Những ngôi chùa nổi tiếng tại
Phan Thiết - Bình Thuận
4. LINH SƠN TỰ
Thiết lập vào những năm đầu của thế kỷ XIX trong khu rừng già
thuộc xã Vĩnh Hảo, huyện Tuy Phong ngày nay.
Sự tích ra đời của ngôi chùa được lưu truyền trong dân gian: đầu
thế kỷ XIX một nhà sư từ miền Trung vào, không biết vì lý do gì
đã ẩn vào một hang đá trong rừng. Dân làng đi rừng phát hiện
được tiếng tụng kinh ở hang đá vọng ra. Biết mình bị lộ, nhà sư
bỏ hang đá ra đi để lại một tấm bản đồ chỉ dẫn vị trí xây cất ngôi
chùa sau này. Theo đó dân làng đã chuyển vật liệu lên xây chùa.
Vị trí xây dựng chùa thật lý tưởng: cảnh núi rừng âm u, yên tĩnh
tạo nên sự thanh tịnh của giới tu hành. Xung quanh các đỉnh núi
tạo nên tả thanh long, hữu bạch hổ, nhiều hang đá tự nhiên hình
hàm ếch, hàm rồng, giếng rún rồng không bao giờ cạn nước,
hang Tổ Những hang động có sẵn của tự nhiên mà y như có sự
sắp đặt của bàn tay con người.
Thời chống Pháp, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, dân làng đã
dời tượng Phật vào giấu ở trong hang đá và phá dỡ chùa; mãi
đến năm 1986 - 1987, mới có điều kiện xây dựng lại ngôi chùa
trên nền xưa. Trước đó vài năm, nhà sư già Phạm Hành đào đất
trồng chuối cạnh tảng đá "Voi phục" trước chùa, lỡi cuốc đụng
phải một chiếc ấn đúc bằng đồng màu đen, nặng 650gram, ấn có
hình chữ nhật, chiều dài 9,8cm, rộng 6,5cm bên trên có núm tròn
để cầm. Phía lưng ấn có 15 chữ Hán khắc chìm chia thành 2
dòng hai bên núm ấn. Dòng bên phải khắc 10 chữ với nội dung:
"Trung nghĩa vệ, Trung thắng tứ hiệu quán quân sứ". Dòng bên
trái khắc 5 chữ: "Tân Hợi niên đông tạo". Dưới mặt ấn có 10
chữ khắc theo lối chữ triện; hai dòng hai bên, mỗi bên 3 chữ và
dòng ở giữa 4 chữ. 10 chữ trên mặt ấn trùng với 10 chữ trên
lưng ấn. Về niên đại với 5 chữ: "Tân Hợi niên đông tạo" có thể
biết chiếc ấn làm vào năm Quang Trung thứ tư (1791) (Ở Bảo
tàng lịch sử Hà Nội hiện lưu giữ 2 quả ấn tương tự như chiến ấn
Quang Trung tìm thấy ở Linh Sơn Tự. Chiếc thứ nhất đúc năm
Quang Trung thứ tư với 9 chữ Hán "Suất cùng cư quan hệ ngũ
hiệu đô ty”.).
Linh Sơn tự còn lưu giữ nhiều di vật cổ có giá trị như chuông
đồng, tượng nhà sư Bửu Tạng, tượng Địa tạng v.v
Mặc cho đường sá xa xôi, nhưng hàng ngày vẫn có nhiều đoàn
khách từ các nơi đến chiêm ngưỡng cảnh núi rừng, ngắm cảnh
chùa và tận hưởng không khí mát mẻ trong lành của Linh Sơn
Tự.
5. CHÙA ÔNG
Là ngôi chùa cổ có qui mô lớn nhất của người Hoa ở Bình
Thuận, tọa lạc tại phường Đức Nghĩa, thị xã Phan Thiết hiện
nay. Theo Thần phả của chùa và niên đại khắc ghi bằng dòng
chữ Hán trên thanh xà gồ nóc chính điện được biết: chùa lập vào
tháng 11 năm Canh Dần 1770.
Tổng thể kiến trúc ở đây từ ngày khởi tạo là một ngôi miếu lớn
của người Hoa xây dựng để thờ Quan Công (Quan Thánh đế
quân). Sách "Đại Nam nhất thống chí" tập 12 gọi là "Đền Quan
Công" đúng với tên lúc bấy giờ của miếu; và ngay trước cổng
vào chùa hiện nay còn tấm biển ghi "Quan Thánh miếu”. Hơn
nữa, nội dung thờ phụng bên trong chỉ có tượng Quan công cùng
những tượng khác chứ không thờ Phật và không có các nhà s
ưtrụ trì. Thế nhưng trong dân gian từ xưa đến nay cả người Việt
và người Hoa đều quen gọi là Chùa Ông".
Nằm trên một diện tích khá lớn, chùa có lối kiến trúc và trang trí
nghệ thuật đặc trưng của người Hoa, các dãy nhà nối tiếp nhau
tạo nên hình chữ Kim. Hệ thống cột, vì kèo chạm khắc rất công
phu, sắc nét phần nào giống kỹ thuật chạm khắc trong các ngôi
đình của người Việt. Tất cả những cột trụ chính đều có treo câu
đối chạm khắc và sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Nổi lên ở các
gian thờ là những bức tranh chạm gỗ, gắn ở tường mà nội dung
miêu tả các điển tích xưa của người Hoa, có niên đại ở thế kỷ
XVIII. Nhiều bức hoành lớn được chuyển từ Trung Hoa qua ở
thế kỷ XIX. Tượng Quan Công to lớn bằng gỗ đặt trang trọng ở
gian thờ chính điện cùng hàng chục những pho tượng cổ khác.
Hệ thống bao lam bao phủ quanh các khám thờ ở chùa là những
tác phẩm điêu khắc bằng gỗ có giá trị về nghệ thuật mà ở các
chùa chiền khác không thể có được.
Chùa Ông hiện nay còn lưu giữ chiếc chuông cổ có giá trị về
lịch sử và nghệ thuật, đúc tại Quảng Đông (Trung Quốc) và
chuyển sang từ triều đại nhà Thanh. Kiểu cách đúc và vật liệu
giống đại hồng chung của người Việt nhưng trang trí phức tạp
và rườm rà hơn trên thân chuông. Chùa Ông là một nơi sân vườn
đẹp.
Trước năm 1975, ở Phan Thiết thường diễn ra lễ hội "Nghinh
Ông" ở chùa Ông. Năm 1996 lễ hội này được tổ chức lại, thu hút
hàng chục ngàn người từ khắp nơi. Từ bao đời nay, chùa Ông là
nơi mà vào dịp Tết cổ truyền của dân tộc, nhân dân thường tụ
tập đông đảo để cầu cho một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, làm
ăn may mắn của mọi người, mọi nhà.
Chiếc thứ hai cùng loại với chiếc ấn và cùng có niên đại "'Tân
Hợi niên đông tao”.
6. CHÙA PHẬT QUANG
Xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XVIII, tọa lạc ở thôn Minh Long
nay là phường Hưng Long, thị xã Phan Thiết. Vị trí của ngôi
chùa vào thời điểm xây dựng, dân cư thưa thớt, bao quanh là
những đồi cát mênh mông chạy dài ra biển nên trong dân gian
cũng có tên là chùa Cát.
Khuôn viên của chùa Phật Quang tương đối lớn, bên trong bao
gồm một tổng thể kiến trúc, cổng tam quan, chùa Tổ, chánh điện
và hệ thống các công trình phụ nối liền giữa chùa Tổ và chánh
điện. Mặt chính của chùa quay về hướng Nam. Do xây dựng từ
lâu đời nên chùa đã hư hỏng, xuống cấp và được tu bổ nhiều lần.
Lần tu bổ gần nhất là vào năm Bảo Đại thứ 9 (Giáp Tuất 1934),
đợt này tu bổ lại hoàn toàn chùa Tổ và một số hư hỏng của các
hạng mục khác.
Điểm đặc biệt quan trọng trong ngôi chùa cổ này là các thế hệ
thiền sư chùa đã thay nhau gìn giữ, bảo quản rất tốt nhiều bộ
phận thuộc di sản văn hóa có giá trị. Đó là chiếc đại hồng chung
lớn bằng đồng chạm khắc đẹp, tinh tế và 4 mặt chuông khắc địa
danh, lịch sử chùa cũng như niên đại; chuông được đúc vào năm
Canh Ngọ 1750 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Một số
hiện vật khác là những bản khắc gỗ tạo nên bộ kinh Pháp hoa
với 118 bản. Đa phần trong 118 bản khắc cả hai mặt bằng chữ
Hán sắc nét bao gồm 60 vạn lời, trong đó có 7 bản khắc họa
hình ảnh Đức Phật thuyết pháp. Bộ kinh Pháp hoa hoàn thành
vào năm 1734 mà bản khắc cuối cùng có ghi rõ đã hoàn thành
vào ngày mùng một tháng tư, năm Long Đức thứ ba vào Giáp
Dần. (Long Đức là niên hiệu của vua Lê Thuần Tông (1732 -
1735) đời nhà Hậu Lê).
Bộ kinh do hai khất sỹ Ninh Dung và khất sỹ Thiết Huệ hiệu là
Khánh Tài chủ trương xin phép khắc. Cũng trong bản khắc cuối
cùng của bộ kinh ghi công của 6 người đứng ra quyên góp và
cúng tiền, người đứng ra in, nhiều người cúng gạo cơm và đặc
biệt ghi công của hai vị thiền sư cùng 12 phật tử khắc trong thời
gian 28 năm mới hoàn thành bộ kinh này.
Trong số những ngôi chùa cổ ở Bình Thuận, chùa Phật Quang,
ngoài kiến trúc và nội dung chứa đựng nhiều di sản văn hóa nói
chung và văn hóa Phật giáo, còn có hoa viên đẹp.