Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Tài liệu Đề tài " Hoạt động giúp đỡ về mặt quân sự của Nghệ An đối với cách mạng Lào( giai đoạn 1954-1975) " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.95 KB, 94 trang )

Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
LUẬN VĂN
Hoạt động giúp đỡ về mặt quân sự của
Nghệ An đối với cách mạng Lào( giai
đoạn 1954-1975)
Trang
1
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1
: ẢNH HƯỞNG CỦA MỸ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1954
6
1.1. Giai đoạn từ năm 1925 đến trước năm 1945 6
1.2. Giai đoạn 1945 – 1950 8
1.3. Giai đoạn 1950 – 1954 12
Chương 2
:NHỮNG KHOẢN VIỆN TRỢ CỦA MỸ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NỀN KINH TẾ MIỀN
NAM SAU HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ (1954 - 1975)
17
2.1.
Tổng quan về viện trợ của Mỹ ở Việt Nam qua các năm 1954 - 1975
17
2.2.
Viện trợ thương mại
22
2.3.
Viện trợ nông phẩm
27


2.4.
Viện trợ theo dự án
31
2.5.
Viện trợ quân sự
35
Chương 3
: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆN TRỢ MỸ ĐẾN NỀN KINH TẾ VÀ ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN
MIỀN NAM (1954 - 1975)
39
3.1.
Trong lĩnh vực công nghiệp
39
Trang
2
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
3.2.
Trong lĩnh vực nông nghiệp
44
3.3.
Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng
51
3.4.
Đời sống nhân dân miền Nam
55
KẾT LUẬN
59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
61
Trang

3
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
A.Phần mở đầu.
1.Lý do chọn đề tài.
1.1.Về mặt khoa học.
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh từng ca ngợi:
“Việt –Lào hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nươc Hồng Hà,Cửu Long”
Có thể nói, chưa bao giờ và chưa ở nơi đâu mối quan hệ giữa hai dân tộc lại
son sắt thủy chung đặc biệt như quan hệ Viêt Nam-Lào. Trong suốt chiều dài lịch
sử, nhân dân hai dân tộc đã sát cánh cùng nhau,dựa vào nhau xây dựng và phát triển
kinh tế, chống các thế lực ngoại xâm. Đặc biệt trong kháng chiến chống thực dân
Pháp và chống đế quốc Mỹ, mối tình hữu nghị ấy lại càng được thắt chặt vì một mục
tiêu chung : Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hiện nay mối quan hệ ấy được
phát huy và ngày càng phát triển tốt đẹp.
Sự giúp đỡ của nhân dân Nghệ An đối với cách mạng Lào trong kháng chiến
chống Mỹ là một minh chứng sinh động cho tình nghĩa keo sơn, “môi hở răng lạnh”
của hai dân tộc Việt –Lào. Nó kế tục truyền thống từ xưa của nhân dân các bộ tộc
hai bên biên giới,trực tiếp là trong kháng chiến chống Pháp, sự giúp đỡ của Nghệ An
góp công cùng cả nước đã tạo điều kiện cho bạn có những thắng lợi nhất định trong
giai đoạn này.Đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước các hoạt động giúp đỡ
của Nghệ An lại càng được tăng cường, trong đó phải kể đến tầm quan trọng của các
hoạt động giúp đỡ về mặt quân sự. Tuy nhiên vấn đề này vẫn chưa có công trình
khoa học nào đề cập một cách thấu đáo, xứng với tầm vóc của nó.
Hơn nữa, năm 2009 là tròn kỷ niệm 50 năm thành lập quân tình nguyện Việt
Lào. Những chiến sỹ tình nguyện của Việt Nam nói chung, Nghệ An nói riêng đã
ngã xuống khắp chiến trường Lào trong hai cuộc kháng chiến. Là một người con
trên quê hương Nghệ An, tôi muốn tìm hiểu một phần hoạt động của các chiến sỹ
tình nguyện Nghệ An, đóng góp của họ đối với cách mạng bạn.
Trang

4
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
Do đó về mặt khoa học chúng tôi chọn đề tài “Sự giúp đỡ về quân sự của Nghệ
An đối với cách mạng Lào trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975 )
nhằm làm sáng rõ, bổ sung, làm phong phú thêm mối quan hệ Việt –Lào nói chung,
đóng góp của quân dân Nghệ An nói riêng đối với cách mạng bạn.
1.2 Về mặt thực tiễn
• Đề tài góp phần xây dựng cuốn “ Lịch sử Nghệ An”.
• Là tài liệu học tập cho sinh viên, tài liệu thm khảo cho các giáo viên khi tìm
hiểu về lịch sử Nghệ An, mối quan hệ Việt – Lào.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Đề tài đã được đề cập đến trong một số công trình lịch sử sau đây:
Trước hết trong cuốn “Nghệ An – Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước” đã
đề cập đến một số hoạt dộng cơ bản của quân dân Nghệ An làm nhiệm vụ quốc tế
với Lào trong tổng thể lịch sử kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Nghệ An.
Cuốn “Quân khu IV- Lịch sử kháng chiến cứu nước” cũng điểm qua những hoạt
động giúp đỡ của quân dân quân khu IV đối với cách mạng Lào.
Một số tác phẩm có liên quan như : “ Quan hệ Việt –Lào trong giai đoạn 1954-
1975” của Tiến sỹ Lê Đình Chỉnh, hay “ Sự phối hợp chiến đấu giữa quân và dân
Nghệ An –Xiêng Khoảng trong kháng chiến chống Mỹ” của Trương Thị Thu Hằng
(Đại học Vinh) …
Tuy nhiên về cơ bản các tài liệu mới chỉ đề cập sơ lược hoặc trên bình diện
tổng thể mà chưa đi sâu vào khai thác các hoạt động giúp đỡ của quân dân Nghệ An
trên lĩnh vực quân sự đối với cách mạng Lào cũng như vị trí , ý nghĩa, đặc điểm của
các hoạt động ấy.
Kế thừa các thành tựu của các nhà Sử học,các nhà nghiên cứu,… về vấn đề sự
giúp đỡ của Nghệ An đối với cách mạng Lào, tác giả từ góc độ sử học tiếp tục trình
bày một cách cụ thể hơn, vạch ra vị trí và ý nghĩa cũng như đặc điểm của hoạt động
giúp đỡ của Nghệ An về mặt quân sự đối với cách mạng Lào.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trang
5
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
• Trình bày các nhân tố thúc đẩy sự giúp đỡ của Nghệ An đối với cách mạng
Lào .
• Trình bày cụ thể các hoạt động giúp đõ về mặt quân sự của Nghệ an đối với
cách mạng Lào trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
• Rút ra vị trí ý nghĩa ,đặc điểm của những hoạt động giúp đỡ ấy.
4.Giới hạn và phương pháp nghiên cứu
4.1 Giới hạn
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi sự giúp đỡ trên lĩnh vực quân sự của quân dân
Nghệ An đối với cách mạng Lào trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-
1975). Trong chừng mực nào đó đề tài đi sâu vào những hoạt động của lực lượng vũ
trang Nghệ An ở khu vục Mường Mộc –Xiêng Khoảng vì đây là địa bàn hoạt động
chủ yếu của lực lượng vũ trang Nghệ An.
4.2 Phương pháp
Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic trong quá trình
nghiên cứu.
5.Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận , tài liệu tham khảo đề tài chia làm ba chương:
Chương 1:Khái quát sự giúp đỡ của Nghệ An đối với cách mạng Lào trước
1954.
Chương 2: Hoạt động giúp đỡ về mặt quân sự của Nghệ An đối với cách mạng
Lào( giai đoạn 1954-1975)
Chương 3: Vị trí, ý nghĩa và đăc điểm của các hoạt động giúp đỡ trên lĩnh vực
quân sự của Nghệ An đối với cách mạng Lào.

Trang
6
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử

B.Phần nội dung.
Chương 1:
Khái quát sự giúp đỡ về quân sự của Nghệ An đối với cách mạng
Lào trước 1954.
1.1.Những nhân tố thúc đẩy sự giúp đỡ về quân sự của Nghệ An đối với cách
mạng Lào.
1.1.1.Nhân tố địa lý.
“Nghệ An nằm ở toạ độ 18º35'00" đến 20º00'10" vĩ độ Bắc và từ 103º50'25"
đến 105º40'30" kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá, phía Nam giáp tỉnh
Hà Tĩnh, phía Đông có biển Đông rộng lớn, phía Tây có chung đường biên giới dài
419km với ba tỉnh của nước bạn Lào (Hủa Phăn, Xiêng Khoảng và Bôlykhămxay”
[11;9]. Nghệ An có vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị và quốc
phòng, nhiều lần giữ vị trí căn cứ địa vững chắc trong lịch sử chiến tranh giải phóng
và chiến tranh vệ quốc của dân tộc. Từ thế kỉ XV, Nguyễn Trãi coi Nghệ An là
“phên dậu thứ ba ở phương Nam”. Nhà sử học Phan Huy Chú nhận định là đất
“hiểm yếu như thành đồng, ao nóng của nước nhà và là then khóa của các triều đại”.
Đầu thế kỉ XIX, quốc sử quán triều Nguyễn cũng viết: “Nghệ An địa thế rộng rãi,
chính là đất xung yếu giữa Nam và Bắc… núi cao sông sâu, thực là một tỉnh lớn có
hình thế hiểm yếu”. Như vậy, hình thế Nghệ An tạo nên thế “thiên hiểm” cho phòng
thủ đất nước, là vùng đất có vị trí quan trọng về quốc phòng.
Song Nghệ An cũng dễ bị chia cắt chiến lược, bởi đây nằm ở vị trí nối liền
Đông – Tây, địa hình dài rộng và đa dạng, có cả miền núi và trung du, đồng bằng
biển đảo và thềm lục địa. Đặc biệt khu vực miền Tây Nghệ An là vùng đất xung yếu,
lại chiếm phần lớn diện tích của tỉnh. Ở đây có dãy Trường Sơn trùng điệp chạy từ
huyện Kỳ Sơn qua Tương Dương, Con Cuông, Thanh Chương vào các tỉnh phía
Trang
7
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
Nam, tạo thành biên giới tự nhiên giữa Nghệ An và các tỉnh của nước bạn Lào. Có
thể ví Nghệ An hợp với các tỉnh nước bạn Lào cùng chung biên giới như một mái

nhà chung với thế liên hoàn, liên kết không thể tách rời; cùng dựa lưng vào dãy
Trường Sơn hùng vĩ.
Trong thời kỳ cận hiện đại, có thể khẳng định: nếu chiếm được khu vực miền
Tây Nghệ An, miền Tây các tỉnh thuộc địa bàn Quân khu IV và vùng Trung - Hạ
Lào sẽ cắt chiến trường Đông Dương ra làm hai, do đó sẽ khống chế uy hiếp Đông
Dương. Chính vì vậy, ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, thực dân Pháp đã có
kế hoạch chiếm Napê (Lào) để làm bàn đạp đánh chiếm thành phố Vinh (tỉnh Nghệ
An), chiếm khu vực Bắc Trung Bộ để khống chế cách mạng Việt Nam cũng như
cách mạng Lào, nhằm xác lập địa vị thống trị của chúng ở Đông Dương. Trong
kháng chiến chống Mỹ, Nghệ An là hậu phương của tiền tuyến lớn miền Nam cũng
là hậu phương của cách mạng Lào. Chính vì vậy địch coi đây là vùng “cán xoong”,
“cuống họng” của chiến trường miền Nam và Đông Dương, nên chúng tập trung
đánh phá vô cùng ác liệt.
Do đó, nhiệm vụ bảo vệ miền Tây luôn được Nghệ An chú trọng thực hiện.
Muốn bảo vệ miền Tây vững chắc thì hơn ai hết Nghệ An và các tỉnh của Lào có
chung biên giới phải có sự phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau. Yêu cầu liên kết, giúp đỡ
luôn được đặt ra xuất phát từ sự gần gũi về mặt địa lý đó.
Mặt khác, Nghệ An có sự giao lưu, liên hệ với nước bạn Lào thông qua mạng
lưới giao thông. Trong giai đoạn 1945 – 1975, mạng lưới giao thông còn chưa phát
triển cao song có giá trị rất lớn về mặt quốc phòng. Đặc biệt đường số 7 nối liền
quốc lộ 1A từ ngã ba Diễn Châu lên thị trấn Mường Xén băng qua dãy Trường Sơn
đến cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn sang tỉnh Xiêng Khoảng (Lào). Đây là một tuyến
giao thông quan trọng, nếu cách mạng nước bạn gặp khó khăn thì kẻ địch có thể
khống chế tuyến đường này để xâm nhập miền Tây Nghệ An. Do đó yêu cầu giúp
bạn tức là cũng tự giúp mình.
Như vậy, chính sự giáp ranh, gần gũi về mặt địa lý đã thúc đẩy Nghệ An cùng
nhân dân các bộ tộc Lào gắn kết với nhau. Tình đoàn kết gắn bó ấy càng được phát
Trang
8
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử

huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh, vì mục tiêu chung của hai dân tộc: chống kẻ
thù chung, giành độc lập tự do.
1.1.2.Nhân tố văn hoá.
Do sự gần gũi về địa lý nên trong quá trình hình thành và phát triển, Nghệ An
và các tỉnh chung biên giới của Lào như Xiêng Khoảng, Hủa Phăn, Bôlykhămxay có
sự tương đồng về mặt văn hoá.
Cư dân hai bên khu vực này đã có mối quan hệ với nhau từ rất sớm. Đến thế kỉ
IX, đặc biệt là thế kỉ XIII, diễn ra sự di cư ồ ạt của người Thái xuống Lào, tràn sang
cả miền Tây Nghệ An. Sự chuyển cư này làm cho một bộ phận nói tiếng Lào Thay ở
Nghệ An tăng lên đáng kể. Tộc người hai bên dãy Trường Sơn có nét tương đồng về
ăn mặc, tiếng nói, kiến trúc. Sự tương đồng ấy thể hiện ở chỗ:
Về phương thức canh tác lúa nước, lúa rẫy cư dân hai bên không có gì khác nhau.
Về nhà ở: đều dùng nhà sàn và đây là loại hình nhà truyền thống của cư dân nói
tiếng Lào Thay dọc biên giới Việt – Lào.
Về trang phục, sản phẩm của người Thái Nghệ An và người Thái ở Lào giống nhau
đến mức khó phát hiện đâu là sản phẩm của người Thái Nghệ An, đâu là sản phẩm
của người Thái ở Lào.
Về sinh hoạt văn hoá, cư dân Thái đều thích múa lăm vông, cư dân ven biên
giới đều đan xen lẫn nhau.
Người H’mông ở Nghệ An và Xiêng Khoảng lại càng gần gũi. Trong lòng họ
không có biên giới quốc gia. Khái niệm Tổ quốc đối với họ thường không có ý
nghĩa. Do đó những vấn đề liên quan đến sự an nguy của dòng họ mình không thể
thuộc Việt hay Lào đều được cư dân hai bên quan tâm.
Chính sự tương đồng về mặt văn hoá ấy đã góp phần không nhỏ vào sự gần
gũi và hiểu biết lẫn nhau giữa cư dân hai bên. Trong quan hệ giữa các dân tộc, sự
tương đồng về ngôn ngữ và văn hoá là chất xúc tác làm cho người ta dễ đồng cảm,
dễ xích lại gần nhau một cách tự nhiên.
1.1.3.Nhân tố chính trị - xã hội.
Trang
9

Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
Hai nước Việt – Lào từ cuối thế kỉ XIX đều bị thực dân Pháp đô hộ. Từ đó đến
năm 1975, nhân dân hai nước đều chung một kẻ thù là thực dân Pháp rồi đế quốc
Mỹ, chung một mục đích là đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung, từ năm 1930 đến năm 1951 cả hai dân tộc đều có chung một
đảng lãnh đạo. Đến năm 1955, tuy ở hai nước có hai đảng lãnh đạo, nhưng cả hai
đảng đều lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động. Do đó Đảng ta luôn đề cao nhiệm vụ giúp đỡ phối hợp chiến trường Lào, tạo
nên mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào. Vì thế Nghệ An giúp cách mạng Lào thuộc về
nhiệm vụ chiến lược của Đảng, của cách mạng Việt Nam; đồng thời cũng vì sự yên
bình của nhân dân miền Tây; là sự nối tiếp truyền thống giúp đỡ của ông cha hai dân
tộc.
Như vậy, sự giúp đỡ của Nghệ An đối với cách mạng Lào trong kháng chiến
chống Mỹ là một tất yếu, bởi các điều kiện điạ lý – văn hoá – chính trị - xã hội quy
định. Bởi cư dân hai bên đều:
Làm ruộng chung nương
Làm nương chung mái
Ăn chuối cùng chung một bẹ
Đánh giặc cùng chung một kẻ thù.
1.2.Tổng quan sự giúp đỡ của Nghệ An về mặt quân sự đối với cách mạng
Lào trước 1954.
Nghệ An và các tỉnh thuộc nước bạn Lào cùng chung biên giới có mối quan hệ
từ rất lâu đời trên các lĩnh vực tự nhiên, lịch sử, xã hội và đều có chung kẻ thù xâm
lược. “Nghệ An là một tỉnh có vị trí cực kì quan trọng trên mọi lĩnh vực. Nơi đây có
truyền thống yêu nước cách mạng, là đất đứng chân của nhiều thời kỳ lịch sử đấu
tranh giữ nước của cả hai dân tộc Việt Nam và Cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào”[6;29]. Các thế hệ cha ông đi trước đã dày công vun đắp cho mối tình hữu nghị
thủy chung giữa nhân dân hai bên. Tình cảm sâu nặng của hai dân tộc Việt – Lào đã
được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khơi dòng mạch chảy từ những ngày bình minh của
cách mạng hai nước. Tháng 4/1931, chi bộ Môn Sơn (Nghệ An) ra đời không chỉ có

Trang
10
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
nhiệm vụ lãnh đạo phong trào cách mạng ở vùng rừng núi Nghệ An mà còn có
nhiệm vụ xây dựng địa bàn cách mạng chung cho cả một số địa phương ở nước bạn
Lào trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sau này.
Khi cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh bị đàn áp, kẻ địch ngày đêm lùng sục, bắt bớ cán
bộ Đảng, đồng bào dân tộc anh em của các tỉnh biên giới Việt – Lào trong đó có
Xiêng Khoảng đã dang rộng cánh tay nuôi dưỡng, che chở cho những người con yêu
nước của Nghệ An đã tham gia hoạt động trong cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh bị
thực dân Pháp truy lùng.
Sự chia sẻ của nhân dân Nghệ An và nhân dân các bộ tộc Lào trong buổi đầu đã
gieo mầm cho cách mạng và cho mối tình đoàn kết hữu nghị của hai dân tộc Việt –
Lào cùng đứng lên chống kẻ thù trong những chặng đường cách mạng tiếp theo.
Cũng từ khi có Đảng, sự giúp đỡ của nhân dân Nghệ An mang tính tự giác hơn và
đặc biệt được tăng cường trong kháng chiến chống Pháp và có ý nghĩa rất lớn trong
thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Từ những ngày gần kề của cách mạng tháng 8/1945, nhiệm vụ cách mạng rất
khẩn trương, mặc dù vậy quân và dân Nghệ An vẫn….
Tháng 9/1945 – 12/1946.
Xúc tiến âm mưu chiếm lại Đông Dương, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, cùng
một lúc quân Pháp theo gót quân Anh gây hấn ở Nam Bộ thì ở Hà Nội, Huế và một
số nơi có đông Pháp kiều đều rục rịch chuẩn bị đón quân viễn chinh Pháp. Ở dọc
biên giới, tàn quân Pháp ráo riết phục hồi, nhận tiếp tế chiếm lại những điểm xung
yếu sát biên giới nước ta. Trên các trục đường quan trọng xuyên Việt – Lào sát các
tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh đã xuất hiện những cụm tàn quân Pháp ở
Mường Dương, Mường Lan, Mường Na (tỉnh Sầm Nưa – Lào), ở Noọng Hét, bản
Ban, Mường Ngà (tỉnh Xiêng Khoảng), cửa ngõ đường quốc lộ 7 Xiêng Khoảng -
Diễn Châu, ở Napê, Lạc Sao, Khăm Cợt (trên đất tỉnh Khăm Muộn), cửa ngõ đường
quốc lộ 8 Khăm Muộn – Vinh. Âm mưu của Pháp là chuẩn bị bàn đạp sẵn sàng tiến

công các tỉnh Băc Trung Bộ mà Nghệ An là trọng điểm. Quân Pháp dùng mọi thủ
Trang
11
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
đoạn mua chuộc, lôi kéo những người dân nhẹ dạ theo chúng, móc nối với quan lại
cũ người Việt ở miền Tây Nghệ An để chờ thời cơ hành động.
Miền Tây Nghệ An bị hoạ xâm lăng trực tiếp uy hiếp. Trước tình hình đó, ngày
24/8/1945 hai tỉnh bộ Việt Minh họp liên tịch, bàn và quyết định “phối hợp với nhau
đánh địch trước, đến nơi có địch mà đánh, nhân lúc địch mới phục hồi. Trước mắt
cần giải phóng Napê, đẩy lùi nguy cơ địch tiến công theo hướng quốc lộ 8, đồng
thời giúp cách mạng Lào phát triển”.
Lực lượng vũ trang Hà Tĩnh đóng vai trò chủ chốt trong trận đánh này với
nhiệm vụ chính là “tiêu diệt địch ở Na Pê, bắt liên lạc với lực lượng yêu nước Lào
hoạt động đánh địch ở vùng Laksao, Khăm Cợt. Tỉnh Nghệ An đóng vai trò chi viện
và tích cực phối hợp. Lực lượng chi viện của Nghệ Anlà một phân đội gồm 60 người
thuộc chi đội Đội Cung. Nhờ có thêm lực lượng bổ sung đó mà ngày 8/8/1945 ta
tiếp tục tấn công. Kết quả ta làm chủ trận địa, Na Pê được giải phóng.
Tiếp đó một đơn vị huyện Thanh Chương (Nghệ An) do đồng chí Thọ chỉ huy phối
hợp với du kích bạn do ông Phay Đang (một lãnh tụ yêu nước Lào) bất ngờ tập kich
quân Pháp đồn trú ở thị trấn Khăm Cợt diệt một số địch. Tàn quân chúng bỏ chạy, ta
truy kích diệt thêm hai tên ở Na Hương, thu một bản đồ kế hoạch đánh chiếm thành
phố Vinh của địch.
Chiến thắng Na Pê – Khăm Cợt đầu tháng 9/1945 là chiến công đầu rất có ý
nghĩa của lực lượng vũ trang hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, cùng nhân dân và du
kích Lào anh em phối hợp đánh quân Pháp ở cửa ngõ đường quốc lộ 8. Trận đánh đã
tiêu hao nặng nề một bộ phận sinh lực địch, làm chủ vùng Na Pê, không cho Pháp
mở rộng phạm vi kiểm soát vùng này, giảm bớt sự uy hiếp của địch từ phía Tây
Nam của tỉnh, bước đầu xây đắp mối quan hệ chiến đấu giữa hai tỉnh cùng chung
biên giới Việt – Lào.
Ngày 10/12/1945, Lào tuyên bố độc lập. Ngày 14/10/1945, chính phủ Việt Nam

Dân chủ Cộng hoà đã công nhận nền độc lập của Vương quốc Lào. Ngày
16/10/1945, đại diện hai chính phủ tuyên bố giúp đỡ lẫn nhau chống thực dân Pháp
xam lược, bảo vệ nền độc lập của mỗi nước.
Trang
12
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
Thực hiện cam kết trên, ngày 17/10/1945, ở hướng đường 7 tỉnh Nghệ An đã
điều động một đơn vị giải phóng quân hợp nhất của hai huyện Ạnh Sơn, Thanh
Chương do đồng chí Trần Văn Hợp chỉ huy, đồng chí Nguyễn Như Cầu làm chính
trị viên, giao nhiệm vụ đánh địch ở Noọng Hét. Tại đây một trung đội của ta phục
kích tổn thất nặng, đơn vị phải rút về Tương Dương củng cố. Tỉnh tiếp tục điều động
đại đội giải phóng quân huyện Diễn Châu lên hoạt động ở Noọng Hét. Rút kinh
nghiệm, đơn vị đã hoạt động thận trọng, bí mật hơn, bắt liên lạc với du kích bạn,
phối hợp xây dựng cơ sở vũ trang tuyên truyền, hoạt động nhỏ lẻ đánh địch càn quét
lấn chiếm.
Đánh giá ý nghĩa những hoạt động của lực lượng vũ trang của ta trong những
ngày đầu cách mạng, trong cuốn “Lịch sử quân tình nguyện Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp tại Lào 1945-1954” đã viết: “sự có mặt rất sớm
của các đơn vị bộ đội Việt Nam (lực lưọng vũ trang Nghệ An) nhằm chống lại âm
mưu của Pháp định dùng Trung Lào uy hiếp Bắc Trung Bộ Việt Nam, đồng thời hỗ
trợ cho nhân dân Lào nổi dậy giành và giữ chính quyền”tr78).
Ngày 16/10/1945, Hoàng thân Xuvanuvông đến Nghệ An với tư cách Bộ
trưởng ngoại giao làm việc với uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An và tỉnh bộ Việt Minh.
Đồng chí Lê Viết Vượng trực tiếp làm việc với Hoàng thân. Trong cuộc gặp gỡ thân
tình hai vị đã khẳng định: “Đoàn kết giúp đỡ nhau chống kẻ thù chung là nhiệm vụ
chiến lươcvj lâu dài thuỷ chung”. Hai bên đã nhanh chóng thỏa thuận sẽ hoạt động
phối hợp với nhau về mọi mặt, cùng nhau xây dựng cơ sở chính trị, cơ sở kháng
chiến, giúp nhau vũ khí và vật chất, giúp nhau nơi đứng chân của hai bên. Sự kiện
này đánh dấu mốc quan trọng, làm cơ sở pháp lý cho những hoạt động giúp đỡ của
quân và dân Nghệ An đối với cách mạng Lào.

Ngày 30/10/1945, hiệp định quân sự Việt – Lào được kí kết. Theo đó, hai chính
phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Vương quốc Lào thoả thuận thnàh lập Liên quân
Lào – Việt. Thực hiện kí kết ấy, Nghệ An đã cử một số cán bộ chiến sĩ gia nhập liên
quân làm nghĩa vụ quốc tế. Sự kiện này không những đánh dấu quan hệ Việt – Lào
đã chính thức chuyển sang giai đoạn mới – giai đoạn mối quan hệ đoàn kết chiến
Trang
13
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
đấu chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân hai nước dưới sự lãnh đạo của một
Đảng mà còn là một nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ sự giúp đỡ của quân dân Nghệ An
đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Lào.
Cùng thời gian này (cuối 1945) theo chủ trương của Bộ chỉ huy khu IV, đồng
chí khu trưởng Lê Thiết Hùng cùng đồng chí Nguyễn Tào – Phó chủ tịch uỷ ban
hành chính Nghệ An và nhiều cán bộ đầu ngành của tỉnh đi khảo sát và làm việc ở
miền Tây. Các đồng chí lãnh đạo khu và tỉnh đã chỉ thị và hướng dẫn, đề ra nhiều
chủ trương biện pháp quan trọng để giúp đỡ miền Tây và củng cố mối quan hệ
Việt- Lào. Các đồng chí lãnh đạo đã thăm hỏi đồng bào các dân tộc, gặp gỡ một số
người thuộc tàng lớp trên, giải thích tình hình nhiệm vụ và chủ trương, chính sách
m, à nhân dân đang quan tâm, động viên mọi người ra sức xây dựng và bảo vệ vùng
miền núi biên cương của tỉnh, đoàn kết với nhân dân Lào anh em, bảo vệ thành quả
cách mạng của hai nước. Phương thức hoạt động tác chiến được chỉ rõ, đó là: gắn
hoạt động của ta với giúp bạn xây dựng cơ sở chính chính trị, vũ trang ngày cùng
chiến đấu, cùng trưởng thành. Huyện uỷ Quỳ Châu sau đó đã lực chọn người thành
lập đội vũ trang tuyên truyền cùng du kích Lào hoạt động sâu vào hai huyện Sầm
Tớ, Mường Na (tỉnh Sầm Nưa). Cán bộ cơ sở và bộ đội hai huyện đã bắt liên lạc và
quan hệ chặt chẽ với ông Phay Đang và các đơn vị bộ đội yêu nước Lào của Xanh
Cà Pô, Nênh Vừ, Thao Tu, Xiêng Xin…thuộc khu Đông Lào. Kết qủa đạt được của
cuộc khảo sát còn có có ý nghĩa chính trị mạnh mẽ, giác ngộ đồng bào hai bên biên
giới. Bà con có dịp hiểu rõ cách mạng, củng cố niềm tin, vạch trần lụân điệu kẻ địch,
hơn thế nữa còn giác ngộ thức giúp đỡ giữa nhân dân hai bên biên giới chống một

kẻ thù chung, thấm nhuần tinh thần giúp bạn là tự giúp mình.
Đầu năm 1946, tình hình có những thay đổi theo hướng bất lợi cho cách mạng
Việt Nam cũng như cách mạng Lào. Tuy đã kí kết với ta hiệp định Sơ bộ (6/3/1946)
song Pháp vẫn tìm mọi cách phá hoại hiệp định, bội ước những gì đã cam kết. Ở
miền Nam, Pháp tiếp tục đánh chiếm và bình định cả Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, quân Pháp vừa khiêu khích vừa lấn chiếm nhiều nơi ở Lạng Sơn, Phủ Lạng
Thương, Đồng Đăng, Móng Cái, khu mỏ Đông Bắc, lập xứ Nùng tự trị.
Trang
14
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
Ở Lào tình hình chiến sự diễn ra ác liệt vì thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn
để xâm lược Lào lần thứ hai. Pháp tuyên bố không công nhận chính phủ Vương
quốc Lào do ông Xuphanuvông làm thủ tướng, công khai đưa lực lượng tiến công
chiếm nhiều trung tâm quan trọng như Xavanakhẹt, ThaKhẹt (3/1946),Viêng Chăn
(4/1946), luôngphbăng (5/1946), Sầm Nưa, Xiêng Khoảng (6/1946). Hoàng thân
Xupha nuvông suýt bị hại ở Thà khẹt khi đang vượt sông Mê Công. Gia đình ông
Phay Đang bị quân Pháp phục kích ở Xa Luép( Xiêng Khoảng) nhưng được liên
quân Lào – Việt ra sức bảo vệ mới thoát vây được an toàn. Đến tháng 8 về cơ bản
Pháp đã chiếm được Lào. Đến cuối tháng 12/1946 Pháp lập được bộ máy cai trị
thuộc địạ từ trung ương đến địa phương. Từ 28/12/1946, Pháp tuyên bố “bình định”
xong nước Lào. Sau khi hiệp ước đầu hàng của Hoàng gia Lào đã được vua Lào Xi
Xa Vang Vông kí với Đơ Ray Mông ngày 27/12/1946, cuộc kháng chiến của quân
và dân các bộ tộc Lào chống thực dân Pháp xâm lược dưới sự lãnh đạo của mặt trận
yêu nước Lào đã bắt đầu trong hoàn cảnh cực kì khó khăn
Miền Tây Nghệ An tình hình cũng không kém phần căng thẳng. Khi chiếm
được Lào, Pháp tập trung lực lượng ở Sầm Nưa, đồng thời rải quân đóng nhiều vị trí
giáp biên giới nước ta, đối diện với Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Mỗi vị trí có
một tiểu đội đến một trung đội lính nguỵ Lào chốt giữ. Mặt khác, Pháp mua chuộc
thổ ti, lang đạo, tù trưởng, tộc trưởng làm tay sai và huấn luyện bọn phỉ để quấy rối.
Chúng đã mua chuộc được những tên như Sầm Văn Viên, Sầm Văn Kim ở Quỳ

Châu - Nghệ An, lừa bịp nhân dân hai bên biên giới về cái gọi là “khu tự trị Thái
Mường”.
Trước tình hình đó, để bảo vệ biên giới miền Tây, Liên khu IV chỉ thị cho các
tỉnh đội thành lập quân đội “Tây tiến” tiến lên Na Mèo, Na Pê, BaNaPhào, Sê Pôn
và Mường Xén. Đồng thời, để giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang có tính lâu dài
và hiệu quả, đầu năm 1946, Liên khu IV mở lớp đào tạo cán bộ quân sự giúp bạn,
đâyn là khoá đào tạo cán bộ quân sự đầu tiên cho bạn. Khoá này có 26 người, sau đó
Liên khu IV mở tiếp hai kháo giúp bạn đào tạo được 105 người.
Trang
15
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
Để bảo toàn lực lượng, một số đơn vị du kích của Lào được lệnh rút phía Tây
liên khu IV trong đó có đơn vị của ông Phay Đang, Nhiêu Vư rút về Mường Xén -
Nghệ An. Nhân dân Nghệ An nói chung, Kì Sơn nói riêng đã đón tiếp, đùm bọc giúp
đỡ toàn diện trong suốt thời gian đơn vị đóng quân ở đây.
Tháng 10/1946 tại thành phố Vinh-Nghệ An đã diễn ra một cuộc họp quan
trọng, thành phần cuộc họp gồm cán bộ các tỉnh khăm Muộn, Xavanakhẹt, Sầm
Nưa, Xiêng Khoảng. Hội nghị đã bầu ra uỷ ban giải phóng Đông Lào do ông Nuhắc
Phaxavẳn làm chủ tịch, uỷ bạn nhận được sự giúp đỡ của Liên khu IV và tỉnh Nghệ
An trong suốt thời gian đóng trên đất Nghệ An.
Trước sự xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, ngày 19/12, chủ tịch Hồ Chí
Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Dựa vào ưu thế quân sự, đầu 1947, thực
dân Pháp tạm thời chiếm được các đô thị lớn và các trục giao thông chính. Các tỉnh
Thanh Nghệ Tĩnh vẫn do ta kiểm soát và đã trở thành hậu phương của chiến trường
Bắc Trung Bộ và chiến trường Trung Lào.
Nhận xét:

1947-1950:
Các lực lượng yêu nước và liên quân Lào - Việt đã chiến đấu anh dũng ngoan
cường, gây cho Pháp nhiều tổn thất. Nhưng với một đội quân xâm lược nhà nghề

được trang bị mạnh hơn hẳn lực lượng kháng chiến Lào, giặc Pháp vẫn liên tiếp mở
rộng phạm vi chiếm đóng. Để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
lâu dài, xứ uỷ lâm thời lào quyết định điều các đơn vị vũ trang sang Thái Lan. Một
bộ phận vũ trang và các tổ chức kháng chiến yêu nước rút về miền Tây - Việt nam
để củng cố xây dựng tổ chức.
Tháng 1/1947, uỷ ban vận động độc lập Đông Lào do ông Thao Nu Hắc làm
Chủ tịch, gồm 70 cán bộ nhân viên và một trung đội bảo vệ có 35 cán bộ chiến sĩ
vượt biên giới sang miền Tây Nghệ An, đóng cơ quan ở một địa điểm lấy tên là
“Đồn điền” cách huyện Con Cuông 3km về phía Cửa Rào.
Trang
16
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
Mọi sinh hoạt phí và nhu cầu vật chất do chính phủ Việt Nam và uỷ ban kháng
chiến Nghệ An đảm nhiệm.
Theo thoả thuận của hai chính phủ, Đảng bộ và nhân dân Nghệ An giúp đỡ, tạo
mọi điều kiện cho bạn mở trường quana chính đào tạo cán bộ tại xã Lĩnh Sơn, huyện
Anh Sơn. Đây là trường quân chính đầu tiên của Trung Lào có 150 học viên. Về
nước tham gia kháng chiến phần đông học viên quân chính đều trở thànhcán bộ
nòng cốt của Đảng và lực lượng vũ trang cách mạng Lào.
Thực dân Pháp chiếm đóng nước Lào, nhất là Trung và Thượng Lào. Điều đó chẳng
những khiến cách mạng Lào gặp nhiều khó khăn mà còn ảnh hưởng đến miền Tây
Nghệ An.
Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (1/1947) đã nhận định: “Căn cứ địa
của rừng núi miền Tây Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có một vị trí chiến lược hết sức
quan trọng đối với miền Bắc Việt Nam và cả miền Bắc Đông Dương” (văn kiện hội
nghị quân sự toàn quốc, kho lưu trữ bộ quốc phòng, phòng bộ quốc phòng(hồ sơ
40). “Hùng cứ được vùng đó ở vào cái thế “cứ cao lâm hạ” có thể uy hiếp hậu
phương của ta , mà chúng lại mong thực hiện âm mưu thâm độc “dĩ Việt chế Việt”,
chia rẽ các anh em dân tộc thiểu số, dùng bộ đội người Việt thiểu số để đánh chúng
ta”. (Thư Bộ Tổng chỉ huy gửi bộ đội Tây tiến - Lịch sử cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp (1945 -1954), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr268).
Bộ trưởng quốc phòng - tổng tư lệnh quyết định mở mặt trận miền Tây – Tây
tiến. Mục đích của mặt trận miền Tây là tiêu diệt một bộ phận quân địch, phá thế uy
hiếp của chúng đối với miền tây Bắc và Bắc Trung Bộ. Các đơn vị vừa tác chiến,
vừa vũ trang tuyên truyền, vạch rõ âm mưu của thực dân Pháp, củng cố tình đoàn
kết Việt – Lào , củng cố và mở rộng các tổ chức quần chúng, động viên nhân dân
kháng chiến.
Như vậy, với quyết định này chúng ta đã xác định được vai trò vô cùng quân
trọng của miền Tây Tổ qupốc, hơn nữa tạo thêm một nhân tố mới nhằm giúp đỡ
cáchmạng Lào – đó là lực lượng bộ đội Tây tiến.
Trang
17
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
Tiểu đoàn 265 Nghệ An cùng 5 tiểu đoàn của khu II, khu III, Hà Nội và Thanh
Hoá tham gia Mặt tận miền Tây.
Đối với Nghệ An, miền Tây trở thành mặt trận xung yếu, thường xuyên bị uy
hiếp. Bên kia biên giới, Pháp đã rải quân chiếm hầu hết các vị trí quan trọng ở Xiêng
Khoảng, Sầm Tớ. Đối diện Quỳ Châu có các vị trí bản Hang, Mường Pao, Bản Táu,
Mườn Na, Pung Thái, Mường Dương gồm 650 tên (trong đó có 40 sĩ quan Pháp).
Riêng căn cứ Mường Pao có một trung đội lính lê dương cơ động.
Đối diện Tương dương có các vị trí Mường Mô, Pha Vén, Noọng Hét. Noọng
Hét được chúng coi là trọng điểm, nên từ trang bị cho đến bố phòng đều tăng cường
hơn hẳn các vị trí khác. Chủ lực địch tập trung ở Xiêng Khoảng có 2000 tên.
Cùng với việc tàn phá các cơ sở kháng chiến của cách mạng Lào, quân Pháp
còn nhiều lần cho lực lượng thọc qua biên giới vào quấy phá miền Tây Nghệ An, hỗ
trợ và kích động các phần tử phản động trong vùng chống phá kháng chiến.
Dưới sự lánh đạo, chỉ đạo trực tiếp của khu uỷ IV, Tỉnh uỷ Nghệ An đã kiên quyết
tập trung chỉ đạo giải quyết vấn đề miền Tây. Đây là hướng chính quan trọng nằm
trong thế trận chung của khu và cả nước, là địa bàn có đặc điểm và tính chất đặc biệt
nên tỉnh chủ trương xây dựng kế hoạch đồng bộ, huy động lực lượng nhiều ngành,

nhiều cấp tham gia, kết hợp chặt chẽ biên pháp vũ trang với chính trị.
Đi đôi với việc trấn áp tiêu diệt lực lượng đầu sỏ, phá tan tổ chức và lực lượng
vũ trang phản động, đồng thời kết hơp với việc vận động giáo dục quần chung, chú
trọng xây dựng tổ chức cách mạng và lực lượng vũ trang cơ sở, quan tâm cải thiện
và nâng cao đời sống cho tầng lớp nông dân nghèo, kết hợp đánh địchbên trong và
bên ngoài biên giới.
Tỉnh thành lập một số ban chỉ huy để thống nhất việc chỉ huy, chỉ đạo các khu
vực.
Ban chỉ huy mặt trận đường 7 gồm đại diện trung đoàn 57 và ban chỉ huy bộ đội liên
quân Lào - Việt, chỉ huy sở đặt ở thị trấn Mường Xén. Tiểu đoàn 265 bổ sung thêm
quân số và trang bị tham gia vào lực lượng miền Tây – Tây tiến của Bộ tổng tư lệnh,
được bố trí đứng chân ở huyện Tương Dương để phối hợp triển khai hoạt động với
Trang
18
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
các đại đội bộ đội Lào yêu nước - đại đội Xiêng Xinh ở Mỹ Lý. đại đội Thao Tu ở
Mường Xén và đại đội Bu Liêng hoạt động ở giáp Con Cuông.
Ban chỉ huy mặt trận Quỳ Châu gồm các đồng chí chỉ huy đại đội 58 và trung đội bộ
đội địa phương, chỉ huy sở ở Kẻ Bọn.
Sau khi được củng cố và chuẩn bị mọi mặt, tiểu đoàn 265 vựot biên giới sang
phía Tây Bắc, cùng với 2 tiểu đoàn của Thanh Hoá tạo thành hai gọng kìm kẹp quân
địch ở Sầm Nưa, cắt đứt liên lạc của quân Pháp ở Bắc Lào. Cuối tháng 2/1947, tiểu
đoàn 265 đồng loạt nổ súng đánh địch ở các vị trí Sầm Tớ, Bản Táu, Mường Na,
phối hợp với cánh quân ở Thanh Hoálàm chủe tuến sông MMã và Sầm Tớ. Tháng
3/1947, bộ đội Tây tiến cùng lực lượng vũ trang yêu nước Lào bao vây thị xã Sầm
Nưa. Bộ chỉ huy Pháp lập tức mở cuộc hành quân theo hai hướng đến giải vây.
Hướng thứ nhất từ Hà Nội lên, hướng thứ hai tuìư Yên Xuân , Sơn La xuống. Bộ đội
ta phản công quyết liệt, khiến quân địch phải chạy về Mường Na để củng cố lực
lượng.
Cuộc chiến đấu của tiểu đoàn 265 vốn đã khó khăn phức tạp ngày càng trở nên

căng thẳng, ác liệt hơn:“Địa thế hiểm trở,núi rừng trùng điệp, khí hậu khắc nghiệt,
thiếu gạo muối, thiếu súng đạn”. Đặc biệt các đơn vị hoạt động ở Mường Mô,
Noọng Hét có lúc phải sống bằng rau rừng, bắp ngô, củ sắn, phải đốt cỏ tranh thay
muối. Phần lớn các chiến sĩ tình nguyện bị bệnh sốt rét nhưng với tinh thần quốc tế
vô sản cao cả “vẹn tình trọn nghĩa”, bộ đội Việt Nam vẫn bám địa bàn trên đất bạn
cùng bạn hoạt động. Các chiến sĩ nêu cao tinh thần quốc tế, giúp bạn vượt qua nguy
hiểm vừa đánh địch, vừa tuyên truyền vận động nhân dân, bước đầu xây dựng các
địa bàn đứng chân ở một số địa phương bạn, làm cho nhân dân các bộ tộc Lào hiểu
biết và tin tưởng hơn vào cuộc kháng chiến chống Pháp và mối quan hệ đoàn kết
chiến đấu của nhân dân hai nước Việt – Lào.
Các đồng chí lãnh đạo cấp Liên khu, tỉnh và nhân dân hậu phương Nghệ
Anvẫn luôn theo dõi và dành mối quan tâm đặc biệt đối với cán bộ chiến sĩ ở mặt
trận miền Tây.
Trang
19
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
Cuối năm 1947, thực dân Pháp bị thất bại trong chiến dịch tấn công lên VIệt
Bắc, chúng phải chấp nhận một cuộc chiến tranh lâi dài với ta.
Như vậy, trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến, Nghệ An đã tạo điều kiện
giúp bạn xây dựng lực lượng từ không đến có. Bạn đã thành lập được một số căn cứ
kháng chiến và lực lượng vũ trang để làm nòng cốt. Lực lượng vũ trang Liên khi IV
cũng như lực lượng bộ đội địa phương Nghệ An đã phối hợp với bạn chiến đấu tiêu
hao sinh lực địch. Nhân dân Nghệ An đặc biệt là khu vực miền Tây Nghệ An đã cưu
mang giúp đỡ chiến sĩ Lào cũng như liên quân Lào - Việt và bộ đội Tây tiến hoàn
thành nghĩa vụ quốc tế cao cả. Điều quan trọng nữa là ta đã phối hợp với bạn tuyên
truyền giác ngộ nhân dân để hoj hiểu đường lối kháng chiến của Đảng, của chính
phủ hai nước Việt – Lào.
Bước sang năm 1948, cuộc kháng chiến của nhân dân Lào tiến lên những bước
mới nhờ hoạt động của lực lượng vũ trang yêu nước Lào cũng như sự giúp đỡ của
bộ đội Tây tiến.

Sau thất bại ở Việt Bắc, thực dân Pháp thực hiện những âm mưu mới gây cho ta
những khó khăn mới. Trước tình hình đó, từ ngày 15 – 17/1/1948, Hội nghị ban
chấp hành Trung ương Đảng được tiến hành. Hội nghị vạch ra nhiệm vụ và phương
hướng cách mạng ở giai đoạn mới về việc giúp đỡ bạn, Đảng đã xây dựng đề cương
cách mạng Lào – Miên và thành lập Ban cán sự hải ngoại giúp cách mạng Lào –
Miên phát triển. Đề cương chỉ rõ: cách mạng Lào là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân Lào, vận mệnh dân tộc Lào do người Lào quyết định. Việt Nam giúp Lào là
nghĩa vụ quốc tế nhưng không can thiệp vào nội bộ của Lào. [ddmdd;150]. Theo đó
nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang giúp bạn là lấy việc xây dựng cơ sở chính trị,
cơ sở chính quyền, cơ sở du kích, phát triển chiến trnah du kích và xây dựng Đảng
làm mục tiêu hoạt động. Bản đề cương cũng xá định: Người đảng viên, cán bộ,
chiến sĩ Việt Nam hiên đang hoạt động ở Lào phải đứng trên quyền lợi của nhân dân
Lào mà chiến đấu. Chúng ta chỉ có thể là mưu sĩ giúp đỡ ý kiến chứ không phải là
chủ tướng, hạnh phúc của người Lào do dân Lào tự tranh thủ lấy. Bản đề cương
Trang
20
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
cách mạng Lào – Miên là “cẩm nang”dẫn đường cho cán bộ chiến sĩ và nhân dân
Nghệ An thực hiện giúp đỡ cách mạng Lào có hiệu quả hơn.
Tháng 5/1948, Hội nghị đại biểu “Hội Lào cứu quốc” Trung Lào khai mạc ở một địa
điểm gần biên giới Nghệ An. Đại hội bầu ra uỷ ban độc lập kháng chiến Trung Lào
để thống nhất điều hành mọi hoạt động chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội
của các lực lượng yêu nước, kháng chiến trong vùng. Tuyên ngôn của đại hội kêu
gọi nhân dân Lào đoàn kết kháng chiến, chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc
lập thống nhất nước Lào, đoàn kết với người anh em thân thiết Việt Nam kháng
chiến chống kẻ thù chung.
Phong trào kháng chiến của nhân dân Lào từ sau Hội nghị Trung Lào có sự
phát triển mạnh mẽ hơn, thu hút được rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Hoạt động
chống địch và bất hợp tác với địch có nhiều hình thức sinh động và thiết thực, kể cả
trong hàng ngũ binh lính địch.

Hội cứu quốc Lào kết nạp tất cả những người yêu nước không phân biệt thành
phần dân tộc, đẳng cấp xã hội. Mỗi Tà Xẻng có trên 500 hội viên, 24 cán bộ và 1
trung đội du kích. Ở các vùng địch kiểm soát, nhiều Nai Bản là người của Hội cứu
quốc. Nhân dân còn tìm cách để giảm số lượng đóng góp các khoản gạo, tiền, thuốc
phiện…cho địch, trốn tránh vào rừng hoặc chạy sang vùng giải phóng.
Ngày 4/7/1948, có 3 lính nguỵ mang theo 3 súng, 515 viên đạn chạy sang hàng ngũ
kháng chiến.
Ngày 6/8/1948, bộ đội giải phóng Lào được nhân dân và gia đình lính nguỵ
giúp đỡ cải trang thành thường dân vào đồn Bản La ở sâu trong vùng địch tạm
chiếm vận động được 50 lính nguỵ mang theo 50 súng, bỏ đồn về với gia đình.
Những kết quả hoạt động vừa qua đã giúp bộ đội Tây tiến, liên quân Lào - Việt có
điều kiện mới để đẩy mạnh hoạt động tác chiến và mở rộng công tác vận động các
mặt kinh tế - văn hoá – xã hội.
Ban chỉ huy tiểu đoàn 265 phối hợp với phòng thông tin tuyên truyền của uỷ ban
độc lập kháng chiến Trung Lào, tổ chức các lớp bình dân học vụ cho nhân dân và bộ
đội Lào. Cán bộ phòng biên chính liên khu IV cùng phòng thông tin tuyên truyền
Trang
21
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
Lào có sự giúp đỡ của Ty bình dân học vụ Nghệ An, biên soạn sách giáo khoa bằng
chữ Lào, được bộ đội Tây tiến cũng như nhân dân và bộ đội Lào ham thích. Tiểu
đoàn mở lớp đầu tiên cho 25 học viên để rút kinh nghiệm mở rộng của các lớp khác.
Ở vùng giải phóng bộ đội Việt – Lào vừa giúp dân học chữ, huấn luyện dân quân du
kích, vừa cùng dân sản xuất và tham gia mọi sinh hoạt văn hoá, văn nghệ. Anh em
bộ đội Việt say sưa học tiếng, học chữ Lào. Nhiều anh em nói thnàh thạo như người
địa phương. “Ở đâu bộ đội Việt – Lào cũng được bà con các dân tộc Lào thương
yêu, đùm bọc và tận tình giúp đỡ. Thế trận lòng dân và tình đoàn kết keo sơn Việt –
Lào đã tạo điều kiện cho bộ đội liên quân hoạt động liên tục” [11;158].
Sau nhiều lần nghi binh thăm dò, ngày 21/12/1948, Pháp cho hai tiểu đoàn tạo thành
hai gọng kìm tiến công Mường Mô để diệt chủ lực của ta. Suốt ngày chúng không

gặp được bộ đội liên quân Lào - Việt. 3giờ sáng ngày 22/12/1948 một đại đội của
liên quân bất nhờ tập kích vào vị trí dã ngoại của địch. Trận đánh diễn ra chớp
nhoáng, tuy lực lượng ít và trang bị kém hơn, quân ta vẫn tiêu diệt 15 tên địch, có 4
sĩ quan Pháp, thu 1 tiểu liên và 1 súng trường Anh. Trong trận này, bên ta có 6 chiến
sĩ hi sinh.
Cùng ngày 21/12/1948, đại đội 1 tiểu đoàn 265 phối hợp với đại đội 21 ông
Thao Kê, đánh địch ở Mường Nham, buộc chúng phải rút về Xiêng Khoảng. Ngày
3/1/1948, một trung đội lính nguỵ do 2 sĩ quan Pháp chỉ huy, cả trung đội nguỵ
hoảng sợ, chạy tán loạn vào rừng. Ngày 7/1/1949, hai đại đội địch tấn công Mường
Nham, vấp phải trận địa phục kích của liên quân, chúng phải rút chạy mang theo xác
6 tên Pháp.
Chiến thắng trong các trận đánh của liên quân tuy không lớn, nhưng lực lượng
địch bị tiêu diệt phần lớn là sĩ quan Pháp, làm cho binh lính địch hoang mang sợ hãi,
nhân dân thêm tin tưởng vào lực lượng kháng chiến. Uy tín của Mặt trận yêu nước
Lào lan rộng trong nhân dân. Các tổ chức yêu nước kháng chiến Lào phát triển và
hoạt động ngày càng tích cực.
Trang
22
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
Phát huy thắng lợi, bộ đội liên quân phân tán lực lượng, liên tục quấy phá
làm cho địch phải co lực lượng, không dám ngang nhiên hành quân càn quét vùng
giải phóng.
Sau nhiều năm tháng chiến đấu liên tục trong những điều kiện khó khăn ác liệt
bộ đội liên quân cần được chấn chỉnh, bổ sung củng cố về mọi mặt để tiếp tục thực
hiện những mục tiêu, nhiệm vụ mà Bộ tổng tư lệnh giao phó. Do đó tháng 7/1948,
tiểu đoàn 265 bàn giao nhiệm vụ cho du kích địa phương, rút về Nghi Lộc để củng
cố và bồi dưỡng. Cùng về với tiểu đoàn 265 có đại đội người Mẹo của ông Ba Tu.
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Nghi Lộc vui mừng đón tiếp tận tình, chăm lo
mọi mặt cho bộ đội Tây tiến chiến thắng trở về như con em trong nhà.
Tuy nhiên, lợi dụng chủ lực ta đang ở sâu trong hậu phương, địch lại tămng cường

hoạt động quấy rối và càn quét miền Tây, đặc biệt là khu vực Mường Lống – Tương
Dương, mở rộng phạm vi hoạt động, đóng quân chốt giữ dài ngày và sâu trong địa
bàn ta. Điều đó chẳng những ảnh hưởng đến nhân dân Tây Nghệ An mà còn gây tâm
lí hoang mang đối với nhân dân bộ tộc Lào gần kề biên giới. Do đó, tỉnh uỷ đã đánh
giá lại tình hình miền Tây, điều động lực lượng trở lại Tương Dương, tiến hành vũ
trang tuyên truyền xây dựng cơ sở chính trị, giải phóng Mường Lống.
Nhờ đó tình hình an ninh vùng biên giới từ Quỳ Châu đến Tương Dương từng
bước ổn định. Quân dân Nghệ An có thêm điều kiện để đoàn kết chiến đấu với quân
dân Lào, đưa cuộc kháng chiến của hai dân tộc tiến lên.
Từ đầu năm 1949, cuộc kháng chiến của nhân dân Lào có những bước chuyển
biến đáng kể. Ngày 20/1/1949, tại đơn vị Lạt Xa Vông ở chiến khu Xiêng Keo, tỉnh
Sầm Nưa, đồng chí Cay Xỏn Phômvihản tuyên bố thành lập quân đội Lào Itxala -
tiền thân của quân đội giải phóng nhân dân Lào ngày nay. Đây là sự kiện trọng đại
đối với cuộc kháng chiến của nhân dân các bộ tộc Lào và nhân dân Đông Dương.
Ngày 1/3/1949, khu kháng chiến Hạ Lào được thành lập.
Để ngăn chặn sự phát triển của lực lượng kháng chiến Lào, thực dân Pháp xiết
chặt sự cai trị của chúng trên phần lớn lãnh thổ Lào bằng các biện pháp quân sự và
tiến hành nhều thủ đoạn tàn bạo, thanh toán các thế lực có xu hướng tiến bộ hoặc
Trang
23
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
trung lập, lập ra chính phủ cực hữu để phục vụ đắc lực cho mục đích chính trị của
Pháp, tổ chức ra quân đội quốc gia Lào đặt dưới quyền chỉ huy của quân đội Pháp
(14/7/1949).
Nhân dân Lào tập hợp xung quanh Mặt trận yêu nước Lào và Hoàng thân
Xuvanuvông vẫn tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến. Các lực lượng vũ trang yêu
nước Lào, có sự phối hợp của bộ đội tình nguyện Việt Nam, vừa vũ trang tuyên
truyền xây dựng cơ sở chính trị, vừa tiếp tục tổ chức đánh địch.
Ngày 22/7/1949, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra Huấn lệnh cho liên
khu IV về tình hình nhiệm vụ trước mắt, Huấn lệnh chỉ rõ phải mở rộng mặt trận

sang Lào[17;181], đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đường 9, liên lạc với khu du kích
ở Bôlôven, mở rộng căn cứ du kích ở Xiêng Khoảng, hoạt động về phía Viên Chăn
và liên lạc với Sầm Nưa, có kế hoạch đào tạo cán bộ người Lào và người Việt để
tăng cường cho mặt trận Lào, chuẩn bị lực lượng khi có điều kiện có thể đưa sang
hoạt động ở Lào, phối hợp kế hoạch mở rộng mặt trận Lào – Miên của Bộ.
Đến cuối 1949, hàng loạt căn cứ gải phóng được xây dựng và mở rộng trên địa
bàn toàn quốc Lào. Có nhiều căn cứ nối liền với vùng tự do Việt Nam, làm cho thế
trận liên hoàn Lào - Việt có điều kiện phát triển thuận lợi.
Trải qua 3 năm (1947 – 1949) vừa xây dựng vừa chiến đấu, các lực lượng vũ
trang Nghệ An đã trưởng thành về tổ chức chỉ huy và trình độ mọi mặt, có khả năng
đáp ứng yêu cầu phát triển của tình hình. Tháng 3/1950, trung đoàn 57 bàn giao
nhiệm vụ chiến đấu ở miền Tây cho tiểu đoàn 198 Mường Xén để chính thức tham
gia thnàh lập đại đoàn 304.
Nhận nhiệm vụ, cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 198 bứoc ngay vào cuộc chiến đấu.
Ngày 7/5/1950, đại đội 29, tiểu đoàn 198 chặn đánh địch tại Noọng Hét, diệt 25 tên,
có một quan hai Pháp.
Theo chủ trương của Bộ tổng tư lệnh, ngày 19/5/1950, tại Linh Cảm - Đức
Thọ - Hà Tĩnh, liên khu IV tiến hành thnàh lập trung đaòan 120 quân tình nguyện
Trung Lào. Lực lượng trung đoàn bao gồm cán bộ chiến sĩ bộ đội địa phương của
hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhất là những đồng chí đã tham gia chiến đấu ở Lào
Trang
24
Hồ Thị Bích Phượng Lớp 47A Sử
từ năm 1946 và một số cấp uỷ viên, đảng viên làm nòng cốt. Trung đoàn quân tình
nguyện sát cánh chiến đấu với quân đội Lào Itxala và các lực lưọng vũ trang yêu
nước Lào đã tạo điều kiện cho quân dân Lào phát triển chiến tranh du kích, mở rộng
căn cứ kháng chiến ở Xiêng Khoảng, TrungLào và Hạ Lào.
Trước sự phát triẻn của tình hình, sự lớn mạnh của cách mạng Lào nên cần
phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức yêu nước cũng như phải tăng
cường đoàn kết các lực lượng yêu nước.,do đó ngày 29/6/1950, Đảng cộng sản

Đông Dương triệu tập hội nghị cán bộ toàn Lào, Hội nghị xác định trong thời gian
1950 – 1951 phải cố gắng giành cho được lợi thế về mặt chính trị ở Lào, phải phối
hợp chặt chẽ với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt nam để giành thắng lợi về
mặt quân sự trên chiến trường Đông Dương. Hội nghị còn đề ra nhiệm vụ triệu tập
Đại hội quốc dân Lào. Ngày 13 – 15/8/1950 Đại hội quốc dân Lào đã họp thống
nhất các tổ chức quần chúng, thành lập mặt trận Lào Itxala và chính phủ kháng
chiến Lào Itxala. Đại hội định ra 12 chính sách lớn thể hiện cương lĩnh chính trị của
cách mạng Lào giai đoạn trước mắt. Trong đó, khẳng định sự đoàn kết với các dân
tộc Việt Nam, Khơ Me đánh đuổi đế quốc Pháp. Đây là một sự kiện chính trị quan
trọng của nhân dân các bộ tộc Lào nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Hơn thế Nữa, tình đoàn kết chiến đấu của quân dân Nghệ An với quân dân Xiêng
Khoảng – Trung Lào càng có thêm cơ sở vững chắc để phát triển tốt đẹp.
Có thể nói những thắng lợi ở mặt trận miền Tây – Tây tiến đối với đảng bộ và quân
dân Nghệ An là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược vì đã tích cực đánh địch, phá tan
được âm mưu thâm độc của thực dân Pháp chiếm đóng và sử dụng địa bàn phía Tây
dùng người Việt đánh người Việt. Đồng thời, động viên được tinh thần và lực lượng
của quân dân toàn tỉnh phối hợp chiến đấu giúp đỡ bạn Lào trong việc xây dựng cơ
sở chính trị và lực lượng vũ trang, phát triển chiến tranh du kích, mở rộng các căn
cứ giải phóng, góp một phần tạo thế và lực đưa cuộc kháng chiến của hai nước tiến
lên trong giai đoạn mới
1950 đến 1954
Trang
25

×