Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí ngôn ngữ trên sóng phát thanh của đài tiếng nói việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.68 KB, 19 trang )

Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam

Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, ngôn ngữ phát thanh là một bộ phận giúp cho hệ thống kinh tế
xã hội của chúng ta trở nên trọn vẹn. Ngôn ngữ phát thanh trở thành người
phát ngôn cho doanh nghiệp. Là một dạng truyền thông đại chúng gắn bó
với thế giới thương mại và tiếp thị, ngơn ngữ phát thanh là cơng cụ mạnh
mẽ, đẩy dịng chảy thông tin từ người bán đến người mua.
Xét từ quan điểm ngơn ngữ học, ngơn ngữ phát thanh hình thành nên
một thể loại văn bản với những đặc trưng riêng, chức năng khơng chỉ là
thơng báo mà cịn thuyết phục và tác động. luận bàn về hoạt động ngôn ngữ
phát thanh ở Việt Nam. Hơn thế nữa, trên phương diện xã hội, ngơn ngữ
phát thanh phải phù hợp với tính dân tộc, văn hóa, phong tục, tập quán, luật
lệ của xã hội.
Nghị quyết 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
khóa 8 “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc” (1998) nhận định rằng trong ngành thơng tin đại chúng,
“khuynh hướng thương mại hóa”, lạm dụng ngơn ngữ phát thanh để thu lợi
cịn khá phổ biến. Do vậy Nghị quyết 5 đã yêu cầu nghiên cứu xây dựng bộ
luật về ngôn ngữ phát thanh, là một trong những giải pháp để xây dựng và
phát triển văn hóa. Ngày 16/11/2001, Pháp lệnh ngơn ngữ phát thanh đã
được Thường vụ Quốc hội chính thức thơng qua, và chỉ sau đó một tuần,
ngày 23/11/2001 tại Hà Nội, Hiệp hội Ngơn ngữ phát thanh Việt Nam đã
chính thức ra đời. Trước đó, Luật Thương mại được Quốc hội thơng qua
ngày 10/5/1997 cũng đã dành 39/264 điều để điều chỉnh hoạt động ngôn
ngữ phát thanh thương mại và các hoạt động liên quan. Các động thái này
là những dấu hiệu chứng tỏ vai trị quan trọng của ngơn ngữ phát thanh
trong nền kinh tế đã được nhìn nhận khác với trước đây.
Như vậy, về cơ sở pháp lý, Nhà nước Việt Nam đã ban hành ít nhất 1 bộ


luật, 1 pháp lệnh và 5 nghị định nhằm chống xâm phạm thuần phong mỹ
tục, sự lạm dụng tiếng nước ngoài và lừa dối người người tiêu dùng bằng

1


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
ngôn ngữ phát thanh bao gồm: Luật thương mại (1997), Nghị định 194/CP
(1994), Nghị định 87/CP (1995), Nghị định 88/CP (1995), Nghị định 36/CP
(1996), và Nghị định 32/1999/NĐ-CP (1999). Điều này chứng tỏ rằng bảo
vệ văn hóa dân tộc, bảo vệ ngôn ngữ dân tộc và bảo vệ người tiêu dùng
trước sau vẫn là 3 mục tiêu hàng đầu của pháp luật về ngôn ngữ phát thanh
ở Việt Nam.
Hiện nay, ngơn ngữ phát thanh trên mỗi một loại hình báo chí truyền
thơng đều có đặc điểm, thế mạnh và hạn chế riêng. Truyền hình vẫn đang
dẫn vị trí đầu bảng về thu hút ngôn ngữ phát thanh, do truyền hình là kênh
duy nhất có thể tác động đến tồn bộ các giác quan của khách hàng mà
ngôn ngữ phát thanh muốn nhắm đến từ hình ảnh sống động, âm thanh của
âm nhạc, giọng nói,… cho đến ngơn ngữ và màu sắc.
Nhưng ngày nay, khi tình hình kinh tế - xã hội có quá nhiều biến động,
khi lạm phát đang leo thang từng ngày, khi doanh nghiệp khơng cịn dám
chi mạnh tay cho ngơn ngữ phát thanh truyền hình thì ngơn ngữ phát thanh
trên các kênh truyền thơng chi phí thấp như đài phát thanh lại có tương lai
rộng mở đó là nhờ sự lên ngơi của điện thoại di động và công nghiệp ô tô
được coi là cứu cánh của ngành phát thanh với việc tích hợp chức năng
nghe đài phát thanh trong các phương tiện này.
Khác với các phương thức ngôn ngữ phát thanh nêu trên, phát thanh chỉ
tác động đến người nghe qua âm thanh. Rõ ràng, khi khơng thấy bao bì,
mẫu mã, cũng như các hình ảnh liên quan của sản phẩm, khách hàng sẽ ít
có ấn tượng hơn. Vì vậy, để ngơn ngữ phát thanh ấn tượng và hiệu quả thì

cần phải có sự đầu tư thích đáng vào kịch bản, âm thanh, giọng nói, đặc
biệt là về ngôn ngữ sử dụng trong các văn bản, thông điệp ngôn ngữ phát
thanh trên phát thanh cần rõ ràng, hấp dẫn và ấn tượng ngay từ đầu.
Những lý do nêu trên là cơ sở để tác giả quyết định chọn đề tài tiểu luận
môn Ngôn ngữ báo chí truyền thơng là: “Ngơn ngữ trên sóng phát thanh
của Đài Tiếng nói Việt Nam” .
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của đề tài này là nhằm góp thêm tiếng nói trong q trình
nghiên cứu về ngơn ngữ phát thanh trên sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam.

2


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
Nhiệm vụ là làm rõ vị trí, vai trị của ngơn ngữ báo nói; tăng cường kết
nối giữa thính giả và những người làm chương trình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Vai trò sử dụng ngơn ngữ nói trên loại hình báo nói.
- Một số lợi thế cũng như hạn chế trong việc sử dụng ngơn ngữ nói trên
sóng phát thanh
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ trên sóng phát
thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu, khảo sát:
Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát tại Đài Tiếng nói Việt Nam
3.3. Kết cấu của Tiểu luận:
- Mở đầu
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về ngơn ngữ trên sóng
phát thanh
- Chương 2: Ngôn ngữ phát thanh trên VOV

- Kết luận

3


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGƠN
NGỮ TRÊN SĨNG PHÁT THANH
1.1 CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƠN NGỮ PHÁT THANH
Ngơn ngữ báo phát thanh, lẽ đương nhiên, mang trong mình tất cả các
tính chất của ngơn ngữ báo chí nói chung. Song bên cạnh đó, nó cịn có một
số nét riêng biệt sau đây:
1.1.1 Ngơn ngữ phát thanh là ngơn ngữ nói (ngơn ngữ âm thanh)
Đây là một phẩm chất vơ cùng q giá, vì ngơn ngữ nói hướng tới thính
giác – một hệ thống tri giác hoàn hảo nhất của con người. Theo các chuyên
gia thì dung lượng thơng tin mà con người chuyển tải hay tiếp nhận được
nhờ tính giác và ngơn ngữ nói lớn gấp ba lần so với lượng thông tin mà anh
ta chuyển tải hay tiếp nhận bằng con đường thị giác – đọc hoặc viết.
Nguyên do là bởi ngôn ngữ nói, ngồi thơng tin nằm trong ý nghĩa của
ngơn từ, cịn mang trong mình một thơng tin bổ trợ đáng kể khác được thể
hiện qua chất giọng, qua ngữ điệu, qua âm lượng. Nói là “bổ trợ” nhưng
thực ra thơng tin này có vai trị quan trọng khơng kém thong tin chính. Và
trong khơng ít trường hợp, chính nó là nhân tố quyết định mức độ hiệu quả
của việc tiếp nhận thơng tin. Một bài viết trung bình nhưng do một người
có chất giọng tốt và biết sử dụng ngữ điệu hợp lý, linh hoạt truyền đạt sẽ có
sức tác động lớn hơn nhiều so với một bài viết hay nhưng do một người có
chất giọng tồi và thường xuyên xử lý sai ngữ điệu trình bày. Khơng phải
ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu ngôn ngữ phát thanh nổi tiếng người Mỹ

W.Hofman đã nhận định: “Nội dung của từ ngữ làm người ta xúc động tới
mức nào, thì âm thanh của tiếng nói cũng có thể làm người ta rung cảm tới
chừng ấy”.
1.1.2. Ngơn ngữ phát thanh thiên về hình thức độc thoại tuy có sử
dụng nhiều phương tiện của đối thoại
Có lẽ trước hết chúng ta nên tìm hiểu về hai khái niệm “đọc thoại” và
“đối thoại”.
“Độc thoại” là sản phẩm ngơn ngữ của một cá nhân trong hồn cảnh
giao tiếp chỉ có anh ta là người nói. Theo nhà ngôn ngữ học L.V.Serba

4


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
(Nga) “đây chỉ là hệ thống có tổ chức cao của các ý tưởng biểu đạt qua
ngôn từ, nhằm tác động có chủ đích tới những người xung quanh”.
Cịn “đối thoại” là một chuỗi những lời hồi đáp với tư cách là những
phản ứng qua lại giữa ít nhất hai cá thể nào đó.
Nhưng ở đây cần bổ sung thêm ngay rằng những lời hồi đáp có dung
lượng quá lớn (gồm nhiều câu và thể hiện trọn vẹn một chủ đề nào đó)
cũng được xem là độc thoại. Điều này có nghĩa là độc thoại có thể tồn tại
ngay trong đối thoại.
Với cách biểu hiện như trên của ngôn ngữ học về “độc thoại” và “đối
thoại”, chúng ta thấy ngơn ngữ phát thanh có khuynh hướng độc thoại rất
rõ nét. Phần lớn các thể loại của báo phát thanh như bình luận phóng sự,
phản ánh, câu chuyện phóng viên, điểm tin, tiểu phẩm,… đều mang tính
chất độc thoại. Rồi ngay cả một số ít thể loại vốn được coi là thuộc kiểu
đối thoại như phỏng vấn, đàm thoại bàn trịn thực ra cũng khơng thuần chất
chỉ là đối thoại. Bởi vì trong chúng có khơng ít những lời hồi đáp mang
tính chất độc thoại.

Bên cạnh đó, chúng ta khơng thể phủ nhận là độc thoại trên báo phát
thanh ngày càng dùng nhiều hơn phương tiện của đối thoại… Chẳng hạn,
trước khi bắt đầu độc thoại về một vấn đề, sự kiện hay hiện tượng nào đó,
người ta có thể xây dựng một tình huống đối thoại giữa hai người nhằm tao
sự sinh động để thu hút sự chú ý. Rồi trong quá trình độc thoại, người ta
thường xuyên sử dụng các từ ngữ, cách diễn đạt,… đặc trưng cho ngơn ngữ
đối thoại để người nghe thấy gần gũi, có cảm giác là nhà báo đang trò
chuyện trực tiếp với mình, và do vậy, hiệu quả tiếp nhận thơng tin sẽ cao
hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện của đối thoại chỉ là thủ pháp
tăng cường giá trị biểu cảm cho ngôn từ chứ không thể làm thay đổi bản
chất của độc thoại, khiến nó trở thành đối thoại.
1.1.3. Ngôn ngữ phát thanh luôn mang dấu ấn cá nhân rõ nét của
người nói hay người đọc
Mức độ của nó tùy thuộc vào từng thể loại, từng tình huống giao tiếp cụ
thể. Khi người truyền tin là phát thanh viên, dấu ấn cá nhân có vẻ như bị
hạn chế tới mức thấp nhất, sng người ta vẫn nhận thấy thái độ cảm xúc của
anh ta đối với bài viết thơng qua giọng điệu. Cịn nếu như người truyền tin
5


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
là tác giả bài viết (phóng viên, biên tập viên) thì dấu ấn cá nhân rõ nét hơn
nhiều. Khảo cứu cho thấy, lời nói của những người chưa từng qua các khóa
đào tạo đặc biệt về đọc, nói, luyện giọng (tức là họ không phải là phát
thanh viên hay nhà hùng biện chuyên nghiệp) thường là công cụ biểu đạt
hết sức tinh tế trạng thái tâm lý đích thực cũng như nhiều đặc điểm của
người phát ngơn. Có lẽ đây là lý do khiến cho nhiều đài phát thanh trên thế
giới thường xuyên yêu cầu các chr thể sáng tạo trình bày ngay chính tác
phẩm của họ trước micrơ. Bởi điều này tao điều kiện cho thính giả giải tỏa
được nhu cầu: khám phá một cá thể mới với những nét riêng tư trong đời

sống nội tâm của anh ta. Đây là một nhu cầu hết sức tự nhiên và nhân bản,
nó ln mang tính cấp thiết trong bất cứ thời đại nào, đúng như Hecxen
viết: “Cong người luôn muốn xâm nhập vào cá thể khác, muốn chạm tới
từng thớ mạch li ti của trái tim người khác để lắng nghe nghe nhịp đập của
nó. Anh ta so sánh, kiểm chứng, tìm kiếm sự khẳng định, sự đồng cảm, sự
biện hộ”.
1.1.4. Ngơn ngữ phát thanh khơng có khả năng đươc minh họa bằng
hình ảnh
Đây là mặt khác biệt, đồng thời cũng là mặt hạn chế của nó so với truyền
hình và báo in. Tuy nhiên, ngơn ngữ phát thanh đã tìm thấy sự minh họa
cho mình ở các nguồn khác cũng nằm trong chính thế giới của âm thanh.
Đó là các băng ghi âm tư liệu, là tiếng động, là âm nhạc, và đặc biệt là các
đặc tính vật chất và hình tượng của ngơn từ cất thành tiếng. Có thể nói, nhà
báo phát thanh phải vẽ nên hình ảnh bằng âm thanh. Thực tế cho thấy là các
tác phẩm báo phát thanh hay, có sức tác động lớn bao giờ cũng có ngơn
ngữ hết sức sống động, giàu hình ảnh, có tính trực quan cao, chắp cánh cho
sự tưởng tượng của người nghe, khiến cho họ có cảm giác đang được
chứng kiến sự việc xảy ra ngay trước mặt mình; bên cạnh đó, nó cịn phải
được trình bày bởi một chất giọng tốt, lên bổng, xuống trầm, tăng giảm tốc
độ âm thanh một cách hợp lý.
Hiện nay, đang có nhiều ý kiến cho rằng hạn chế về phương diện hình
ảnh của báo phát thanh rất có thể lại trở thành ưu thế của nó, vấn đề là sử
dụng ngôn ngũ âm thanh nhu thế nào? Quả vậy, nếu biết sử dụng ngôn từ
khéo léo và linh hoạt, nàh báo phát thanh có khả năng kích thích tư duy
6


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
sáng tạo của người nghe, làm cho ho luôn đóng vai trị tích cực trong việc
tiếp nhận thơng tin. Trong khi đó thì ở truyền hình, do được cung cấp q

đầy đủ thơng tin ở cả hai bình diện hình ảnh lẫn ngơn từ, khán giả ít phả tư
duy hơn nên dần trở nên thụ động mỗi khi tham gia vào kênh giao tiếp này.
1.1.5. Ngôn ngữ phát thanh cũng như ngơn ngữ truyền hình, có tính
hình tuyến
Các tín hiệu của ngôn ngữ phát thanh xuất hiện lần lượt, cái này tiếp theo
sau cái kia, tạo thành dòng chảy liên tục, theo bề rộng một chiều của thời
gian. Và người nghe tiếp nhận chúng một cách tức thời cho nên họ khơng
có khả năng quay lại với điều chưa hiểu hoặc chưa đầu tư thời gian để
nghiền ngẫm thấu đáo điều đã lĩnh hội được. Chính vì thế, bất cứ sai sót
nào (hay chỉ đơn giản là sự chưa quen tai) của ngơn ngữ phát thanh cũng
khiến cho thính giả phải dừng lại để suy nghĩ, tìm hiểu và có nghĩa là
khơng cịn tập trung tư tưởng để nghe các thơng tin kế tiếp nữa. Kết quả là
cái thì được hiểu mơ hồ, cái thì bị bỏ qua. Và như vậy thì tính hiệu quả của
chương trình bị giảm sút đáng kể. Xuất phát từ đây, yêu cầu đặt ra đối với
ngơn ngữ phát thanh là: chính xác, đơn nghĩa, rõ ràng, dễ hiểu.
Nói đến tính hình tuyến của tín hiệu ngơn ngữ khơng thể khơng nói đến
quan hệ ngữ đoạn là hệ quả của nó. Theo quan hệ này, các đơn vị ngôn ngữ
khi đứng cạnh nhau sẽ qui định lẫn nhau và cho ta những kết hợp gọi là
ngữ đoạn. Trong ngôn ngữ phát thanh, biểu hiện nổi bật nhất của quan hệ
ngữ đoạn là việc ngắt đoạn khi nói, khi đọc. Do đó, đây là điều cần được
các nhà báo phát thanh đặc biệt quan tâm. Cùng một sản phẩm ngôn từ, nếu
được ngắt đoạn ở những chỗ khác nhau sẽ biểu đạt các ý nghĩa khác nhau.
Cịn nếu ngắt đoạn sai thì tính chỉnh thể về mặt kết cấu của sản phẩm ngơn
từ đó bị phá vỡ, hậu quả là người nghe khó hiểu đúng nội dung của nó.
1.2. VÀI GỢI Ý SỬ DỤNG NGƠN TỪ TRONG PHÁT THANH
1.2.1. Nên hạn chế sử dụng từ ngữ địa phương
Những từ ngữ này, ở mức độ nào đó, có khả năng tăng cường tính biểu
cảm của ngơn ngữ phát thanh. Thế nhưng, về phạm vi hành chức, chúng chỉ
gắn liền với một địa phương nhất định nào đó nên có thể gây khó khăn cho
các thính giả là người sống ở khu vực khác.


7


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
1.2.2. Tránh lạm dụng việc vay mượn từ ngữ tiếng nước ngồi
Nếu nhất thiết phải vay mượn thì chỉ nên chọn những từ ngữ có tính phổ
cập rộng rãi và cố gắng phát âm chuẩn xác theo chuẩn mực đã được thừa
nhận. Vì khơng ít trường hợp cho thấy, những từ ngữ được vay mượn từ
tiếng nước ngoài, nếu không thông dụng hoặc được phát âm không đúng
thường trở thành những “hạt sạn” cản trở người nghe tiếp nhận thơn tin.
1.2.3. Đối với các thuật ngữ chun ngành ít gặp hay mới mẻ nên
diễn đạt bằng cách khác sao cho quảng đại quần chúng dễ hiểu
Đừng bao giờ bắt chước cách nói, cách dùng từ của các nhà chuyên mơn
mà chỉ có người trong giới mới hiểu được.
1.2.4. Tránh đưa ra quá nhiều con số trong một văn bản phát thanh
Việc đưa ra các con số nên có liều lượng vừa phải, nếu khơng người
nghe sẽ thấy chống ngợp, căng thẳng, khơng cịn đủ sự tỉnh táo cũng như
húng thú để nghe và lĩnh hội các thông tin khác; bên cạnh đó, các con số
cũng cần được làm trịn cho dễ nhớ.
1.2.5. Cố gắng đọc hoặc nói trươc micrơ thật diễn cảm (tất nhiên là ở
mức độ mà khả năng cho phép)
Qua giọng điệu phải thật sự “thả hồn” của mình vào nội dung tác phẩm
thì nó mới có sức tác động lớn với người nghe. Cịn kiểu nói hay đọc với
âm điệu đều đều, đơn điệu, tẻ nhạt dễ gây cảm giác là chính người chuyển
tải thơng tin cũng “vơ cảm” trước những gì mình đang trình bày. Và điều đó
dễ dàng giết chết mọi cảm xúc cũng như sự quan tâm của người nghe.
1.2.6. Cần tránh những câu văn có thể tạo nên nhiều cách hiểu
Vì sự “mơ hồ” về nghĩa như vậy của chúng dễ làm cho người nghe bị
phân tán tư tưởng hoặc hiểu sai, hiểu lệch chủ ý của tác giả.

Dưới dây là hai ví dụ về câu mơ hồ về nghĩa:
a. Điều đó thể hiện thái độ quyết tâm cao chống tệ nạn buôn lậu của Ủy
ban nhân dân (UBND).
b. Chống lây lan và sống chung với AIDS.
Các câu trên ít nhất có hai cách hiểu:
a. Thái độ quyết tâm cao của UBND.
- Tệ nạn buôn lậu của UBND.
b. Chống lây lan và sống chung với AIDS.
8


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
- Chống lây lan và nên sống chung với AIDS.
1.2.7. Cần hết sức kiệm lời
Trong báo phát thanh, người nghe do phải lĩnh hội thông tin một cách
tức thời, chỉ có thể tập trung sự chú ý của mình trong một thời gian ngắn.
Vì lẽ đó, trong số các cách diễn đạt có thể với cùng một nội dung nên chọn
cách diễn đạt ngắn gọn nhất mà vẫn chuyển tải được đầy đủ lượng thông
tin cần thiết.
1.2.8. Nên chú ý khai thác các biện pháp tu từ ngữ âm để ngơn ngữ
phát thanh sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa sâu sắc hơn
Nhà báo phát thanh có thể vận dụng những biện pháp cơ bản dưới đây:
a. Biện pháp hòa phối thanh điệu: là biện pháp lựa chọn, kết hợp các
yếu tố âm thanh sao cho hài hòa để các câu văn trở nên dễ nghe, dễ đọc.
Trong văn xi, để tạo sự hài hịa về thanh điệu, người ta thường sử
dụng luận phiên thanh điệu thuộc hai nhóm bằng (gồm thanh huyền và
thanh ngang) và trắc (gồm thanh hỏi, thanh ngã, thanh sắc và thnh nặng) ở
âm tiết của các câu hoặc thành phần câu, Ví dụ:
“… Chắc là rượu bổ (T). Có rẻ cũng phải ba, bốn đồng (B). Ý tất người
ta có định lấy con mình (B) thì người ta mới chịu bỏ tiền mua rượu biếu

chứ (T). Vả lại, bây giờ hạng thông, ký, phán lấy vợ nhà quê kể cũng
thường (B)” (Nam Cao).
“Được đi dự Đại hội Đảng lần thứ chín (T), ơng xúc động nói “Đảng đã
sinh ra tơi lần thứ hai” (B)”. (Đài TNVN, 20/4/2001).
“15 năm qua (B), văn hóa văn nghệ đã được nhiều thành tựu (T) trong
các lĩnh vực, nghiên cứu, sáng tác, phê bình (B)”. (Đài TNVN).
Biện pháp hịa phối thanh điệu có tính phổ cập hết sức rộng rãi. Hầu hết
các biện pháp tu từ ngữ âm khác khi được vận dụng đều phải ở mức độ này
hay mức độ khác kết hợp với nó.
b. Biện pháp lặp số lượng âm tiết: là biện pháp sử dụng các câu văn có
số lượng âm tiết như nhau ở cạnh nhau để tạo nên âm hưởng của thơ ca. Ví
dụ:
“Núi rừng vẫn ngút ngàn, rậm rạp. Đường đi tắt nhỏ teo hoang vu” (Hồ
Phương).
“Trận lụt chưa rút. Nước vẫn mênh mông” (Nguyễn Sáng).
9


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
c. Biện pháp lặp vần: Là biện pháp sử dụng các âm tiết có khn vần
giống nhau nhằm tạo nhạc tính cho câu văn. Ví dụ:
“Tre trơng thanh cao giản dị, chí khí như người. Nhà thơ đã có lần ca
ngợi: Bóng tre trùm mát rượi” (Thép Mới).
“… Dân làng thi nhau sắm thuyền bè đi tìm vàng trên khắp các lạch
sơng nguồn suối. Ngót chục năm trơi qua, những người đàn ông cứ biền
biệt ra đi. Vàng đâu chẳng thấy, cái mà họ đem về chỉ là những con
nghiện, những giọt nước mắt tàn tạ và … cả một gánh nợ khó bề trả nổi
(!). Người ta bảo: Đó là một canh bạc với ơng Giời” (Đỗ Dỗn Hoàng).
d. Biện pháp tạo nhịp điệu: Là biện pháp dùng những hình ảnh cân đối,
nhịp nhàng của lời văn nhằm tạo nên một âm hưởng lơi cuốn, dễ đi vào

lịng người.
Dưới đây là một số trường hợp điển hình về nhịp điệu:
- Dùng những từ phản nghĩa đối nhau. Ví dụ:
“Trong Việt Minh, đồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt
gái, trai, già, trẻ, lương giáo, giàu, nghèo” (Hồ Chí Minh).
- Dùng những cụm từ, những vế, những đoạn câu đối nhau. Ví dụ:
“Bất kỳ đàn ơng, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp, cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm,
khơng có gươm thì dùng quốc, thuổng, gậy, gộc, ai cũng phải ra sức chống
thực dân cứu nước”. (Hồ Chí Minh)
- Vận dụng sự cân đối, nhịp nhàng, khúc triết của các bộ phận trong một
câu ghép (thường đươc gọi là trường cú). Ví dụ:
“Nay, vì tình hình quốc tế, vì muốn tỏ lòng tin vào nước Pháp mới, và sự
thành thực của những người đại diện cho Chính phủ Pháp, và tin vào sự
hoàn toàn độc lập của tương lai nước nhà, tơi cùng Chính phủ ta ký bản
hiệp định sơ bộ với Chính phủ Pháp”. (Hồ Chí Minh).
Trong câu văn trên, về mặt tiết tấu, ngữ điệu có sự chia tách rõ rệt giữa
hai bộ phận: bộ phận thứ nhất từ đầu đến từ “nhà”, bộ phận thứ hai từ “tơi”
đên hết.
Giọng nói được nâng cao dần ở bộ phận thứ nhất của câu tạo ra một sự
căng thẳng chờ đợi. Sau khi đã lên cao đến đỉnh điểm thì đánh dấu bằng
10


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
một nhịp ngừng ngắt, tiếp theo đó hạ thấp rõ rệt ở bộ phận thứ hai, làm dịu
đi sự căng thẳng chờ đợi.
e. Biện pháp tạo âm hưởng chung: Là biện pháp phối hợp âm thanh,
nhịp điệu của câu văn không phải chỉ cốt tạo ra một sự cân đối nhịp nhành,

êm ái, du dương mà cao hơn thế, phải tạo ra được một âm hưởng hào quyện
với nội dung hình tượng của cả đoạn văn, thậm chí tồn văn bản. Ví dụ:
“Nước Việt Nam xanh mn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp,
cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa. Tre Đồng Nai,
nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên, lũy tre thân mật làng tơi. Đâu cũng
có nứa tre làm bạn.
… Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép kẻ thù. Tre xung phong vào xe
tăng đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín.
Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động. Tre, anh hùng
chiến đấu”. (Thép Mới)
Trong các đoạn văn trên, sự luân phiên thanh điệu bằng, trắc, sự thay đổi
nhịp điệu mau thưa, sự phối hợp câu dài với câu ngắn… đã tạo nên cái chất
thơ, chất nhạc hồn tồn hịa quyện với nội dung trữ tình, với cảm xúc say
sưa, mạnh mẽ của tác giả đối với đất nước thơng qua hình tượng cây tre.
Thực tế cho thấy, các biện pháp tu từ ngữ âm nói trên hầu như không bao
giờ xuất hiện đơn lẻ: Mỗi biện pháp thường chỉ xuất hiện đồng thời với các
biện pháp khác. Chính vì vậy, chúng thường mang sức mạnh cộng hưởng
làm cho câu văn vừa trở nên gợi cảm về mặt âm thanh, vừa được bổ sung
thêm những khía cạnh nhất định về mặt ý nghĩa.

11


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
Chương 2

NGÔN NGỮ PHÁT THANH TRÊN VOV
2.1. Giới thiệu về phát thanh VOV
Đài Tiếng nói Việt Nam (tên giao dịch tiếng Anh là "Radio The Voice of
Vietnam", viết tắt là VOV), cịn gọi là Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam,

là đài phát thanh quốc gia trực thuộc Chính phủ Việt Nam, với chức năng
thông tin, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
và pháp luật của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; góp
phần giáo dục, nâng cao dân trí, phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân
bằng các chương trình phát thanh, phát thanh trên Internet, phát thanh có
hìnhvà báo viết. Đài phát chủ yếu bằng tiếng Việt.
Đài Tiếng nói Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Thơng tin và
Truyền Thơng về hoạt động báo chí, tần số, truyền dẫn và phát sóng.
Hiện Đài Tiếng nói Việt Nam đã có đủ cả bốn loại hình báo chí: phát
thanh, truyền hình, báo in, báo điện tử. Trong khuôn khổ bài thu hoạch này,
tác giả tập trung đề cập đến lĩnh vực phát thanh.
Hệ Thời sự - Chính trị - Tổng hợp VOV1: Bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm
2010 VOV1 được phát sóng 24 giờ mỗi ngày. Song thực tế VOV1 vẫn chỉ
phát sóng 20 giờ mỗi ngày thời gian từ 0-4h sáng chuyển sang nhập hệ
VOV3. Hy vọng thời gian tới VOV1 sẽ phát sóng lại các chương trình
trong ngày nhằm đáp ứng nhu cầu khơng chỉ của các người u radio mà
cịn giúp những người đánh bắt cá trên biển được thêm thông tin.
Hệ Văn hoá - Đời sống - Khoa giáo VOV2: Hiện mỗi ngày đang phát
sóng 19 giờ.
Hệ Âm nhạc - Thơng tin - Giải trí VOV3: Phát sóng lần đầu tiên vào 7
giờ ngày 7 tháng 9 năm 1990 trên sóng FM tần số 102,7 mégahertz (mê-gahéc). Hiện mỗi ngày phát sóng 24 giờ. VOV3 phát sóng chương trình
XoneFM từ năm 2006 với số lượng khán giả lớn. Nhưng do thực tế qua
nhiều năm sự phát triển của công nghệ ngày càng nhiều nên XoneFM đã
mất đi một lượng khán giả lớn.
Hệ phát thanh dân tộc VOV4: Chính thức phát sóng từ ngày 1 tháng 10
năm 2004. Hiện phát thanh bằng 12 thứ tiếng dân tộc thiểu số là tiếng
Mông, tiếng Dao, tiếng Thái, tiếng Ê Đê, tiếng Jơ Rai, tiếng Ba Na, tiếng
12



Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
Xơ Đăng, tiếng K’ho, tiếng Chăm, tiếng Khmer, tiếng M’nơng, tiếng Cơ
Tu, và tiếng Việt (trong chương trình Dân tộc và Phát triển phát trên hệ
VOV1).
Hệ phát thanh đối ngoại VOV5: Chương trình phát thanh đối ngoại của
Đài Tiếng nói Việt Nam được phát sóng lần đầu tiên ngày 7 tháng 9 năm
1945. Ngồi chương trình phát thanh tiếng Việt dành cho người Việt Nam ở
nước ngoài, hiện VOV5 còn được phát thanh bằng 11 thứ tiếng khác là
tiếng Anh, tiếng Pháp,tiếng Nga, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nhật, tiếng phổ
thông Trung Quốc, tiếng Đức, tiếng Lào, tiếng Thái Lan, tiếng Khmer,
tiếng Indonesia. Các chương trình phát thanh của hệ VOV5 được phát trên
sóng ngắn và sóng trung sang châu Âu, Bắc Mỹ, một phần Trung Mỹ,
Đông Nam Á, Đông Bắc Á, một phần châu Phi. Tất cả các chương trình
phát thanh đối ngoại bằng tiếng nước ngồi của hệ VOV5 cũng được phát
sóng ở trong nước trên sóng FM tần số 105,5 megahertz tại Hà Nội, sóng
FM tần số 105,7 megahertz tại TP Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ninh.
Kênh VOV Giao thông Quốc gia: Bao gồm:
Kênh VOV Giao thơng Hà Nội: Phát sóng lần đầu tháng 5 năm 2009 trên
sóng FM tần số 91 megahertz.
Kênh VOV Giao thơng TP Hồ Chí Minh: Phát sóng lần đầu ngày 2 tháng
1 năm 2010 trên sóng FM tần số 91 megahertz.
2.2. Xu thế phát triển ngôn ngữ trên kênh phát thanh VOV
Gần 70 năm qua, các thế hệ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật
viên và nghệ sĩ của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) đã dày cơng xây dựng
nên dáng vóc và truyền thống vẻ vang của VOV. Cùng với các cơ quan báo
chí khác trong cả nước, VOV đã đóng góp những thành tựu vơ cùng quý
giá trong công tác thong tin tuyên truyền của Đảng và Nhà nước phục vụ
công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.
Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới trước sự phát triển mạnh mẽ của nền
báo chí cách mạng nước ta, cũng như nhu cầu về thông tin và chất lượng

thông tin không ngừng của cơng chúng và của xã hội, địi hỏi VOV phải
khơng ngừng vươn lên.
Phương châm của VOV là không ngừng cải tiến, đổi mới để phát triển.
Trước tiên là tập trung kiện toàn, nâng cao chất lượng các kênh phát thanh
13


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
truyền thống, đây là lĩnh vực hoạt động chính của Đài. Đó là Hệ Thời sự
chính trị tổng hợp VOV1, là kênh chủ lực quan trọng phát thanh đối nội
quốc gia; Hệ Văn hóa – Đời sống – Khoa giáo VOV2; Hệ Âm nhạc –
Thơng tin – Giải trí VOV3; Hệ phát thanh dân tộc VOV4; Hệ phát thanh
đối ngoại VOV5; Kênh Giao thông quốc gia VOVGT… Về nội dung, VOV
tiếp tục tập trung làm rõ bản sắc của từng kênh, xây dựng các chương trình
phát thanh hiện đại phù hợp với nhu cầu đa dạng của thính giả.
Với VOV5 duy trì 12 chương trình phát thanh bằng các thứ tiếng: Anh,
Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Trung Quốc, Đức, Lào, Thái Lan,
Campuchia, Indonesia và tiếng Việt dành cho đồng bào Việt Nam ở xa tổ
quốc. Các chương trình phát trên sóng FM 105.5 MHz tại Hà Nội và trên
sóng 105.7 MHz tại Thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Ninh. VOV5 phát
trên sóng ngắn, sóng trung hướng sang Châu Âu, Đông Bắc Mỹ, Tây Bắc
Mỹ, một phần Trung Mỹ, Đông Nam Á, Đông Bắc Á, một phần Châu Phi
và phát trên Internet tại địa chỉ hoặc
(trang thông tin điện tử đối ngoại). Trang thông tin điện tử đối ngoại
vovworld.vn văn bản hóa các chương trình phát thanh hàng ngày bằng 12
thứ tiếng: Việt, Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Bắc Kinh, Đức,
Lào, Thái Lan, Campuchia, Indonesia, phát trực tiếp các chương trình phát
thanh và treo các chương trình phát thanh nói trên trong vịng 7 ngày.
Ngồi ra, trang thơng tin này cịn có các phóng sự ảnh, tin truyền hình,
videoclip giới thiệu đất nước, con người, văn hóa, phong tục tập quán Việt

Nam…Trang web còn mở các chuyên mục riêng để đáp ứng yêu cầu tuyên
truyền các sự kiện đặc biệt như: 40 năm Điện Biên Phủ trên không, xây
dựng nông thôn mới, du lịch Việt Nam hội nhập và phát triển… Trang web
vovworld.vn đã nối dài cánh sóng đối ngoại của Đài Tiếng nói Việt Nam
đến những vùng, khu vực trên thế giới mà sóng ngắn khơng đến được.
Trang web cũng góp phần đưa thính giả gần hơn với Đài Tiếng nói Việt
Nam, tăng cường kết nối giữa thính giả và những người làm chương trình.
Về kỹ thuật, VOV tập trung rà sốt, có giải pháp tích cực và chiến lược
để nâng cao chất lượng và diện phủ sóng, đặc biệt là ở những vùng sâu,
vùng xa, biển đảo và ngay ở các vùng đô thị… VOV cũng tận dụng sức
mạnh công nghệ của Internet để tạo ra những phương thức truyền tải mới
14


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
vươn đến công chúng nhanh nhất và xa nhất phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại.
Bên cạnh đó, VOV sẽ đầu tư hiện đại hóa hệ thống trang thiết bị phục vụ
biên tập – sản xuất các chương trình phát thanh để cho ra đời các chương
trình có chất lượng cao, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và các phương tiện
tiếp nhận hiện đại, số hóa như máy tính bảng, điện thoại thơng minh…
Ngày nay, thể loại báo hình và Internet với ưu thế vượt trội đã trở thành
một thể loại hoạt động có tác động nhanh, mạnh và sâu rộng tới công chúng
và xã hội. Mục tiêu của VOV là đưa toàn bộ các nội dung của 4 loại hình
truyền thơng của Đài lên Internet để phục vụ công chúng.
Trên mạng Internet, báo Điện tử VOV (www.vov.vn) là phương tiện hữu
hiệu, vừa làm báo điện tử, vừa truyền – phát, quảng bá các kênh phát thanh,
truyền hình của VOV lên mạng trực tuyến. Vừa qua, Báo Điện tử VOV đã
đầu tư nâng cấp một bước về giao diện, cơ sở vật chất kỹ thuật, nội dung,
tăng cường năng lực để giữ vị trí là tờ báo có lượng bạn đọc cao trong tốp

các báo điện tử chính thống.
Hướng tới VOV sẽ tiếp tục cải tiến, đổi mới Kênh truyền hình VOVTV;
Hệ phát thanh đối ngoại VOV5; Báo in VOV; nâng cấp các chuyên trang
như www.vovworld.vn bằng 12 thứ tiếng (trong đó có 11 thứ tiếng nước
ngoài và tiếng Việt dành cho Việt kiều), xây dựng chuyên
trang www.vov4.vov.vn để đưa các ngôn ngữ dân tộc thiểu số lên mạng
Internet phục vụ đồng bào.
Vừa qua, nhân Ngày phát thanh thế giới – ngày 13/2/2013, trang thông
tin điện tử Radio Việt Nam (Radiovietnam.vn) chính thức ra mắt, đây là
một sáng kiến mới về ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động lĩnh
vực phát thanh của Đài TNVN, nâng tầm ảnh hưởng của phát thanh trong
giai đoạn mới.
2.3. Ưu, nhược điểm của phát thanh
2.3.1. Ưu điểm của phát thanh
Kỹ thuật đơn giản, tiện lợi: Chỉ cần một thiết bị thu tín hiệu nhỏ là cơng
chúng đã có thể hưởng thụ các chương trình phát thanh ở bất cứ đâu, bất cứ
khi nào. Việc tiếp nhận thông tin phát thanh không làm ảnh hưởng một số
hoạt động làm việc khác của con người. Bạn có thể vừa nghe chương trình
15


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
phát thanh vừa làm mọi công việc, kể cả lái xe ô tô hay đi bộ tập thể dục
trong cơng viên… Nếu xét ở phương diện phủ sóng rộng thì phát thanh
ln vững vàng ở vị trí số một so với tất cả các loại hình báo chí khác như
báo in, báo hình, báo mạng điện tử. Chính vì đặc điểm đơn giản về kỹ
thuật, rẻ tiền về phương tiện mà ở Việt Nam, từ miền núi đến hải đảo xa xơi
hay nơng thơn đều có sự hiện hữu của chiếc radio.
Khả năng thông tin thời sự nhanh nhạy: So với các loại hình báo chí,
truyền thơng đại chúng khác, sự vượt trội của phát thanh trước hết là khả

năng cung cấp cho bạn nghe đài những thông tin mới nhất, nóng hổi nhất,
những thơng tin vừa mới xảy ra, đang xảy ra, hoặc sẽ xảy ra mà chưa có ai
biết. Về ưu thế này, hiện nay chỉ có báo mạng điện tử mới có thể cạnh
tranh được với báo phát thanh mà thôi. Tuy nhiên, do đặc điểm của báo
mạng là phụ thuộc vào đường truyền và phương tiện cồng kềnh, kỹ thuật
phức tạp nên sự tiện lợi của chiếc radio vẫn có những ưu thế do ln đồng
hành cùng với mỗi cá nhân trong mọi địa hình, mọi hồn cảnh.
Gần gũi cơng chúng, hiệu quả tác động cao: Một trong những thế mạnh
của báo phát thanh được thính giả đánh giá cao là những người làm báo
phát thanh biết cách tôn trọng người nghe và tác động nhanh, hiệu quả đến
cơng chúng. Nếu như truyền hình hấp dẫn bằng hình ảnh sống động nhiều
màu sắc, báo in là sự đọc và nghiền ngẫm thì ở phát thanh người ta cảm
nhận được tính gần gũi giao lưu thân mật giữa người truyền tin và người
tiếp nhận.
2.3.2. Nhược điểm của phát thanh
Thiếu hấp dẫn do không thể hiện bằng hình ảnh: Với báo phát thanh
truyền thống, do chỉ thơng tin qua âm thanh tổng hợp (với 3 yếu tố cơ bản
là lời nói, tiếng động, âm nhạc) nên khơng có ưu thế trong việc tác động
qua thị giác. Khó khăn khi cần lưu giữ chương trình hoặc tra cứu tư liệu.
Đây là điểm yếu cơ bản của phát thanh. So với các loại hình khác như báo
in và báo mạng điện tử. Nếu công chúng của báo in và báo điện tử dễ dàng
tra cứu và sử dụng những thơng tin bổ ích, cần thiết trên hai loại hình báo
chí này thì cơng chúng phát thanh khó lịng làm được như vậy.
Thông tin theo trật tự thời gian: Hạn chế khác của phát thanh là thông
tin theo trật tự thời gian. Điều này gây khó khăn cho sự tiếp nhận của công
16


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam
chúng. Do công chúng tiếp nhận thông tin bằng thính giác nên thơng tin

xuất hiện theo chuỗi âm thanh tuyến tính. Người nghe hồn tồn bị động về
tốc độ, trình tự vận hành của dịng âm thanh. Thêm vào đó, những thơng tin
có tính logic phức tạp, có nhiều mối quan hệ đan xen mà chưa qua những
bước xử lý thơng tin quy chuẩn của phát thanh, có khi sẽ mang lại hiệu quả
thấp khi phát sóng.

17


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam

KẾT LUẬN
Phát thanh có những đặc điểm khác với những phương tiện khác. Bởi
vậy đặc điểm về ngôn ngữ thơng điệp cũng hồn tồn khác biệt.
Đặc điểm hình thức của ngôn ngữ phát thanh đáng kể của đặc điểm
ngắn gọn trong loại hình ngơn ngữ phát thanh này. Việc sử dụng ngôn từ
trong thông điệp phát thanh được chọn lựa rất cơng phu sao cho có hiệu
quả tác động cao nhất.
Một đặc điểm về hình thức ở Phát thanh không thể không chú ý là sự hỗ
trợ của âm nhạc và tiếng động. Nhiều khi chính những đặc điểm này lại
quyết định trực tiếp đến quyết định mua dùng sản phẩm vì sự hấp dẫn và
độc đáo.
Giao tiếp phát thanh là giao tiếp bằng ngôn ngữ một chiều và cách mặt,
xét về phương diện ngữ dụng học. Các kiểu hành vi ngơn ngữ trong thương
mại ngồi trời được phân loại theo chức năng hội thoại cho thấy chúng có
hai chức năng quan trọng là thông tin và dẫn dụ. Nhưng xét cho cùng, chức
năng dẫn dụ là bao trùm, vượt trội so với các chức năng khác, thường sử
dụng lối nói tường minh để cung cấp thơng tin cho người tiếp nhận. Việc
dùng lối nói hàm ẩn để người tiếp nhận tò mò, buộc phải suy nghĩ để nắm
bắt ý nghĩa thực, tăng hấp dẫn và đặc biệt là tăng sức thuyết phục cho lời

nói.
Thơng qua Radio Việt Nam, thính giả có thể thấy một bức tranh tồn
cảnh về sự phát triển, sự đổi thay từng ngày của các tỉnh, thành nói riêng và
của nước nói chung. Trên cơ sở tích hợp các chương trình của các đài phát
thanh, thính giả cũng có thể nghe lại các chương trình mà bản thân quan
tâm, yêu thích. Sự tiện ích này chính là điều kiện quyết giúp Radio Việt
Nam hội nhập và phát triển trong xu thế báo chí hiện đại ngày nay.
Rõ ràng, Đài Tiếng nói Việt Nam đang trên con đường để trở thành một
tổ hợp truyền thông đa phương tiện chuyên nghiệp và hiện đại. Ở đó, các
phương tiện sẽ hỗ trợ, tương tác với nhau tạo thành một sức mạnh tổng hợp
để truyền tải đầy đủ, chính xác, sinh động và hiệu quả những thông tin
phục vụ đồng bào chiến sĩ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè
quốc tế.

18


Ngơn ngữ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Hoàng Anh (2006), Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt trên
Đài Tiếng nói Việt Nam, đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
2. TS. Hồng Anh (2008), Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong
truyền thông đại chúng, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
3. Vũ Thuý Bình (2008), “Dẫn chương trình phát thanh - Người bạn
đồng hành của thính giả”, Nội san Nghiệp vụ phát thanh, Đài Tiếng nói
Việt Nam, số 9.
4. Vũ Th Bình (2000), “Thính giả và q trình sản xuất chương trình
phát thanh”, Báo chí – Những điểm nhìn từ thực tiễn (tập 1), tr. 249, Nxb

Văn hố – Thơng tin.
5. PGS, TS. Nguyễn Văn Dững (chủ biên), ThS Đỗ Thị Thu Hằng
(2006), Truyền thông – Lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Lý luận chính
trị,Hà Nội.
6. Đài Tiếng nói Việt Nam (2004), Nghiệp vụ phát thanh, (số 5, 13,17,
29) Nội san Đài Tiếng nói Việt Nam, Hà Nội.
7. Đài Tiếng nói Việt Nam (1995), Nửa thế kỷ Tiếng nói Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. TS. Vũ Đình H chủ biên (2000), Truyền thông đại chúng trong
công tác lãnh đạo quản lý, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đồn Quang Long (1992), Nghiệp vụ phóng viên biên tập đài phát
thanh, Nxb Thơng tin, Hà Nội.
10. Nguyễn Đình Lương (1993), Nghề báo nói, Nxb Văn hố - Thơng
tin, Hà Nội.
11. Nguyễn Tri Niên (2003), Ngơn ngữ báo chí, Nxb Tổng hợp Đồng
Nai, Đồng Nai
12. Philippe Broton Sergeproulx (1996), Bùng nổ truyền thơng, Nxb Văn
hố, Hà Nội.
19



×