết
các hóa chất…)
Bài tập hóa học là phương tiện cơ bản nhất để học sinh rèn luyện năng lực
vận dụng kiến thức, đặc biệt là vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống,
sản xuất, bảo vệ môi trường, biến kiến thức đã tiếp thu được thành kiến thức của

mình.
Giúp học sinh phát triển các năng lực tư duy logic, biện chứng, khái quát,
độc lập, thông minh và sáng tạo.
Là phương tiện để kiểm tra đánh giá kiến thức và kĩ năng của học sinh. Giáo
dục đạo đức; tính chính xác, kiên nhẫn, trung thực và lòng say mê khoa
học.
1.2.3. Xu hướng phát triển bài tập hóa học.
Hố học là khoa học nghiên cứu các chất, sự biến đổi và ứng dụng của
chúng, đó là mơn khoa học thực nghiệm. Hố học có vai trị rất quan trọng trong
cuộc sống của chúng ta. Hoá học đóng góp một phần rất quan trọng vào giải thích
các hiện tượng trong thực tế, giúp cho mỗi chúng ta có ý thức hơn về bảo vệ mơi
trường. Trong giảng dạy hoá học, nếu ta lồng ghép được các hiện tượng xảy ra
trong thực tế và những bài tập về bảo vệ mơi trường có liên quan đến bài học thì sẽ
làm cho bài học trở nên sinh động hơn, gây hứng thú, và sức thu hút với học sinh.
Có như thế, chất lượng dạy học mới được nâng lên và đạt hiệu quả cao. Các xu
5


hướng xây dựng bài tập hoá học mới hiện nay:
+ Loại bỏ những bài tập có nội dung hố học nghèo nàn nhưng lại cần đến những
thuật toán phức tạp để giải (hệ nhiều ẩn, nhiều phương trình, bất phương trình,
phương trình bậc hai, cấp số cộng, cấp số nhân,....)
+ Loại bỏ những bài tập có nội dung lắt léo, giả định rắc rối, phức tạp, xa rời hoặc
phi thực tiễn hoá học.
+ Tăng cường sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan.
+ Xây dựng bài tập về các hiện tượng thực tế và các bài tập về bảo vệ môi trường.
+ Xây dựng bài tập mới để rèn luyện cho học sinh năng lực phát hiện vấn đề và
giải quyết vấn đề.
+ Đa dạng hố các loại hình bài tập như bài tập bằng hình vẽ, bài tập vẽ đồ thị, bài
tập lắp dụng cụ thí nghiệm....

+ Xây dựng những bài tập có nội dung hố học phong phú, sâu sắc, phần tính tốn
đơn giản, nhẹ nhàng.
+ Xây dựng và tăng cường bài tập thực nghiệm định lượng.
1.2.4. Bài tập hóa học gắn với các vấn đề thực tiễn.
a. Khái niệm về bài tập hóa học thực tiễn.
Những bài tập hóa học có nội dung xuất phát từ thực tiễn hoặc những bài tập
vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống hoặc giải quyết được một vấn đề nào
đó của thực tiễn cuộc sống được gọi là bài tập hóa học thực tiễn.
Bài tập hóa học thực tiễn là những câu hỏi liên quan đến những vấn đề rất gần
gũi với thực tế đời sống mà khi trả lời học sinh không những phải vận dụng linh
hoạt các khái niệm, quy tắc, định luật hố học mà cịn phải nắm chắc và vận dụng
tốt những hệ quả của chúng. Các câu hỏi thực tế chú trọng đến việc chuyển tải kiến
thức từ lí thuyết sang những ứng dụng kĩ thuật đơn giản tương ứng, nên về mức độ
đối với học sinh, việc trả lời câu hỏi thực tế có phần khó khăn hơn so với việc giải
các bài tập định tính.
b. Vai trị, chức năng của bài tập hóa học thực tiễn.
Trong dạy học hóa học hiện nay, bài tập hóa học thực tiễn có vai trị hết sức
quan trọng đặc biệt là với quá trình hình thành và phát triển các năng lực cho học
sinh.
+ Việc lồng ghép các bài tập thực tiễn vào trong quá trình dạy và học, trước hết tạo
điều kiện cho việc học và hành gắn liền với thực tế, tạo cho học sinh sự hứng thú,
hăng say trong học tập.
6


+ Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực,
sáng tạo; lịng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến
thức vào cuộc sống.
+ Giúp cho học sinh có được những hiểu biết về thế giới tự nhiên và hoạt động của
nó, tác động của nó đối với cuộc sống của con người.

+ Học sinh nắm được những ảnh hưởng của những hoạt động của con người lên
thế giới tự nhiên. Từ đó, học sinh ý thức được hoạt động của bản thân trong cuộc
sống, đặc biệt là đối với vấn đề môi trường.
+ Phát triển kĩ năng nghiên cứu thực tiễn và kĩ năng tư duy để giải thích các hiện
tượng thực tiễn, ln chủ động trong cuộc sống.
+ Bài tập về các hiện tượng tự nhiên làm cho học sinh thấy các q trình hóa học
ln xảy ra trong quanh ta. Giải thích được các hiện tượng tự nhiên, các em sẽ u
thích mơn Hóa học hơn.
c. Phân loại bài tập hóa học thực tiễn.
c1. Dựa vào mức độ tư duy
- Bài tập mức độ biết: nhắc lại hoặc mô tả đúng kiến thức, kĩ năng đã học.
- Bài tập mức độ thông hiểu: diễn đạt đúng kiến thức hoặc mô tả đúng kĩ năng
đã học bằng ngơn ngữ theo cách của riêng mình và có thể sử dụng khi câu hỏi được
đặt ra tương tự hoặc gần với các ví dụ học sinh đã được học trên lớp.
- Bài tập mức độ vận dụng: kết nối và sắp xếp lại các kiến thức, kĩ năng đã học để
giải quyết thành cơng tình huống/vấn đề tương tự/vấn đề đã học (HS vượt qua cấp
độ hiểu đơn thuần và có thể sử dụng, xử lý các khái niệm của chủ đề trong các tình
huống tương tự nhưng khơng hồn tồn giống như tình huống đã gặp trên lớp).
- Bài tập mức độ vận dụng cao: tổng hợp các kiến thức, kĩ năng để giải quyết các
tình huống/vấn đề mới, khơng giống những tình huống/vấn đề đã được hướng dẫn;
có thể trước đây HS chưa từng được học hoặc trải nghiệm, nhưng có thể giải quyết
bằng các kỹ năng và kiến thức đã được dạy ở mức độ tương đương; đưa ra những
phản hồi hợp lí trước một tình huống/vấn đề mới trong học tập hoặc trong cuộc
sống.
c2. Dựa vào tính chất của bài tập
- Bài tập định tính: Bao gồm các bài tập về giải thích các hiện tượng, các tình
huống nảy sinh trong thực tiễn; lựa chọn hố chất cần dùng cho phù hợp với tình
huống thực tiễn, nhận biết, tinh chế, đề ra phương hướng để cải tạo thực tiễn…
- Bài tập định lượng: Gồm các tính lượng hố chất cần sử dụng để điều chế, lượng
sản phẩm tạo thành, pha chế dung dịch…

- Bài tập tổng hợp: Bài tập tổng hợp là những bài tập bao gồm cả những kiến thức
định tính và kiến thức định lượng.
7


Chương 2. Thực trạng việc thực hiện bài tập hóa học và làm thí nghiệm trong
dạy học hóa học THPT trong các nhà trường hiện nay.
2.1. Mô tả thực trạng trước khi tạo ra sáng kiến
Hiện nay số lượng và chất lượng bài tập hóa học thực tiễn và thí nghiệm
thực hành hóa học chưa đáp ứng được yêu cầu của việc dạy học nói chung và đặc
biệt là yêu cầu việc đổi mới dạy học nói riêng. Tình trạng đó có thể có nhiều
ngun nhân, phần vì kinh phí cho đầu tư của nhà trường còn hạn hẹp tuy đã có
nhiều cố gắng; phần vì trách nhiệm của nhà sản xuất (cịn mà khơng dùng được,
dùng được thì cũng chóng hỏng); phần vì thiếu một sự nhiệt huyết trong giảng dạy
và nghiên cứu khoa học của giáo viên; phần vì thiếu sự quản lí chỉ đạo, động viên
những giáo viên tâm huyết trong đổi mới PPHD, sử dụng và cải tiến sáng tạo thí
nghiệm thực hành hóa học hiện có…
Hiệu quả của việc tổ chức hoạt động học cịn tùy thuộc vào phương pháp sử
dụng các bài tập hóa học thực tiễn và thí nghiệm thực hành hóa học. Nếu một thí
nghiệm chỉ được sử dụng để minh họa và củng cố những điều giáo viên đã giảng
dạy về mặt lý thuyết sẽ hạn chế mất tư duy sáng tạo của học sinh, học sinh hầu như
không lĩnh hội được gì thêm về mặt kiến thức ngồi kĩ năng quan sát, thí nghiệm.
Nhưng nếu được sử dụng theo hướng tìm tịi nghiên cứu (khám phá) để đi
đến kiến thức cần lĩnh hội (kiến thức mới) sẽ có ý nghĩa to lớn hơn nhiều, nó giúp
học sinh có điều kiện, cơ hội phát triển tư duy sáng tạo, đó mới là điều mà nhà
trường cần có trách nhiệm giáo dục và đào tạo. Xây dựng thái độ học tập đúng đắn,
phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết,
năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Hiện nay hầu hết các bài tập hóa học có liên hệ thực tiễn hay các bài thực
hành thí nghiệm trong chương trình và sách giáo khoa THPT được bố trí ở cuối

mỗi chương chỉ mang tính chất củng cố minh họa cho các kiến thức lý thuyết đã
được trình bày trong các bài học của chương trình dưới hình thức phần lớn là “bày
sẵn” từng bước cho học sinh. Hơn nữa số tiết thực hành quy định trong chương
trình và sách giáo khoa cũng còn rất hạn chế. Tuy nhiên với việc tự chủ xây dựng
chương trình phù hợp với điều kiện thực tiễn nhà trường, chắc chắn số tiết thực
hành thi nghiện sẽ được nâng lên cho phù hợp với xu thế chung của giáo dục thế
giới và tương ứng với tính chất của các mơn khoa học thực nghiệm.
Trên hết, để thành cơng thì địi hỏi lịng nhiệt huyết và đam mê khoa học của
các thầy cô giáo đang trực tiếp giảng dạy trên ghế nhà trường vì học sinh thân yêu,
thế hệ tương lai của đát nước.

8


2.2. Điều tra thực trạng sử dụng BTHH thực tiễn trong dạy học ở trường
THPT hiện nay
Tiến hành xin ý kiến khảo sát của 44 giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ
mơn Hóa học và điều tra 210 học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Huyện
Quỳnh Lưu, Thị xã Hồng Mai và Thị xã Thái Hịa của tỉnh Nghệ An và thu được
kết quả sau:
- Với học sinh
Bảng 1.1: Kết quả điều tra học sinh về tần suất được sử dụng BTHH thực tiễn trong học

tập
Không

Rất
Tổng hợp nội dung câu hỏi

thường

xuyên

Thường
xuyên

Thỉnh
thoảng bao
giờ

1. Mức độ quan tâm đến BTHH có nội
dung thực tiễn.

61,3%

23,6%

11,4%

3,7%

2. Việc liên hệ kiến thức đã lĩnh hội vào
thực tiễn cuộc sống.

6,8%

11,5%

75,8%

5,9%


3. Mức độ thường xuyên hỏi thầy cô
giáo các câu hỏi, BTHH gắn với thực
tiễn.

0,9%

25,1%

43,3%

30,7%

4. Khi học về thí nghiệm thực hành, các
em có được tự tay làm thí nghiệm
khơng?

17,9%

32,8%

53,4%

4,1%

5. Các em có thường xun được các
thầy cơ giáo sử dụng thí nghiệm hóa
học trong dạy học không?

12,2%


18,6%

67,3%

1,9%

6.Trong giờ học, khi thầy cô đặt câu hỏi hoặc ra bài tập, em thường làm gì?
- Tập trung suy nghĩ tìm lời giải cho câu hỏi, bài tập và xung phong 11,1% trả
lời.
- Trao đổi với bạn, nhóm bạn để tìm câu trả lời tốt nhất.

30,6%

- Chờ câu trả lời từ phía các bạn và giáo viên.

58,3%

9


- Với giáo viên
Bảng 1.2. Tần suất giáo viên sử dụng bài tập hố học có nội dung thực tiễn trong
dạy học hóa học ở trường THPT (chọn 1 trong 4 phương án).
Rất thường
xuyên

Thường
xuyên


Thỉnh
thoảng

Không bao
giờ

Kết quả

6/ 44

13/44

25/44

0/44

Tỉ lệ (%)

13,6%

29,5%

56,8%

0,0 %

Bảng 1.3: Kết quả sử dụng bải tập hóa học gắn với nội dung thực tiễn khi tổ chức dạy học trên
lớp (có thể chọn cả 4 phương án).

Nghiên cứu

bài mới

Ơn tập,
luyện tập

Thực hành

Kiểm tra

Kết quả

21/44

34/44

8/44

36/44

Phần trăm

47,7%

77,3%

18,2%

81,8%

Bảng 1.4: Ý kiến của GV về sự cần thiết sử dụng BTHH có nội dung thực tiễn (chọn 1 trong 3

phương án).

Cần thiết

Không cần thiết

Ý kiến khác

Kết quả

44/24

0

0

Phần trăm

100%

0

0

Bảng 1.5: Kết quả tìm hiểu ngun nhân của việc ít hoặc khơng đưa bài tập thực tiễn vào trong
dạy học hóa học đối với giáo viên THPT (có thể chọn cả 4 phương án).

Nguyên nhân

Số GV


Phần trăm

Hạn chế về tài liệu

28/44

63,6%

Mất nhiều thời gian tìm kiếm, biên soạn

38/44

86,4%

Thời gian tiết học hạn chế

9/44

20,5%

10


2.3. Phân tích, đánh giá thực trạng sử dụng BTHH thực tiễn, thực hành thí
nghiệm trong dạy học ở trường THPT hiện nay
Qua số liệu ở các bảng trên, chúng tôi nhận thấy:
+ 100% giáo viên đều nhận thấy được tầm quan trọng của bài tập thực tiễn đối với
việc phát triển năng lực cho học sinh. Tuy nhiên, mức độ sử dụng những bài tập
này trong giảng dạy chưa cao (47,7%). Nguyên nhân của việc này được các giáo

viên giải thích do các tài liệu về bài tập hóa học thực tiễn còn chưa nhiều, việc biên
soạn những bài tập thực tiễn mất nhiều thời gian.
+ Kiến thức thực tiễn giáo viên khai thác còn nghèo nàn, bài tập chưa có sự phân
dạng cụ thể, kiến thức đưa vào cịn chưa có hệ thống, do đó học sinh vận dụng vào
thực tiễn còn chậm.
+ Việc sử dụng hạn chế các BTHH có tính thực tiễn hay thí nghiệm thực hành của
giáo viên cịn ít dẫn đến sự bị động trong học tập của học sinh. Hanh chế sự tìm
tịi, sáng tạo và vận dụng kiến thức ở học sinh. Kết quả có đến 58,3% học sinh chờ
đợi câu trả lời đến từ giáo viên, mặc dù bài tập do chính giáo viên đặt ra cho học
sinh.
+ Việc liên hệ giữa kiến thức lí thuyết và thực tiễn cịn hạn chế (25,1%) nên học
sinh vẫn chưa hình thành được thói quen liên hệ giữa những kiến thức lý thuyết
học được với thực tế xung quanh.
+ Thói quen tìm hiểu những hiện tượng trong cuộc sống của học sinh chưa được
hình
thành, sự trao đổi, đặt câu hỏi với giáo viên còn ít (25,1%). Từ đó hình thành tư
tưởng ỷ lại chờ câu trả lời từ phía giáo viên và các bạn (58,3%).
+ Đa số học sinh được hỏi đều quan tâm, hứng thú với những bài tập thực
tiễn(61,3%). Khi được giao những bài tập thực tiễn về nhà các em rất chăm chỉ tìm
hiểu, nghiên cứu để giải các bài tập đó.
Kết quả trên cho thấy việc xây dựng được một hệ thống bài tập hóa học gắn
với thực tiễn rất có ý nghĩa, sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học hóa học ở
trường trung học phổ thơng.

11


Chương 3. Giải pháp của sáng kiến.
3.1. Sử dụng hệ thống bài tập thực tiễn hóa học THPT
3.1.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống BTHH thực tiễn để sử dụng trong dạy học

Hóa học THPT.
Các bài tập hóa học thực tiễn được xây dựng dựa trên một số nguyên tắc
sau:
+ BTHH thực tiễn phải đảm bảo tính mục tiêu của chương trình, chứa đựng những
kiến thức, kĩ năng cần hình thành và định hướng phát triển năng lực giải quyết vấn
đề và năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống.
Ví dụ 1: Trong lĩnh vực xây dựng, trước đây người dân rất hay sử dụng vôi vữa
cùng với cát làm vật liệu kết dính. Em hãy trình bày ưu và nhược điểm của nó?
Nhận xét: Vơi tơi trộn với cát và nước trở thành vữa xây dựng vì nó có độ kết dính
với nhau. Khi dùng một thời gian CO 2 trong khơng khí sẽ tác dụng với vơi để hóa
đá theo phương trình:
CO2 + Ca(OH)2 CaCO3 + H2O.
Ngồi ra, cịn có: Ca(OH)2+SiO2→CaSiO3+H2O
Tuy nhiên cùng với thời gian nếu tường vơi bị ẩm do mưa thì CO 2 cũng là nguyên
nhân làm cho bức tường vôi bị hỏng, do đã xảy ra phản ứng hóa học:
CO2 + CaCO3 + H2O Ca(HCO3)2 .
+ BTHH thực tiễn phải đảm bảo tính tính phân hóa, tính vừa sức, phát huy tính tích
cực tìm tịi ở học sinh giúp các em phát triển năng lực học tập phù hợp với khả
năng bản thân. Cụ thể : Học sinh trung bình, yếu thì sử dụng câu hỏi mức biết và
hiểu; Học sinh khá, giỏi thì sử dụng câu hỏi mức vận dụng và vận dụng cao; Khi
kiểm tra, đánh giá cần xây dựng ma trận với sự phân bố các mức độ câu hỏi theo
các cấp độ tư duy theo tỉ lệ hợp lí để tạo điều kiện cho tất cả học sinh có thể trả lời
được câu hỏi kiểm tra.
Ví dụ 2: Nước nguyên chất không dẫn điện nhưng khi dây điện bị đứt rơi xuống ao
hồ rãnh nước, người chạm vào nước lại bị giật điện. Em hãy giải thích tại sao?
Nhận xét: Để trả lời câu hỏi trên, học sinh chỉ cần vận dụng kiến thức là nước là
dung mơi có thể hồ tan được rất nhiều chất tan khác nhau. Trong đó có rất nhiều
chất điện li. Bởi vậy nước tự nhiên dẫn điện.
Ví dụ 3: Khi làm bánh từ bột mì khơng có thuốc nở thì bánh khơng xốp nhưng nếu
trộn thêm vào bột mì một ít nước phèn nhơm-kali (K 2SO4.Al2(SO4)3.24H4O) và xơ

đa (Na2CO3.10H2O) thì bánh nở phồng, xốp sau khi nướng.
12


Phèn chua

Bánh Ga-to
(Hình 1)

a. Hãy giải thích hiện tượng trên.
b. Cần cho phèn và xôđa theo tỉ lệ khối lượng nào thì hợp lí?
c. Nếu ta thay phèn bằng một lượng dung dịch axit clohiđric vừa đủ vào hỗn
hợp bột trên có được khơng?
Nhận xét: Đối với loại bài tập này học sinh cần phải nắm vững về phản ứng thuỷ
phân của muối, phản ứng nhiệt phân của muối cacbonat. Đồng thời phải dựa trên
phương trình phản ứng để tính toán tỉ lệ khối lượng các chất đem trộn một cách
hợp lí.
+ Nội dung BTHH thực tiễn phải đảm bảo tính chính xác, tính khoa học, tính hiện
đại và tính thực tiễn. Việc giải quyết các bài tập thực tiễn sẽ rút ra được những bài
học cho bản thân. Từ đó có ý thức phổ biến và áp dụng kinh nghiệm đó vào thực tế
cuộc sống.
Ví dụ 4: Nhiệt độ thùng vơi tơi lên tới 1500 C và có pH = 13,1. Vì vậy nếu chẳng
may bị ngã vào thùng vơi mới tơi thì người đó vừa bị bỏng do nhiệt, vừa bị bỏng
do kiềm. Bỏng vôi tôi sẽ để lại những vết sẹo lồi, lõm hoặc loang lỗ trông rất xấu.
Nhưng nếu được sơ cứu kịp thời thì hậu quả để lại sẽ được giảm nhẹ rất nhiều.
Hãy lựa chọn một phương pháp sơ cứu mà em cho là có hiệu quả nhất trong các
phương pháp sau:
A. Dội nước lạnh liên tục vào vết bỏng cho sạch vôi rồi dùng dấm ăn dội lên.
B. Dội nước lạnh liên tục vào vết bỏng cho sạch vôi rồi phủ kem đánh răng lên.
C. Dội nước lạnh liên tục vào vết bỏng cho sạch vôi rồi dùng nước mắm đổ lên

(nước mắm có độ pH < 7,0).
D. Chỉ dội nước lạnh liên tục vào vết bỏng cho sạch vôi.
Nhận xét : Qua câu hỏi thực tiễn này, học sinh sẽ phân tích bài. Bỏng là do nhiệt
vậy phải chọn chất làm mát (nước lạnh). Ngoài ra bỏng là do kiềm vậy nên phải
dùng chất có mơi trường axit để xử lí, kem đánh răng có tính kiềm nên khơng
13


dùng, nước mắm có muối nên vết bỏng rất xót cũng khơng dùng, chỉ có dấm là có
tính axit nhẹ nên dùng là hợp lí. Vậy chọn phương án A.
+ Các BTHH thực tiễn được xây dựng phải đảm bảo tính đa dạng, có chứa nhiều
mâu thuẫn nhận thức, địi hỏi học sinh vận dụng nhiều kiến thức khác nhau để giải
quyết vấn đề học tập cũng như các vấn đề thực tiễn.
Ví dụ 5: Khi dạy bài nhơm và hợp chất của nhơm, để hình thành kiến thức về tính
lưỡng tính của Al(OH)3 , Giáo viên yêu cầu học sinh tiến hành các thí nghiệm với
hóa chất cho sẵn: Cho vào 2 ống nghiệm, mỗi ống 1 ml dung dịch AlCl 3 0,1M.
Tiếp tục nhỏ dung dịch NH3 đến dư vào 2 ống nghiệm. Tiếp theo:
Ống 1: Nhỏ từ từ đến dư dung dịch HCl vào.
Ống 2: Nhỏ từ từ đến dư dung dịch NaOH vào.
Quan sát hiện tượng, giải thích hiện tượng và kết luận tính chất của Al(OH)3?
Nhận xét: dưới sự tổ chức của giáo viên học sinh tiến hành các thao tác thí nghiệm,
kỹ năng làm thí nghiệm làm các em hứng thú và khắc sâu kiến thức về hiện tượng,
sự hào hứng thôi thúc các em tìm tịi lời giải thích cho hiện tượng đó qua các
phương trình hóa học của phản ứng. Từ đó kết luận nhôm hydroxit vừa tác dụng
với dung dịch axit, vừa tác dụng với dung dịch bazo nên nó là hợp chất lưỡng tính.
+ BTHH thực tiễn đảm bảo phát triển các thành tố của năng lực giải quyết vấn đề,
năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn cuộc sống.
Ví dụ 6: Bằng kiến thức hố học hãy giải thích tính khoa học của câu ca dao:
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Hễ ghe tiếng sấm phất cờ mà lên”

Nhận xét : Kiến thức bài học được dùng để giải quyết về thực tế đồng ruộng ở
nông thôn, nơi chiếm phần lớn dân số Việt Nam và gần gũi với các em, nhất là các
em ở vùng đồng bằng nông thôn. Hiện tượng cây trồng tươi tốt sau cơn mưa giơng
có thể là điều các em đã biết, câu ca dao các em cũng có thể quen qua lời đọc của
thế hệ ông bà, cha mẹ. Tuy nhiên giải thích dưới con mắt khoa học Hóa học thì đó
là điều mới mẻ với các em, sẽ gây hứng thú rất lớn để các em lĩnh hội kiến thức.
3.1.2. Sử dụng hệ thống các bài tập thực tiễn hóa học THPT.
3.1.2.1. Các bài tập tự luận.
Bài 1. Đồng dẫn điện tốt hơn nhơm, vì sao nhơm được dùng làm dây dẫn điện cao
thế, còn dây đồng lại được dùng làm dây dẫn điện trong nhà?
Hướng dẫn: Do nhơm có khối lượng riêng (2,7 g/cm 3) nhỏ hơn khối lượng riêng
của đồng (8,7 g/cm3) nên dù dẫn điện kém hơn đồng nhưng nhôm vẫn được sử
14


dụng làm dây dẫn ngồi trời vì cịn tính đến yếu tố trọng lực của dây dẫn. Ngoài ra
bề mặt của dây nhơm cịn có màng oxit mỏng mịn và bền bảo vệ. Cịn trong nhà do
hầu như khơng có yếu tố trọng lực, đồng thời tiết diện dây nhỏ (điện trở lớn) nên
chủ yếu là sử dụng dây dẫn điện bằng đồng.
Bài 2. Những hình ảnh mơ tả dưới đây về kim loại giúp các em liên tưởng đến tính
chất vật lý nào của chúng?

Đồ dùng bằng nhơm

Nhiệt kế thủy ngân

Đồ trang sức bằng vàng (Hình

2)
Hướng dẫn: mỗi một hình ảnh ứng dụng như vậy các em sẽ nhớ lại và liên hệ được

tính chất vật lí của kim loại đã học như Tính dẫn nhiệt tốt của Al; Nhiệt độ nóng
chảy thấp của thủy ngân; Tính ánh kim của vàng.
Bài 3. Để làm huân, huy chương người ta thường đúc chúng bằng sắt sau đó phủ
lên một lớp mạ bằng kim loại như đồng, bạc, vàng. Để lớp mạ bạc bám chắc, mịn,
bóng người ta sử dụng phương pháp xianua tức là điện phân dung dịch phức
xianua của bạc với quá trình xảy ra ở các điện cực như sau:
Anot: Ag(CN)2- + 1e → Ag + 2CN-.

+

Catot: 2H2O → 4H + O2 + 4e

Theo em :
a. Vật để mạ phải treo ở catot hay anot?
b. Viết phương trình phản ứng điện phân tổng quát.

Mạ bạc

Mạ vàng Mạ đồng
(Hình 3)

15


Hướng dẫn:
a. Vì kim loại Cu, Ag, Au khi mạ sinh ra ở catot nên vật cần mạ phải treo ở
cực âm (catot).
b. Phương trình điện phân tổng quát:
4R(CN)2- + H2O → 4R + O2 + 4HCN
Bài 4. Khi bị bỏng ngoài da do axit người ta thường dùng nước vơi lỗng, dung

dịch natri hiđrocacbonat lỗng, nước xà phịng, kem đánh răng để ngâm, rửa hoặc
bôi lên vết bỏng. Nhưng để trung hoà axit do uống nhầm người ta lại thường uống
nước vơi lỗng hoặc pha lịng trắng trứng (có tính kiềm) mà khơng dùng dung dịch
natri hiđrocacbonat. Em hãy giải thích vì sao khơng dùng dung dịch natri
hiđrocacbonat cho trường hợp uống nhầm axit?
Hướng dẫn: Để giải tốt loại bài tập này học sinh cần vận dụng tốt tính chất hố học
của muối hiđrocacbonat là trong mơi trường axit nó dễ phân huỷ tạo khí CO 2. Sự
thốt khí cacbonic nhiều và mạnh có thể gây sốc cho nạn nhân.
Bài 5. Bảng dưới đây cho biết giá trị pH của một số dung dịch các chất:
Dung dịch

A

B

C

D

E

pH

10

3

2,1

7


8

Hãy dự đoán:
a. Dung dịch nào có thể là dịch vị dạ dày? (Dịch vị dạ dày có nồng độ axit
clohiđric là 0,032 mol/lit).
b. Dung dịch nào có thể là nước vơi trong?
c. Dung dịch nào có thể là dung dịch muối ăn?
d. Dung dịch nào có thể là dấm, nước cam ép?
e. Dung dịch nào có thể là nước biển, biết rằng nước biển có mơi trường kiềm
yếu.
g. Hãy cho biết dung dịch nào có thể hồ tan được viên canxinol (có thành phần
gồm CaCO3, CaF2, CaHPO4, Mg(OH)2). Viết phương trình phản ứng.
Hướng dẫn:
a. Dịch vị dạ dày có nồng độ axit HCl là 3,2.10-2M nên có pH = 2,1 (đáp án C).
b. Dung dịch nước vôi trong là một dung dịch bazo mạnh nên có pH = 10 (đáp
án A).
c. Dung dịch muối ăn là mơi trường trung tính nên pH = 7 (đáp án D).
16


d. Dung dịch dấm hay nước cam ép có mơi trường axit nhẹ nên pH là 3 (đáp án
B).
e. Nước biển có mơi trường kiềm yếu nên pH = 8 (đáp án E).
g. Các chất trong thành phần của viên canxinol là muối của axit yếu và hydroxit
có tính bazo yếu nên có thể dùng các dung dịch có tính axit để hịa tan. Vậy có thể
dùng các dung dịch B và C để hòa tan viên canxinol.
Bài 6. Tiến hành thí nghiệm sau: Cắt một mẩu nhỏ kim loại Na bằng hạt đỗ và cho
vào ống nghiệm đựng nước (có nhỏ vài giọt phenolphthalein). Quan sát hiện tượng
và giải thích?

Hướng dẫn:
- Học sinh hiểu biết về cách cắt một mẩu kim loại mạnh như Na ra khỏi khối lớn là
dùng dao ấn mạnh vào khối Na mà không được day cắt, vì như thế sẽ xảy ra cháy
nổ.
- Hiện tượng: Mẩu Natri nổi trên mặt nước, chạy trên mặt nước rồi tan dần đồng
thời có khí thốt ra. Dung dịch chuyển sang màu hồng.
Giải thích:
+ Natri (Na) là kim loại nhẹ, đồng thời phản ứng tạo bột khí H 2 bám kín bề mặt Na
làm nó nổi lên trên mặt nước. Đồng thời do phản ứng tỏa nhiệt làm Na nóng chảy,
sinh khí H2 làm thay đổi lực bề mặt nên Na chuyển động trên mặt nước. Phương
trình hóa học:
2Na + 2H2O → 2NaOH + H2
+ NaOH sinh ra làm phenolphthalein chuyển sang màu hồng.
Bài 7. Dùng dao cắt một mẩu Na thấy mặt cắt có ánh kim nhưng sau một thời gian
ánh kim này biến mất. Giải thích và viết các phương trình hóa học xảy ra?
Hướng dẫn: Natri là kim loại có vẻ sáng ánh kim. Khi mới cắt có ánh kim đó là
ánh kim của Na kim loại. Tuy nhiên sau một thời gian Na bị oxi hóa bởi khơng khí
(gồm Oxi và hơi nước) nên bị mờ dần theo phương trình phản ứng:
(1)

4Na + O2 → 2Na2O ;

(2)

2Na + 2H2O → 2NaOH + H2

(3)

Na2O + 2H2O → 2NaOH;


(4)

2NaOH + CO2 → Na2CO3 + H2O

2Na + O2 → Na2O2

2Na2O2 + 2H2O → 4NaOH + O2

Các hợp chất sinh ra phủ trên bề mặt của mẩu Na làm mất tính ánh kim.
17


Bài 8. Trong nông nghiệp, người nông dân sử dụng tro bếp như một loại phân bón.
Em hãy giải thích việc làm trên?
Hướng dẫn: Tro bếp có chứa đến 30 nguyên tố khác nhau (K, Ca, Mg, Fe, Mn, P,
C, B…), trong 100 gam tro có 3-6 gam photpho, 8 – 16 gam kali, 20 – 25 gam
Ca…. Vì thế tro bếp được coi là một loại phân bón cung cấp kali và phôtpho cho
cây trồng. Phân kali giúp cây chịu được thời tiết khắc nhiệt như trời lạnh, mặt khác
trong tro bếp kali tồn tại ở dạng K2CO3 vì thế tro bếp rất phù hợp với loại đất chua.
Bài 9. Viên nén Canxinol của Pháp có thành phần gồm canxi cacbonat và axit
citric (có cơng thức C3H4OH(COOH) 3). Khi thả vào nước thấy viên nén tan
nhanh và sủi bọt. Em hãy giải thích hiện tượng đó và cho biết nước ở đây có vai
trị gì? Từ đó suy ra cách bảo quản viên thuốc trên?
Hướng dẫn:
- Axit citric tan trong nước tạo ra dung dịch có mơi trường axit, dung dịch axit này
dễ dàng hòa tan CaCO3 tạo bọt khí CO2:
CaCO3 + 2H+ → Ca2+ + CO2 + H2O
- Nước đóng vai trị dung mơi, để axit citric điện li tạo thành mơi trường axit. Vì
vậy để bảo quản thuốc cần bảo quản hộp kín và để nơi khơ ráo.
Bài 10. Em hãy giải thích tại sao phích đựng nước nóng lâu ngày thường có một

lớp cặn dưới đáy?. Để khử cặn, người ta có thể dùng giấm pha vào nước trong ấm
ngâm vài tiếng rồi súc sạch. Em hãy giải thích cách làm đó và viết phương trình
phản ứng xảy ra nếu có?
Hướng dẫn:
- Nước tự nhiên hoặc nước trong bể chứa là nước cứng, thường có chứa một lượng
muối Ca(HCO3)2 và Mg(HCO3)2 nhất định.
- Khi đun nóng sẽ sinh ra các chất kết tủa (CaCO3 và MgCO3), chúng lơ lửng dạng
huyền phù trong nước, để lâu ngày sẽ lắng xuống hình thành nên một lớp cặn:
Ca(HCO3)2 → CaCO3↓ + CO2 + H2O
Mg(HCO3)2 → MgCO3↓ + CO2 + H2O
- Để khử cặn, người ta dùng giấm pha vào nước vì giấm (có chứa axit axetic) có
thể hịa tan hết các loại kết tủa đó:
CaCO3↓ + 2CH3COOH → (CH3COO)2Ca + CO2 + H2O
MgCO3↓ + 2CH3COOH → (CH3COO)2Mg + CO2 + H2O

18


Bài 11. Hãy giải thích câu tục ngữ: “Nước chảy đá mịn” bằng kiến thức hóa học?
Hướng dẫn: Dân gian thường có câu “Nhất thủy nhì hỏa” để nói lên sự tàn phá,
hủy diệt ghê gớm của sức nước. Nước chảy có thể cuốn trơi mọi thứ, nên việc nước
chảy đá mơn” học sinh sẽ nghĩ ngay đến mịn về cơ học. Tuy nhiên đó khơng phải
là ý của câu hỏi thực tiễn trên, việc giải thích phải dựa trên kiến thức hóa học cho
một hiện tượng thực tế là ở nơi nào có nước chảy, nước tác dụng cơ học thì đá bị
bào mịn. Đó là do trong nước tự nhiên có hịa tan một lượng khí CO 2, vì vậy nước
có khả năng ăn mịn đá vơi theo phản ứng:
CaCO3 + CO2 + H2O Ca(HCO3)2.
Mặt khác, CaCO3 vẫn tan ít trong nước.
CaCO3 Ca2+ + CO32- Tích số tan của nó T = [Ca2*] [CO32-] = 4,65.10-9.
Trong dịng nước chảy, nồng độ các ion ln thấp hơn tích số tan, nên cân bằng

trên sẽ chuyển qua chiều thuận, kết quả CaCO3 tan dần
Bài 12. Trong các hang động của núi đá vôi nhiều chỗ nhũ đá tạo thành bức rèm
đá lộng lẫy nhiều chỗ lại tạo thành rừng măng đá, có chỗ lại tạo thành các cây cột
đá vĩ đại (do nhũ đá và măng đá nối với nhau) trơng rất đẹp. Bằng sự hiểu biết
của mình em hãy giải thích sự tạo thành nhũ đá, măng đá. Viết phương trình hóa
học của phản ứng?

Sự tạo nhũ trong hang động

(Hình 4)
Hướng dẫn: Do quá trình hoạt động địa chất đã hình thành nên các hang động tự
nhiên trong long đất.
- Trên đỉnh các hang động, núi đá vơi có các kẽ nứt rất nhỏ khiến nước mưa thấm
dần xuống kết hợp với đá vơi và khí cacbonic trong khơng khí tạo thành muối
canxi hiđrocacbonat tan chảy xuống theo phương trình hóa học
CaCO3 + CO2 + H2O Ca(HCO3)2
- Trong q trình chảy giọt, một phần muối canxi hiđrocacbonat phân hủy chậm ở
nhiệt độ thấp trong hang động chuyển lại thành đá vôi, ngày qua ngày tạo thành
nhũ đá. Một phần muối canxi hiđrocacbonat rơi xuống đất rồi lại phân hủy mới
chuyển thành đá vôi, qua thời gian dài tạo thành măng đá.
19


Ca(HCO3)2 CaCO3 + CO2 + H2O
Bài 13. Quần áo giặt bằng nước cứng thì xà phịng khơng ra bọt, tốn xà phịng và
làm quần áo chóng hư hỏng. Hãy giải thích hiện tượng trên, viết phương trình hóa
học xảy ra.
Hướng dẫn: Xà phòng là muối natri, kali của axit béo, khi sử dụng xà phòng
((RCOONa, RCOOK – R là gốc axit béo) trong nước cứng sẽ xảy ra phản ứng hóa
học tạo kết tủa. Kết tủa đó làm xà phịng khơng tạo bọt và giảm hoạt tính tẩy rửa

của xà phịng, đồng thời kết quả đó bám bào sợi vải của quần áo làm sợi vải cứng
lại, và như vậy quần áo sẽ chóng hỏng.
Ca2+ + 2RCOO- → (RCOO)2Ca ↓
Mg2+ + 2RCOO- → (RCOO)2Mg ↓
Bài 14. Để khử chua cho đất, người nơng dân thường dùng vơi sống để bón ruộng.
Cách làm như sau: để những cục vôi sống vào chỗ râm mát trong vài ngày, vôi
sống sẽ dần bở tơi ra thành bột mịn và đem vãi ra đất ruộng đã cày ải.
a. Hãy cho biết vơi tơi bón ruộng đó gồm có những chất gì? Giải thích và viết các
phương trình phản ứng tạo ra những chất đó.
b. Vì sao người ta khơng dùng vơi sống bón trực tiếp cho đất, cho cây trồng mà lại
dùng vôi đã bở tơi đó?
Hướng dẫn:
a. Khi để vơi sống trong khơng khí ở chỗ râm mát vài ngày sẽ xảy ra phản ứng:
CaO + H2O → Ca(OH)2
CaO + CO2 → CaCO3
Ca(OH)2 + CO2 → CaCO3 + H2O
 Thành phần của vôi lúc này là CaCO3, Ca(OH)2 và cả CaO.
b. Người ta khơng sử dụng trực tiếp vơi sống bón cho đất, cho cây trồng vì:
- Phản ứng: CaO + H2O → Ca(OH)2 là phản ứng tỏa rất nhiều nhiệt vì vậy có thể
làm bỏng da khi dùng nó, nếu bốn trực tiếp cho cây trồng sẽ gây hiện tượng cháy
lá, đồng thời nó cũng diệt cả các vi sinh vật có lợi và có hại cho cây.
- Việc bón vơi có rất nhiều tác dụng trong nông nghiệp trồng trọt. Thứ nhất có thể
khử chua cho đất, tùy loại đất, độ chua mà người nơng dân sẽ có kinh nghiệm để
dùng lượng vơi phù hợp. Thứ 2 khi bón vơi cung cấp thêm nguyên tố canxi rất tốt
cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng, giúp cây trồng chịu bệnh tốt.

20


Bài 15. Trên bề mặt vỏ trứng gia cầm có những lỗ khí nhỏ nên khơng khí và vi sinh

vật có thể xâm nhập, hơi nước trong trứng thốt ra, lượng cacbon đioxit tích tụ
trong trứng tăng làm trứng nhanh bị hỏng. Để bảo quản trứng tươi lâu, người ta
đã nhúng trứng vào dung dịch nước vôi rồi vớt ra để ráo để các lỗ khí được bịt lại.

(Hình 5)
a. Lỗ khí đó được bịt bởi chất gì?
b. Khi chọn trứng người ta thường soi trứng trước ánh sáng để xem buồng khí
trong trứng lớn hay nhỏ từ đó biết được trứng đó có tươi mới hay khơng. Theo em,
ta nên chọn quả có buồng khí lớn hay nhỏ? Vì sao?
Hướng dẫn:
a. Khi nhúng trứng vào trong nước vôi, xảy ra phản ứng:
Ca(OH)2 + CO2 → CaCO3 + H2O
Chất bị các lỗ khí chính là CaCO3
b. Khi chọn trứng người ta chọn những quả trứng có buồng khí nhỏ, vì trứng mới
thì lượng khí sẽ tích tụ ít.
Bài 16. Tại sao không sử dụng những xô, chậu bằng nhôm để đựng vôi, vữa?
Hướng dẫn: Dụng cụ như xô, chậu bằng nhơm có các thành phần: bề mặt là màng
oxit mỏng, mịn bền đang bảo về kim loại nhôm bên trong. Khi dùng đựng vơi, vữa
với thành phần chính là Ca(OH) 2 có tính bazo mạnh. Chất này sẽ phá hủy xơ, chậu
nhơm theo các phương trình phản ứng:
- Đầu tiên màng oxit nhôm bị phá hủy:
Al2O3 + Ca(OH)2 → Ca(AlO2)2 + H2O (1)
- Tiếp theo nhom tác dụng với nước:
2Al + 6H2O → 2Al(OH)3 + 3H2 (2)
- Hydroxit nhôm sinh ra lại bị vôi tôi phá hủy:
2Al(OH)3 + Ca(OH)2 → Ca(AlO2)2 + 4H2O (3)
Trong đó phương trình (2) và (3) xảy ra liên tục và chậu nhôm bị thủng, hỏng.
21



Bài 17. Sự cháy là phản ứng hóa học có tỏa nhiệt và ánh sáng. Quá trình cháy là
quá trình biến đổi lý hóa tỏa nhiệt phức tạp của hỗn hợp cháy và chất oxy hóa tạo
thành sản phẩm cháy. Để có phương án chữa cháy hiệu quả người ta phân loại
các đám cháy thành các loại A, B, C, D, E. Trong đó: Loại A là đám cháy các chất
rắn (thông thường là các chất hữu cơ) khi cháy thường kèm theo sự tạo ra than
hồng; Loại B là đám cháy các chất lỏng và chất rắn hóa lỏng; Loại C là đám cháy
các chất khí; Loại D là đám cháy các kim loại; Loại E là đám cháy dầu và mỡ của
động vật hay thực vật trong các thiết bị nấu nướng.
Hiện nay có hai loại bình chữa cháy được sử dụng nhiều là Bình chữa cháy CO 2
và Bình chữa cháy dạng bột khơ BC và ABC với tác dụng như hình cho dưới đây:

(Hình 6)
Bằng kiến thức hóa học em hãy giải thích tại sao khơng dùng bình chữa cháy khí
CO2 để dập các đám cháy loại A và loại C?
Hướng dẫn: Các đám cháy loại A là các đám cháy tạo ra than hồng nên nếu dùng
bình chữa cháy khí CO2 sẽ khơng dập được đám cháy mà ngược lại cịn tạo ra
nhiều khí độc CO nguy hiểm:
C(nóng đỏ) + CO2(chất chữa cháy) → 2CO (khí than, độc)
Cịn các đám cháy loại C nếu dùng khí CO 2 khơng thể làm ngạt được chất cháy với
chất oxi hóa trong mơi trường.
Bài 18. Quy trình Bayer để tách alumina (Al 2 O3) ra khỏi tạp chất như Fe 2O3, SiO2
và các chất bẩn khác. Chất thải chính của quy trình bayer là bùn đỏ (hình ảnh).

(Hình 7): Sự cố vỡ đập chứa bùn đỏ tại
Hungari 2010

22


a. Hãy cho biết tại sao bùn đỏ có thể gây hại cho môi trường?

b. Hãy đề xuất giải pháp để phòng tránh hiện tượng vỡ đập hồ chứa bùn đỏ tại các
nhà máy sản xuất alumina Tân Rai và Nhân Cơ tại Tây Nguyên Việt Nam.
Hướng dẫn:
a. Chất thải của công nghệ Bayer để tinh chế nhôm oxit là bùn đỏ. Độ pH của bùn
đỏ cũng rất lớn, do dung dịch NaOH dùng để nung chảy là rất đậm đặc. Bùn đỏ đủ
độc hại để giết chết động vật và thực vật, và thậm chí có thể gây bỏng, làm tổn
thương đường hơ hấp.
b. Giải pháp để phịng tránh hiện tượng vỡ đập hồ chứa bùn đỏ tại các nhà máy sản
xuất alumina Tân Rai và Nhân Cơ:
- Gia cố các đập hồ sẵn có, xây dựng hệ thống giếng kiểm sốt việc rị rỉ, thẩm
thấu.
- Nghiên cứu các phương pháp để có thể xử lý bùn đỏ (biến thành nguyên liệu hoặc
nhanh chóng chuyển bùn đỏ thành trạng thái rắn )
Bài 19. Giải thích tại sao nhơm có tính khử mạnh hơn sắt nhưng trong khơng khí
ẩm, các vật liệu bằng nhơm khơng bị gỉ cịn các vật liệu từ sắt lại bị gỉ?
Hướng dẫn:
- Vật liệu bằng nhơm bền trong khơng khí và bền trong nước là do trên bề mặt của
nhơm ln được phủ kín một lớp oxit nhôm rất mỏng, bền và mịn không cho nước
và khí thấm qua.
- Các vật liệu làm từ sắt như gang thép là hợp kim của sắt và cacbon. Trong khơng
khí ẩm, ban đầu lớp bề mặt bị ăn mịn điện hóa học:
+ Tại cực âm (anot) là Fe xảy ra sự oxi hóa : Fe → Fe2+ + 2e
Sau đó dưới tác dụng của oxi khơng khí, Fe2+ bị oxi hóa thành Fe3+.
+ Tại cực dương (catot) là C xảy ra sự khử khí O2:
O2 + 2H2O + 4e → 4OHSự kết hợp của Fe3+ với OH- sẽ sinh ra gỉ sắt (Fe2O3.nH2O), lớp oxit của sắt khác
với oxit của các kim loại khác (bám chặt trên bề mặt kim loại) lại phồng lên để cho
khơng khí và hơi nước tiếp tục lọt vào và ăn mòn tiếp lớp bên trong.
Bài 20. Tại sao một vật được làm bằng hợp kim sắt (gang, thép) bị gỉ rất nhanh
nếu trên bề mặt của nó bị dính nước muối, dung dịch giấm hoặc nước chanh?
Hướng dẫn:

23


- Quá trình gỉ của vật làm bằng hợp kim sắt trong khơng khí ẩm là q trình ăn
mịn điện hóa.
- Khi trên bề mặt của vật có nước muối hoặc nước chanh, đây là những dung dịch
của chất điện li, giúp cho q trình chuyển hóa các ion trong q trình ăn mịn một
cách nhanh chóng vì vậy tốc độ ăn mòn tăng nhanh nên vật bị ăn mòn (bị gỉ) rất
nhanh.
Bài 21. Các muối FeSO4 và Fe(HCO3)2 có nhiều trong nguồn nước ngầm làm cho
nước có mùi tanh, có màu vàng gây ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ của con người
nên cần phải loại bỏ. Phương pháp đơn giản để loại bỏ sắt như sau: Dùng giàn
phun mưa hoặc bể tràn để cho nước mới hút từ giếng khoan lên được tiếp xúc
nhiều với khơng khí rồi lắng, lọc. Hãy giải thích phương pháp loại bớt sắt trong
nước ở trên và viết các phương trình hóa học xảy ra?
Hướng dẫn: Ion Fe3+ dễ kết tủa hơn so với Fe 2+, vì thế để loại bớt sắt trong nước
người ta oxi hóa các hợp chất Fe(II) thành hợp chất Fe(III) kết tủa rồi lọc
4Fe2+ + O2 + 10H2O 4Fe(OH)3 + 8H+
Bài 22. Tại nhà máy gang thép Thái Nguyên, gang được sản xuất từ nguyên liệu
gồm quặng hematit (chứa 90% Fe2O3 và tạp chất trơ) và than cốc.
a. Viết các phương trình hóa học xảy ra trong lị cao luyện gang.
b. Xác định khối lượng quặng và khối lượng than cốc tối thiểu cần lấy để luyện
được 1 tấn gang (có chứa 96% Fe, 3% C cịn lại là các nguyên tố khác), biết hiệu
suất quá trình là 90%, khí lị cao chỉ chứa CO2 và N2.
Hướng dẫn: a. Các phản ứng xảy ra trong lò luyện gang:

24


b.

96.1000

- Khối lượng Fe trong gang là

- Khối lượng C trong gang là
m

kg 100
3.

 Fe2O3 phản ứng là

100

= 960

1000

960.160

= 30 kg

= 1371,4

kg 112

m

 Fe2O3 cần lấy là


1371, 4.100

=
1523,8 kg 90

m

 O trong Fe2O3 bị khử bằng

1731, 4.48

=

519,42kg 160
 nCO phản ứng = nC phản ứng = nO = 32,46 kmol
m

 C phản ứng = 389,52 kg
mC cần lấy = (389,5230).100 = 466,13 kg 90

Bài 23. Thủy ngân là 1 loại kim loại nặng rất độc. Người bị nhiễm thủy ngân bị
run chân tay, rung mí mắt, mất ngủ, giảm trí nhớ, rối loạn thần kinh… thậm trí có
thể bị tử vong khi bị nhiễm thủy ngân với nồng độ lớn ( lớn hơn 100 micro gam/
m3). Thủy ngân độc hơn khi ở thể hơi vì dễ dàng hấp thụ vào cơ thể qua nhiều con
đường như đường hô hấp, đường tiêu hóa, qua da… Vậy ta cần xử lý như thế nào
khi cần thu hồi thủy ngân rơi vãi ? Liên hệ với tình huống xử lý an tồn khi vơ tình
làm vỡ nhiệt kế thủy ngân trong phịng thí nghiệm?
Hướng dẫn:
- Khi thu hồi thủy ngân rơi vãi người ta thường sử dụng bột lưu huỳnh rắc lên
những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác dụng với thủy ngân ở nhiệt độ thường tạo

thành HgS dạng rắn và khơng bay hơi. Q trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản
hơn.
Hg + S → HgS
- Khi vơ tình làm vỡ nhiệt kế thủy ngân trong phịng thí nghiệm, cần rắc ngay bột
lưu huỳnh bao phủ tất cả các mảnh vỡ. Sau đó dùng chổi quét sạch, gói vào giấy và
cho vào thùng rác chuyên dụng của hóa học.

25


×