Đề tài tiểu luận: Trình bày quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Liên hệ thực tiễn địa phương trong
việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc?
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................... 1
I.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HĨA VIỆT NAM........3
1. Q trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hoá........................3
2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương xây dựng, phát triển nền văn hoá tiên tiến dậm
đà bản sắc dân tộc...................................................................................................... 3
3. Kết quả đạt được.................................................................................................. 6
II. LIÊN HỆ TRỰC TIẾP VỚI ĐỊA PHƯƠNG........................................................... 7
1. Thái Bình và truyền thống lâu năm...................................................................... 7
2. Thái Bình và nền văn hóa lâu đời........................................................................ 9
3. Thái Bình và cơng cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
11
4. Thái Bình và giải pháp nâng cao........................................................................ 13
KẾT LUẬN................................................................................................................. 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
+ Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
PGS.TS Phạm Văn Linh Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
+ Truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước cách mạng của Thái Bình
/>+ Thái Bình: Nỗ lực xây dựng và phát triển văn hóa
Thanh Huyền
+ GIÁO TRÌNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nhà xuất chính trị bản quốc gia sự thật
©©©©©
LỜI MỞ ĐẦU.
Biết bao nhiêu thế hệ dân tộc Việt Nam đã hi sinh sinh xương máu để có được
một đất nước toàn vẹn lãnh thổ như bây giờ, biết bao nhiêu sự đóng góp to lớn cơng
lao của các anh hùng dân tộc Việt Nam, chúng ta – thế hệ trẻ ngày nay nên ý thức
được vấn đề này để cải thiện bản thân và góp cơng sức vào việc xây dựng phát triển
đất nước. Để làm được điều đó, trong mỗi chúng ta ln phải thấm nhuần tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh, thấm nhuần tinh hoa văn hóa dân tộc, biết cách vận dụng vào thực
tiễn đời sống và góp phần đẩy mạnh phát triển xã hội.Và đó là trách nhiệm và nghĩa vụ
của thế hệ trẻ bây giờ và mai sau.
Người mở đường cho chúng ta hiện nay để thực hiện được trách nhiệm này
không ai khác là Đảng và Nhà nước trong thời kỳ còn đấu tranh cách mạng giành độc
lập và thống nhất đất nước, phát triển toàn vẹn Việt Nam theo con đường Chủ nghĩa xã
hội. Ở đây, Đảng, Nhà nước Việt Nam rất coi trọng vai trị của văn hóa trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, điều đó khơng chỉ bắt nguồn từ truyền thống
lịch sử dân tộc, mà còn ở sự khẳng định trên thực tế vai trò, ảnh hưởng to lớn của văn
hóa Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước qua hàng ngàn năm lịch sử. Và
chắc chắn rằng yếu tố văn hóa ln ln gắn liền trong suốt q trình vận hành và
xây dựng đất nước không chỉ trước kia, ngày nay mà còn kéo dài mãi mãi về mai sau.
Quay ngược thời gian, Văn hóa có vai trị “soi đường cho quốc dân đi” trong các
giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được thể hiện ngay từ buổi đầu cách
mạng, khi bắt tay vào xây dựng chế độ mới, cho đến khi đất nước thống nhất, cùng với
nhiều công việc cấp bách phải làm, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã quan tâm “gây dựng nền tảng văn hóa”, đã đưa ra hàng loạt những chỉ dẫn cụ
thể, như nỗ lực thực hành văn hóa tồn diện, thiết thực, nhanh chóng tạo ra hiệu ứng
xã hội tích cực trong tồn dân, đem văn hóa vào dựng nước và giữ nước, “Thà hi sinh
tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nơ lệ”; “Khơng có
gì q hơn độc lập tự do”, ánh sáng văn hóa tạo nên hào khí, sức mạnh nội sinh để
đánh bại kẻ thù xâm lược, đồng thời đối với nhân dân, dân tộc, đất nước thì khai tâm,
khái trí, hướng con người, cộng đồng vươn tới các giá trị chân-thiện-mỹ, những giá trị
phổ quát của nhân loại, là nền móng vững chắc, kích hoạt tinh thần dân tộc, đoàn kết
1
thống nhất các lực lượng, thành phần trong xã hội, chuẩn bị cho các giai đoạn
phát triển tiếp theo của đất nước, đưa Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu.
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước, vai trị “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”
tiếp tục được cụ thể hóa với nhiều nội hàm sâu sắc, phù hợp. Việt Nam bước vào giai
đoạn phát triển mới, sau khi đất nước đã thống nhất, với nhiều đặc điểm khác biệt, để
hướng tới mục tiêu “Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đất nước chuyển từ chiến tranh sang hịa
bình, phát triển; kinh tế chuyển từ kế hoạch tập trung sang mơ hình kinh tế mới - kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hội nhập sâu rộng hơn vào khu vực và thế
giới với nhiều thời cơ, thách thức đan xen, phải đi lên từ đặc điểm văn hóa, lịch sử,
con người Việt Nam. Bối cảnh đó địi hỏi phải tiến hành cơng cuộc đổi mới sâu sắc,
tồn diện từ tư duy, nhận thức; thể chế phát triển, đến tổ chức, bộ máy và con người
thực hiện. Trong toàn bộ quá trình đó, văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, có vai trị dẫn dắt, điều chỉnh, soi đường cho dân tộc, đất nước đi đến mục tiêu
xác định. Bản thân văn hóa cũng phải đổi mới, vừa giữ gìn, phát huy các giá trị tốt đẹp
của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Văn hóa vừa là mục tiêu, là
động lực của sự phát triển, là nền tảng tinh thần của xã hội. Cơng cuộc đổi mới cũng
chính là sáng tạo văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngược lại bản thân văn hóa
trên một ý nghĩa phổ quát cũng chính là đổi mới.
Đặc biệt, liên hệ với mỗi vùng miền, cũng đều có một phương án để bảo tồn và
phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Vùng quê Thái Bình từ trước,
trong và sau thời kỳ cách mạng vẫn giữ nguyên được những nét đẹp văn hóa đó và tiếp
tục phát huy bảo tồn giá trị văn hóa này.
I.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM.
1. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hoá
- Đại hội lần thứ VI (1986) xác định: Khoa học - kỹ thuật là một động lực to lớn
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
- Cương lĩnh năm 1991 (Đại hội VII), Đảng ta có nhiều nhận thức mới về văn
hoá:
+ Lần đầu tiên xác định đặc trưng nền văn hoá Việt Nam đang xây dựng là nền
văn hoá: Tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Chủ trương xây dựng nền văn hoá mới tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong
phú, đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ, bồi dưỡng chân - thiện - mỹ, phê
phán những cái lỗi thời, thấp kém.
+ Kế thừa những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh
hoa văn hoá thế giới, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích và phẩm giá
của con người.
+ Chống tư tưởng văn hoá phản tiến bộ trái với những giá trị tốt đẹp của dân tộc
và nhân loại.
+ Xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
- Đại hội lần thứ VII (1991) và Đại hội VIII (1996) khẳng định: Khoa học và giáo
dục đóng vai trị then chốt, là động lực đưa dân tộc thốt khỏi đói nghèo. Do vậy, sự
nghiệp giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
- Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII ( 7/1998), chỉ ra 5 quan điểm chỉ đạo q
trình phát triển văn hố trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX (1/2004) xác định: Phát triển văn hoá đồng bộ
với phát triển kinh tế.
- Hội nghị Trung ương 10 khoá IX (7/2004) khẳng định: Phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt, không ngừng nâng cao đời sống văn
hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương xây dựng, phát triển nền văn hoá tiên
tiến dậm đà bản sắc dân tộc.
* Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, được đề cập trong
nhiều văn bản quan trọng, đặc biệt từ Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII. Trong đó,
tính tiên tiến và bản sắc dân tộc được hòa quyện, gắn bó hữu cơ trong các yếu tố cấu
thành của nền văn hóa, đảm bảo tính kế thừa và phát triển, vừa giữ gìn các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời đảm bảo tính mở, tiếp thu tinh hoa của văn
hóa nhân loại. Đồng thời, nội hàm của tính tiên tiên và bản sắc văn hóa cũng được xác
định rõ, phù hợp với mục tiêu, đặc điểm, truyền thống của đất nước trong quá trình đi
lên CNXH.
Theo đó, tiên tiến trong văn hóa trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ, nội
dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, tất cả vì con người, vì tự do, hạnh phúc và sự phát triển toàn
diện của con người, trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên và xã
hội; tiên tiến không chỉ thể hiện ở nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức thể hiện,
trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc văn hóa dân tộc, là các giá trị đặc trưng, tiêu biểu phản ánh diện mạo, cốt
cách, bản chất riêng của nền văn hóa, là dấu hiệu cơ bản để phân biệt nền văn hóa của
dân tộc này với dân tộc khác, đó cũng là tổng hịa các khuynh hướng sáng tạo văn hóa,
được hình thành trong mối liên hệ thường xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự
nhiên, thể chế chính trị…trong q trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Bản sắc
văn hóa được thể hiện rõ trong truyền thống dân tộc, là các giá trị văn hóa tiêu biểu
được trao truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, được khai thác và phát huy, tiếp
tục bồi đắp, tạo nên dịng chảy văn hóa của dân tộc từ quá khứ đến hiện tại và tương
lai.
Mục tiêu chung hướng đến của quá trình xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt
Nam là phát triển tồn diện, thống nhất trong đa dạng, hướng tới chân-thiện-mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Đây là một q trình lâu dài,
địi hỏi phải có bước đi phù hợp, thích ứng với điều kiện, trình độ phát triển về kinh tế,
xã hội, bối cảnh trong nước và quốc tế. Trong q trình đó, việc từng bước xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống có ý nghĩa
hết sức quan trọng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011), gọi tắt là Cương
lĩnh 2011 đã chỉ rõ, để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đòi hỏi: “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, cơng bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người”, Nghị
quyết 33-NQ/TW, khóa XI, đưa ra 5 quan điểm:
(1) Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
(2) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất
trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học.
(3) Phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng
con người có nhân cách, có lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: u nước, nhân
ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
(4) Xây dựng đồng bộ mơi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trị của gia
đình, cộng đồng. phát triển hài hịa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu
tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
(5) Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định: “Trong mọi hoạt
động kinh tế, chính trị, xã hội đều phải đề cao nhân tố văn hóa, con người. Mọi hoạt
động văn hóa, từ bảo tồn, phát huy các di sản lịch sử, văn hóa; phát triển văn học, nghệ
thuật, báo chí, xuất bản đến bảo tồn, phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa
tơn giáo, xây dựng các thiết chế văn hóa,… đều phải phục vụ thiết thực sự nghiệp xây
dựng, phát triển văn hóa, con người”.
Tóm lược lại những chủ trương của Đảng để xây dựng thành cơng một nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta rút ra được những ý chính sau:
- Tiên tiến:
+ Yêu nước và tiến bộ, mà nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
+ Mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc, tự do và phát triển con người.
+ Xây dựng mối quan hệ hài hoà giữa con người với cộng đồng, giữa xã hội với
tự nhiên.
+ Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện,
trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
- Bản sắc văn hoá dân tộc:
+ Những giá trị, những tinh hoa của các cộng đồng dân tộc Việt Nam được vun
đắp qua hàng nghìn năm lịch sử.
+ Lịng u nước, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết con người - gia đình - làng xã - Tổ quốc.
+ Lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, cần cù sáng tạo trong lao
động, tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống.
+ Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hố của các
dân tộc khác.
+ Chống văn hoá lạc hậu, lỗi thời, các phong tục, tập qn, lề thói cũ.
- Vai trị của bản sắc văn hoá dân tộc với sự phát triển xã hội:
+ Bản sắc văn hoá dân tộc được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
+ Bản sắc văn hoá dân tộc phát triển cùng sự phát triển của thể chế kinh tế, chính
trị, xã hội của các quốc gia.
+ Bản sắc văn hoá dân tộc được thấm sâu trong mọi hoạt động xây dựng sáng tạo
văn học nghệ thuật, ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ, giáo dục và đào
tạo.
- Chủ trương xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Kết hợp
giữa vấn đề bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc với mở rộng giao lưu, tiếp thu tiinh hoa
văn hoá nhân loại để xây dựng và phát triển những giá trị mới của văn hoá Việt Nam.
3. Kết quả đạt được.
Nhờ những định hướng đúng đắn đó, việc xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Đảng,
Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã bàn hành nhiều văn bản pháp lý
quan trọng về các lĩnh vực phát triển văn hóa.
Đến nay, cả nước có trên 40.000 di tích văn hóa được xếp hạng, trong đó có 3.491
di tích cấp quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế
giới và 12 di sản văn hóa phi vật thể, 7 di sản tư liệu được UNESCO cơng nhận. Đáng
chú ý là có 145/288 di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số, được đưa vào
danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; nhiều lễ hội, sự kiện văn hóa trong và
ngồi nước được tổ chức, trong đó có các lễ hội, liên hoan nghệ thuật truyền thống của
các dân tộc thiểu số; hệ thống bảo tàng tiếp tục được mở rộng và ngày càng đổi mới về
nội dung và hình thức trình bày, thực hiện tốt công tác giáo dục truyền thống, nâng cao
giá trị văn hóa, khoa học cho người dân, nhất là thế hệ trẻ; các thiết chế văn hóa được
quan tâm xây dựng và từng bước hiện đại, phát triển rộng khắp từ trung ương tới cấp
xã, bao gồm 21.084 thư viện, phòng đọc và hơn 26.000 thư viện các cơ quan nhà
nước, lực lượng vũ trang, hệ thống giáo dục quốc dân, thư viện chuyên ngành. Trung
tâm văn hóa, nhà văn hóa khơng chỉ được mở rộng ở một số quốc gia, ở trong nước
cũng được phát triển đến các thôn, bản; vai trị của gia đình, nhà trường và xã hội
trong xây dựng con người mới, gia đình hạnh phúc, mơi trường văn hóa lành mạnh
ln được quan tâm.
II.
LIÊN HỆ TRỰC TIẾP VỚI ĐỊA PHƯƠNG.
Với đặc điểm hình thành đất đai, từ sớm Thái Bình - miền đất hạ lưu sơng Hồng
đã ln ln chứa đựng trong mình cả hai yếu tố song hành: thuận lợi và khó khăn. Đó
là hứa hẹn to lớn về một cuộc sống định cư mở mang trước vùng đất vốn là sản phẩm
bồi tụ màu mỡ của thiên nhiên. Song, đó cũng lại là miền đất hoang sơ với mn vàn
hiểm nguy rình rập, thử thách như dông bão, nắng hạn, đầm lầy, lau lách, thú dữ,..
1. Thái Bình và truyền thống lâu năm
Thái Bình đồn kết cải tạo thiên nhiên, trị thủy, khai hoang lập làng. Trải qua
hàng ngàn năm lịch sử, vấn đề trị thủy - khẩn hoang, lập làng, lấn biển thật sự trở
thành vấn đề thường trực tất yếu, một cơng việc có cả bề dày kinh nghiệm, của nhiều
thế hệ cư dân Thái Bình. Thành quả này được các thế hệ người Thái Bình đời sau kế
thừa, phát huy dưới nhiều hình thức, với những cách làm sáng tạo, mang dấu ấn đặc
trưng riêng của người Thái Bình
Thái Bình cần cù, sáng tạo trong lao động - sản xuất. Kết quả của sự cần cù,
sáng tạo trong lao động, đặc biệt trong truyền thống thâm canh lúa nước đã biến vùng
đất hoang sơ Thái Bình xưa kia thành vựa lúa của cả nước. Trong suốt chiều dài phong
kiến, Thái Bình luôn được chọn làm kho lương thực đảm bảo quân lương cho quân
đội, là căn cứ quân sự vững mạnh. Và trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, thái Bình lúc nào cũng là hậu phương vững với khẩu hiệu “thóc thừa cân,
quân vượt mức”. Tự hào với danh hiệu “quê hương 5 tấn”, Thái Bình đang và sẽ là quê
hương đi đầu trong thâm canh lúa nước.
Bên cạnh trồng trọt, Thái Bình cịn nổi tiếng với các nghề thủ công truyền thống
như: dệt vải và tơ lụa ở Then, Mẹo (Hưng Hà); Bơn, Đọ (Đông Hưng), Cao Bạt (Kiến
Xương), Bộ La (Vũ Thư); dệt chiếu làng Hới (Hưng Hà); đúc đồng An Lộng (Quỳnh
Phụ); rèn sắt Cao Dương (Thái Thụy), chạm bạc Đồng Sâm (Kiến Xương); mộc ở Vế,
Diệc (Hưng Hà) và Đông Hồ (Thái Thụy).
Thái Bình tinh thần thượng võ, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm bảo
vệ Tổ quốc. Trong các cuộc chiến tranh ái quốc, trải qua hàng nghìn năm đương đầu
với mọi kẻ thù, cư dân trong các làng xã của Thái Bình từng sớm phải chống chọi với
các đạo quân xâm lược và hải tặc từ đường biển tiến vào các cửa sơng để tiến đánh sâu
vào nội địa. “Sóng cửa Trà, ma cửa Hộ” vốn từng là nỗi kinh hoàng của nhiều đạo
quân xâm lược đến Việt Nam thuở trước. Cũng chính vì vị thế chiến lược này cùng với
Thái Bình là vựa lúa, kho lương của vùng mà nhiều lãnh tụ khởi nghĩa thời Bắc thuộc
và
các vương triều phong kiến đều chú ý xây dựng lực lượng bố phịng trên đất Thái
Bình.
Thái Bình truyền thống dân chủ. Tiếp nối truyền thống của cha ơng, Thái Bình
đã tập trung thực hiện chương trình “điện, đường, trường, trạm, nước sạch và điện
thoại”, với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, lấy người dân làm chủ và
người dân là chủ trong thực hiện chủ trương này. Từ điểm nóng tồn quốc về mất ổn
định chính trị những năm 1997 - 1999, Thái Bình là chiếc nơi dân chủ, được Trung
ương chọn làm điểm để nghiên cứu, ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong công
cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay, dân chủ được phát huy tối đa với khẩu hiệu
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã mang lại những kết quả to lớn trong việc
xây dựng nông nghiệp, nông dân, nông thôn, diện mạo nơng thơn của tỉnh có sự đổi
thay rõ rệt, đời sống người dân không ngừng được nâng lên. Phát huy truyền thống dân
chủ, và nhớ lời Bác dạy “Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong” Thái Bình đang, và sẽ nêu cao tinh thần làm chủ của nhân dân để xây dựng Thái
Bình ngày càng văn nminh, giàu đẹp.
Thái Bình truyền thống hiếu học, khoa bảng. Sản sinh từ miền đất giàu bản lĩnh
ý chí, trưởng thành đắm mình trong mơi trường nhiều chất văn hóa lành mạnh, tiếp thu
có sáng tạo truyền thống của ơng cha, con người Thái Bình qua nhiều thế hệ đã trau
dồi hiểu biết, hòa nhập và vươn tới đỉnh cao của tri thức đương thời, để Thái Bình trở
thành vùng đất văn hiếu, hiếu học, khoa bảng nổi trội, thời nào cũng có nhân tài, người
đỗ đại khoa. Thái Bình và nền văn hóa lâu đời.
Thái Bình miền đất đậm đà những nét đẹp văn hóa truyền thống.
Khơng chỉ có truyền thống lao động, sản xuất, chống giặc ngoại xâm, Thái Bình
cịn chứa đựng cả một đời sống sinh hoạt văn hóa truyền thống vừa mang những nét
đặc trưng văn hóa tiêu biểu của cư dân đồng bằng sơng Hồng. Đó là sắc thái văn hóa
của vùng chiêm trũng hạ lưu sông Hồng vừa đa dạng vừa cởi mở, phóng khống.
Về lĩnh vực di sản văn hóa vật thể, Thái Bình hiện tồn tại trên 3.000 di tích, là
các thiết chế văn hóa làng xã gồm các loại: đình, đền, chùa, miếu, phủ, điện, từ đường
dịng họ... trong đó có 2 di tích Quốc gia đặc biệt, 114 di tích Quốc gia và 550 di tích
cấp tỉnh. Cùng với các thiết chế đó là hàng chục nghìn các hiện vật, di vật được lưu
giữ, bảo tồn tại di tích ở các huyện, thành phố và bảo tàng tỉnh. Trong đó có rất nhiều
cổ vật và bảo vật quốc gia bằng nhiều chất liệu và loại hình (gỗ, đá, kim loại, giấy, vải,
đất nung, gốm, sứ...).
Về lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể: Đất Thái Bình mãu mỡ lại ở gần biển, khí
hậu gió màu nóng ẩm là môi trường lý tưởng để cho cây lúa nước phát triển, vì vậy
Thái Bình là điển hình của văn minh lúa nước, văn minh sơng Hồng. Biểu hiện văn
hóa này trước hết đã được hội tụ sâu sắc qua các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, tín
ngưỡng tơn giáo mà sự phản ảnh rõ nét nhất là qua các lễ hội, trò chơi dân gian, diễn
xướng dân gian, múa dân gian,...
Ở Thái Bình ngày nay hầu như xã nào cũng có lễ hội truyền thống, xã ít là một lễ
hội, xã nhiều có tới bốn lễ hội. Thái Bình có đủ các loại hình lễ hội: lễ hội nhằm tái
hiện cuộc sống nông nghiệp; lễ hội tôn vinh những anh hùng dân tộc, những người có
cơng với dân, với nước; lễ hội tái hiện phong tục tín ngưỡng; lễ hội đua tài, vui chơi
giải trí... Nhiều lễ hội có quy mơ lớn như hội chùa Keo ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư
(một năm
hai lần mở hội vào mồng 4 tháng giêng và từ 13 đến 15 tháng 9); lễ hội đền Trần ở
làng Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà; lễ hội đền Tiên La, đền Buộm ở xã
Đoan Hùng, Tân Tiến (Hưng Hà) từ ngày 10 đến 20 tháng 3, ngày giỗ của Bát Nạn
tướng quân; lễ hội đền A Sào, Đồng Bằng (Quỳnh Phụ), đền Chòi ở xã Thụy Trường,
đền Lưu Đồn, Vạn Đồn, Tu Trình (Thái Thụy), vào dịp tháng 8 giỗ Hưng Đạo Đại
Vương. Đặc biệt, đền Đồng Bằng còn thờ vua cha Bát Hải Đại Vương, các thánh mẫu,
các quan hoàng... nơi hội tụ con nhang đệ tử của đạo Mẫu trong cả nước... Những lễ
hội này đã thu hút hàng vạn, chục vạn người về dự. Ngồi các lễ hội kể trên cịn phải
kể đến những lễ hội có quy mơ vùng miền như hội Đồng Xâm (Kiến Xương), hội
Lạng, hội miếu Hai Thôn, hội chùa Múa (Vũ Thư), hội đền Quang Lang (Thái Thụy),
hội La Vân, hội Lộng Khê (Quỳnh Phụ), hội làng Thượng Liệt, hội chùa Thiên Q
(Đơng Hưng)... Các lễ hội trình nghề tiêu biểu như: trình nghề nơng nghiệp ở làng La
Vân (Quỳnh Hồng), trình nghề dệt chiếu ở hội làng Hới (Hưng Hà), trình nghề chạm
bạc ở hội Đồng Xâm (Kiến Xương),... Ở hầu hết các lễ hội trong tỉnh đều có những
nghi thức gắn với nơng nghiệp như tục rước nước, đua thuyền... Hội làng Quang Lang
xã Thụy Hải (Thái Thụy) rước nước trên vịnh biển; hội Bổng Điền, Kiến Xá (Vũ Thư),
nhiều hội rước nước trên sông Trà Lý, sơng Luộc, sơng Hóa... Hội đua thuyền (bơi
trải) diễn ra ở nhiều nơi như Đồng Xâm, Lại Trì (Kiến Xương), Đồng Bằng (Quỳnh
Phụ), chùa Keo (Vũ Thư), Diêm Điền (Thái Thụy)...
Cùng với các lễ hội truyền thống là các trò chơi dân gian, diễn xướng dân gian,
múa dân gian... Múa dân gian như múa cờ, múa trống, múa sênh tiền - mõ lộn, múa sư
tử, múa tứ linh, trong đó có những điệu múa có lịch sử lâu đời như: giáo cờ giáo quạt ở
làng Thượng Liệt, xã Đông Tân (Đông Hưng), múa bát dật ở làng Lộng Khê, làng
Hiệp Lực xã An Khê (Quỳnh Phụ), múa kéo chữ ở nhiều làng thuộc huyện Quỳnh Phụ.
Các trò chơi mang tính thượng võ, thi tài diễn ra ở nhiều địa phương như chơi đu, vật
cầu, thi vật, đánh gậy, kéo co hố, thi bơi trải,... lại có các trị chơi tối cổ như trị ơng
Đùng bà Đà, trị đánh hổ, săn bắt cuốc... Các trị chơi đấu trí, thi tài: nấu cơm thi, làm
cỗ thi... như thi gói bánh chưng ở làng Nghìn, làm bánh dầy ở làng Bệ (Quỳnh Phụ),
thi làm cỗ chay ở làng Lạng (Vũ Thư), thi bắt cá ở Tam Đường, Lưu Xá (Hưng Hà),
làm cỗ cá ở Tam Đường, Dương Xá, Vân Đài,...
Nghệ thuật diễn xướng dân gian ở Thái Bình rất đa dạng tuồng, hát ca trù, hát
chầu văn, hát đúm, hát đò đưa, hát trống quân, cò lả... Nhưng nổi bật nhất là nghệ thuật
hát chèo với chiếu chèo sân đình có mặt ở hầu hết các làng của Thái Bình. Nhiều làng
có phường, gánh chèo lớn như: chèo Hà Xá (Hưng Hà), chèo làng Khuốc (Đông
Hưng) và chèo 0Sá01o Đền (Vũ Thư). Sự tồn tại, phát triển lâu đời của các hành chèo
đã là nguyên nhân để Thái Bình được coi là “cái nôi chèo” ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Cùng với hát chèo, múa rối nước, một loại hình sân khấu độc đáo, con đẻ của
vùng sơng nước cũng xuất hiện để nhắc tới Thái Bình là nhắc tới vùng quê “sớm rối,
tối chèo”. Một loại hình nghệ thuật gắn với ao hồ là múa rối nước, Thái Bình xưa có 7
phường rối nước, nay cịn 2 làng Nguyễn và Đống (thuộc huyện Đông Hưng), đây là
những phường rối có lịch sử lâu đời, có nhiều trị diễn đặc sắc.
Đời sống văn hóa phong phú, đa dạng đã ni dưỡng nên những người con Thái
Bình lạc quan, u đời dù đứng trước những thử thách ác nghiệt của thiên nhiên, hay
trước những thủ đoạn tàn bạo của quân thù.
2. Thái Bình và cơng cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Thái Bình là một tỉnh giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng, Đảng bộ và
nhân dân trong tỉnh đã đóng góp nhiều sức người, sức của cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp xây dựng con người mới, nền văn hóa mới ở Thái Bình
trong nhiều thập kỷ qua đã và đang là cơ sở vững chắc để xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII).
Bên cạnh phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”, các cuộc
vận động, các phong trào thi đua: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”; “Chung sức xây dựng nơng thơn mới”; “Xố đói giảm nghèo”; “Đền ơn đáp
nghĩa”; “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hố ở khu dân cư”; “Tồn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc”; “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình
hạnh phúc”; “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”; "Lương y như từ
mẫu"; “Học tập, thực hiện 6 điều Bác dạy Công an nhân dân, xây dựng hình ảnh đẹp
của người chiến sĩ Cơng an Thái Bình trong lịng nhân dân”;“Thi đua quyết thắng”;
Xây dựng “Chùa cảnh 4 gương mẫu”, “Xứ họ đạo 4 gương mẫu”; “Làm nghìn việc
tốt”... được triển khai sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tạo ra
môi trường văn hóa lành mạnh.
Phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng phát triển mạnh mẽ, sâu rộng từ các cơ
quan, đơn vị, thôn, làng, tổ dân phố, thu hút đông đảo cán bộ, hội viên, đoàn viên và
các tầng lớp nhân dân tham gia. Hệ thống thiết chế nhà văn hóa từ tỉnh tới cơ sở được
duy trì, củng cố, đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, từng bước đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
của cộng đồng dân cư. Đến nay có 4 nhà văn hóa cấp tỉnh, 7/8 nhà văn hóa cấp huyện,
thành phố, 285/286 nhà văn hóa xã, phường, thị trấn, và 1.366/2072 thôn làng, tổ dân
phố có nhà văn hóa hoạt động hiệu quả. Đội thơng tin lưu động cấp tỉnh và huyện
thường xuyên được củng cố về mặt tổ chức, nâng cao về chất lượng hoạt động. Trên
3000 câu lạc bộ thuộc 60 loại hình câu lạc bộ khác nhau được duy trì hoạt động có
hiệu quả, đã phát huy được bản sắc văn hóa từng vùng, địa phương, đáp ứng nhu cầu
giải trí và sáng tạo văn hóa, văn nghệ của nhân dân.
Cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hố; đã kiểm kê, lập danh mục
các di tích một cách nghiêm túc, khoa học. Tồn tỉnh hiện có 2.165 di tích, trong đó
Chùa Keo (Vũ Thư) là di tích quốc gia đặc biệt, 108 di tích lịch sử quốc gia, 482 di
tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Trường Cao đẳng Văn hóa, nghệ thuật đưa nội dung lịch
sử văn hóa Thái Bình, địa chí Thái Bình, di tích lịch sử và lễ hội Thái Bình, múa hát
Chèo và dân ca vào chương trình đào tạo. Từ năm 1998 đến nay, nhà trường đã đào tạo
được 20 khóa chèo, nhạc cụ dân tộc cho trên 500 học sinh sinh viên; mở 3 khóa dạy
hát múa Chèo và dân ca cho trên 300 giáo viên dạy nhạc, giáo viên mầm non trong
tỉnh; tăng cường đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng hát múa Chèo cho phong trào hát múa
Chèo ở các xã, phường, thị trấn, các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp.
Công tác nghiên cứu, xuất bản lịch sử văn hóa được chú trọng: Tổ chức nhiều hội
thảo về các danh nhân văn hóa Thái Bình (Trần Thủ Độ, Đào Ngun Phổ, Dỗn Uẩn,
Dỗn Kh, Lương Chính Quy), biên soạn Địa chí Thái Bình (8 tập), văn hóa làng
Thái Bình, lịch sử Đảng bộ các địa phương... Hàng năm Bảo tàng tỉnh đã sưu tầm
được từ 100 - 120 tài liệu, hiện vật, trong đó có những hiện vật quý như: sưu tập 2
trống đồng cổ niên đại 2300 - 2500 năm TCN, sưu tập 120 hiện vật dấu đồng và thẻ
bài có niên đại đầu thế kỷ XX, phục vụ trên 20.000 lượt khách tham quan.
3. Thái Bình và giải pháp nâng cao.
Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trong việc xây dựng và phát triển
văn hóa, thời gian tới tỉnh ủy Thái Bình tập trung vào những giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy Đảng và chính
quyền trên lĩnh vực văn hóa. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các ngành,
các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân về vị trí, vai trị của văn hóa.
Hai là, đẩy mạnh cơng tác tun truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trị của văn hóa trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ba là,nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chú trọng giáo dục, bồi dưỡng
lòng yêu nước, đạo đức, lối sống, giáo dục ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân trong
cán bộ, đảng viên, công chức.
Bốn là, tập trung xây dựng đời sống văn hóa, nếp sống văn hóa - văn minh tạo
nền tảng, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Năm là, tăng cường công tác quản lý Nhà nước về văn hóa, chú trọng đầu tư
củng cố, từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động của ngành văn
hóa, thể thao và du lịch
Xây dựng và phát triển văn hóa khơng chỉ góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn
hóa của nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển mà cịn động viên, khích lệ các
tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng của quê hương phấn
đấu xây dựng để Thái Bình trở thành tỉnh gương mẫu về mọi mặt như lúc sinh thời
Bác Hồ đã căn dặn.
KẾT LUẬN
Sau những chuỗi ngày trải qua mưa bom bão đạn, đất nước Việt Nam cũng đi
vào thời bình. Tuy nhiên, kéo theo đó là cả một đống ngổn ngang do chiến tranh tạo ra.
Việc làm cấp thiết của Đảng và Nhà nước là gây dựng lại nền kinh tế, gây dựng lại văn
hóa, tạo lập thể chế xã hội chủ nghĩa, dân chủ, công bằng, văn minh. Bộ phận đầu não
của Chính phủ lúc này là người đứng ra chỉ đạo và chịu trách nhiệm lớn nhất trong
công cuộc tái tạo và kiến thiết nước nhà. Cùng với đó là sự nỗ lực, đồng lịng, đồn kết
tồn dân để thực hiện được chủ trương của Đảng và Nhà Nước.
Vấn đề đặt lên hàng đầu đã được nghị luận trong “Cương lĩnh chính trị 1991” đó
là xây dựng và phát triển nền văn hóa. Cuối cùng, bằng sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước kết hợp với toàn thể nhân dân Việt Nam, nền văn hóa đất nước ta đã được giữ
vững, bảo tồn và phát triển một cách mạnh mẽ, phù hợp thời đại và không làm bay
màu bản sắc dân tộc.
Những thành tựu thu về chuyển biến theo hướng tích cực và kết quả đạt được
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền văn hoá mới bước đầu được tạo dựng; tư duy về
văn hoá và con người có bước phát triển.
- Giáo dục và đào tạo có bước phát triển; cơ sở vật chất kỹ thuật của trường học
được tăng cường, trình độ dân trí được cải thiện đáng kể.
- Việc xây dựng lối sống văn hố và nếp sống văn minh có tiến bộ ở các tỉnh
thành trong cả nước.