Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGIỆP HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.87 KB, 22 trang )

CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG THỜI KỲ ĐẨY
MẠNH CÔNG NGIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
1.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển thành phần kinh tế
nhà nước
1.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thành phần nhà nước
và vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị kinh tế trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải một cách khoa
học về tính tất yếu phải thay thế hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa bằng hình thái
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ quan niệm duy vật lịch sử, các nhà sáng lập
học thuyết về phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa đều cho rằng mọi sự biến
đổi của các chế độ xã hội trong lịch sử là sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Quan
điểm này xuất phát từ luận điểm: "Sản xuất và tiếp theo sau sản xuất là trao đổi sản
phẩm của sản xuất, là cơ sở của mọi chế độ xã hội, rằng trong mỗi xã hội xuất hiện
trong lịch sử, sự phân phối sản phẩm, và cùng với sự phân phối ấy là sự phân chia
xã hội thành giai cấp hoặc đẳng cấp đều được quyết định ở chỗ. Người ta sản xuất
cái gì, sản xuất bằng cách nào và cái đó được trao đổi như thế nào, do đó phải tìm
nguyên nhân của tất cả những biến đổi xã hội và những đảo lộn chính trị không
phải trong đầu óc của người ta, không phải ở nhận thức ngày càng tăng thêm của
người ta về chân lý vĩnh cửu và chính nghĩa vĩnh cửu, mà là trong biến đổi của
phương thức sản xuất và phương thức trao đổi, cần phải tìm những nhân tố không
phải trong triết học, mà là trong kinh tế của thời đại tương ứng" [17, 376]
Kế thừa và phát triển lý luận của Mác - Ăngghen trong thời đại mới, Lênin
đã chỉ ra tính tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tức là phải có giai
đoạn chuyển tiếp nhằm cải biến những bộ phận tàn dư của chế độ cũ để lại để tiến
lên chủ nghĩa cộng sản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế tất
yếu còn tồn tại nhiều "mảng", nhiều thành phần kinh tế và tương ứng với nó là
nhiều hình thức sở hữu. Tuy nhiên, trong nền kinh tế nhiều thành phần đó, thành
phần kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo nhằm định hướng xã hội chủ nghĩa
cho toàn bộ nền kinh tế. Bởi lẽ, khi nói tới thành phần kinh tế nhà nước là nói tới


quan hệ sản xuất tiêu biểu cho chế độ đương thời. Trong điều kiện của nền kinh tế
quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đó là hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Thành
phần kinh tế nhà nước đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, phương thức
sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân. Lênin
khẳng định: "Vô luận thế nào chúng ta cũng không được quên cái mà chúng ta
thường nhìn thấy, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa của công nhân trong các công
xưởng quốc doanh, mà công nhân tự mình thu thập nhiên liệu, nguyên liệu và thực
phẩm hoặc khi công nhân cố gắng phân phối đúng đắn các sản phẩm công nghiệp
cho nông dân vận chuyển những thứ ấy đến tận nơi bằng phương tiện giao thông
đó. Chính là chủ nghĩa xã hội" [16, 188]. Như vậy, Lênin đã xem thành phần kinh
tế nhà nước như là khu vực kinh tế trong đó quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa,
quyền sở hữu thuộc về người lao động. Họ là người tổ chức quản lý những tư liệu
sản xuất và phân phối những sản phẩm làm ra, đây là điểm khác căn bản so với
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong đó người công nhân bị bóc lột giá trị
thặng dư, chịu sự phân phối sản phẩm bất bình đẳng của giai cấp tư sản và hoàn
toàn không có thực quyền trong quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và quản lý doanh
nghiệp.
Trong chính sách kinh tế mới, Lênin đã chỉ rõ ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội còn tồn tại những mảng, những bộ phận của hai kết cấu của chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản. Hai kết cấu đó tồn tại đan xen với nhau, trong đó tất yếu
còn tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Phân tích thực trạng nền kinh tế nước
Nga lúc bấy giờ, Lênin chỉ ra thực thể kinh tế trong xã hội gồm các thành phần
kinh tế, đó là:
"1. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự
nhiên.
2. Sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì).
3. Chủ nghĩa tư bản tư nhân
4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước
5. Chủ nghĩa xã hội" [15, 248]
Như vậy, trong 5 thành phần kinh tế ở nước Nga lúc bấy giờ, Lênin đã chỉ ra

thành phần kinh tế "chủ nghĩa xã hội" coi đó là "xương sống" của nền kinh tế. Tuy
nhiên, do trình độ sản xuất còn thấp, nên phải sử dụng các hình thức quá độ trung
gian. Sự sắp xếp thứ tự các thành phần kinh tế của Lênin có chủ định và hàm chứa
ý nghĩa phương pháp luận. Điều này phản ánh trình độ sản xuất, các hình thức vận
động sở hữu trong tiến trình lịch sử, từ thấp đến cao. Thứ tự đó thể hiện mức độ
gần gũi của các thành phần kinh tế khác so với thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trong một nước tiểu nông, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài, qua nhiều nấc thang quá độ, trung gian. Chủ nghĩa tư bản nhà nước
chính là nấc thang cụ thể đó. Từ kinh tế tiểu nông xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà
nước lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng nhất quán trong quan niệm xây dựng chủ nghĩa
xã hội của Lênin.
Quan điểm về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cũng như về thành phần kinh
tế nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào
thực tiễn nước ta.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV họp tháng 8 - 1979
mở đầu cho công cuộc đổi mới từng phần trong đó nêu lên quan điểm về sử dụng
cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể để phát triển sản
xuất. Duy trì các thành phần kinh tế, kết hợp ba lợi ích là tập thể, cá nhân và xã
hội, trong đó tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc
doanh.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đảng chủ trương thực
hiện đường lối đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, chuyển từ cơ cấu tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường, đồng thời thừa nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều thành phần
kinh tế. Đối với thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chỉ rõ "trong những
năm tới, trước mắt, để tiến hành vững chắc công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát
huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, điều quan trọng nhất là
củng cố và phát triển kinh tế xã hôi chủ nghĩa, trước hết là làm cho kinh tế quốc
doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác" [2,

58]. "Kinh tế xã hội chủ nghĩa với khu vực quốc doanh làm nòng cốt phải dành cho
được vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân" [2, 59]. Thực hiện Nghị quyết
của Đại hội VI, nhiều biện pháp và chính sách đã được đề ra và từng bước được cụ
thể hoá. Vì vậy, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước sáng rõ và hoàn thiện hơn, đặc biệt về thành phần kinh tế nhà nước và
vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.
Đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994), Đảng ta đưa ra
quan niệm về khu vực kinh tế nhà nước: "Khu vực kinh tế nhà nước hiện đang nắm
giữ các doanh nghiệp nhà nước, trong các ngành sản xuất quan trọng như năng
lượng, nhiên liệu, xi măng, thép, hoá chất, vận tải, đường sắt; đường biển, đường
không, ngoại thương, môi trường, một phần nội thương, ngân hàng, tài chính, dự
trữ quốc gia và nhiều tài nguyên đất nước đang giữ vai trò chi phối nền kinh tế
quốc dân" [3, 81]. Quan điểm trên đã khái quát được phạm vi, quy mô của thành
phần kinh tế nhà nước, nắm giữ các ngành nghề quan trọng, các vị trí then chốt của
nền kinh tế, đó cũng là điều kiện để thực hiện vai trò chủ đạo, điều tiết toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
Tiếp tục thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đại hội VIII của Đảng khẳng định vị trí "xương sống" của thành phần kinh tế nhà
nước và coi đó là khu vực giữ vị trí quan trọng, chủ đạo. Đó là khu vực có khả
năng. "Làm đòn bẩy nhanh, tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội,
mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển" [4, 93].
Như vậy, quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội và Hội nghị Trung ương khi
bàn về các thành phần kinh tế nói chung, thành phần kinh tế nhà nước nói riêng có thể
đưa ra các khái niệm như sau:
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở chế
độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Mỗi chế độ sở hữu có một kiểu thành phần tương ứng trong đó chế độ sở
hữu công cộng (toàn dân) là đặc trưng của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Sự
nhận định các thành phần kinh tế một cách cụ thể là cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng để đề ra những chính sách kinh tế, chính trị - xã hội thích hợp với từng thành

phần kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì thế, không thể thay thế
việc phân định các thành phần kinh tế bằng việc phân định theo các loại hình địa
phương hay theo quy mô doanh nghiệp. Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình
thức tổ chức kinh tế nhất định. Căn cứ vào loại hình quan hệ sản xuất mà trước hết
là tính chất sở hữu để xác định những tổ chức kinh tế ấy thuộc thành phần kinh tế
nào. Tổ chức kinh tế là những đơn vị, tổ chức có tư cách pháp nhân, có thực mà ở
đó các thành phần kinh tế được thể hiện.
Qua 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội VIII của Đảng khẳng
định, chúng ta đã hoàn thành chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tạo tiền đề vững chắc để chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xác định ở nước ta có 5 thành phần
kinh tế là:
Kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã; kinh tế tư bản
nhà nước; kinh tế cá thể; kinh tế tư bản tư nhân. Trong đó Đảng ta đã nêu ra những
đặc trưng cơ bản của từng thành phần kinh tế, có thể xem đó là khái niệm về từng
thành phần kinh tế. Đối với thành phần kinh tế nhà nước được khái quát như sau:
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước;
các tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ,
rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ, ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc
những thành phần kinh tế khác.
Như vậy, đã có sự phân biệt rõ ràng giữa hai phạm trù kinh tế nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước. Khi nói đến doanh nghiệp nhà nước là nói đến một bộ
phận quan trọng cấu thành kinh tế nhà nước, mang tính chất vi mô. Cụ thể là, các
xí nghiệp, công ty, tổng công ty nhà nước ... Còn kinh tế nhà nước rộng hơn doanh
nghiệp nhà nước. Nói tới thành phần kinh tế nhà nước là nói tới quan hệ sản xuất
tiêu biểu cho chế độ đương thời, đề cập đến những của cải, tài sản thuộc sở hữu
nhà nước. Thành phần kinh tế nhà nước được cấu thành bởi hai bộ phận: doanh
nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (ngân hàng quốc gia, đất
đai, các quỹ quốc gia...)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001), sau 15 năm thực
hiện đường lối đổi mới, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, tiếp
tục khẳng định: nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Ở nước ta còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, cụ thể là: kinh tế nhà nước;
kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Trong đó khẳng định kinh tế nhà nước
gồm 2 bộ phận: doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước chia ra làm hai loại:
Một là: Loại hoạt động kinh doanh vì lợi ích, lợi nhuận
Hai là: Loại hoạt động công ích không vì lợi ích lợi nhuận. Đây là nét đặc
thù của thành phần kinh tế nhà nước mà các thành phần kinh tế khác không có
được, thể hiện vai trò to lớn, chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền
kinh tế quốc dân.
Khi nói về vai trò của thành phần kinh tế nhà nước, C.Mác và F.Ăngghen đã
khẳng định: kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo, hạn chế mặt tiêu cực, phát huy
mặt tích cực của nền kinh tế trong giai đoạn chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Ra
đời từ sự chín muồi của các tiền đề kinh tế - xã hội, đến lượt nó, sự ra đời kinh tế
nhà nước lại thúc đẩy các điều kiện kinh tế - xã hội của xã hội mới phát triển và
hoàn thiện hơn. Và khi những điều kiện kinh tế xã hội phát triển đến một trình độ
nhất định, lại dẫn đến sự tự tiêu vong của Nhà nước, lúc đó sở hữu thuộc về công
cộng, không còn tồn tại giai cấp, vì thế sự đa dạng các thành phần kinh tế, tương
ứng với nó là các loại hình sở hữu cũng sẽ không còn. Lênin khẳng định thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa là "xương sống" của nền kinh tế, "vô luận" thế nào
cũng phải giữ vị trí hàng đầu để định hướng cho toàn bộ nền kinh tế theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: kinh tế nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, nắm
giữ các ngành kinh tế then chốt, chiến lược của quốc gia, đồng thời thành phần
kinh tế nhà nước còn là công cụ để Nhà nước xã hội chủ nghĩa điều tiết nền kinh tế

vĩ mô, giải quyết các vấn đề dân sinh xã hội.
Thành phần kinh tế nhà nước đại diện cho quan hệ sản xuất tiêu biểu cho
mọi chế độ đương thời. Ở Việt Nam là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thông
qua khu vực doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước thực hiện sự can thiệp đối với
thị trường và định hướng các thành phần khác. Những biện pháp tác động của
Chính phủ chỉ đạt hiệu quả nhất thông qua sử dụng thành phần kinh tế nhà nước.
Vì vậy, tất yếu đây phải là thành phần kinh tế giữ vị trí then chốt trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Quan điểm của Đảng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình thực
hiện cơ chế kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, từ đó tương ứng với mỗi thời kỳ,
đề ra những quan điểm cụ thể.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6-1996) xác định thành phần kinh tế nhà
nước "mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển,
làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết kinh tế và quản lý
kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới" [4, 93].
Thành phần kinh tế nhà nước tồn tại như một thực thể trong nền kinh tế thị
trường. Nó giữ vai trò quan trọng trong việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ công cộng
cho cộng đồng xã hội và là công cụ hữu hiệu để thực hiện công bằng xã hội, quan
tâm đến an ninh xã hội, lợi ích của nhân dân. Mục tiêu của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa là vì lợi ích chân chính của người lao động, phẩm giá con người, tiến tới mục
tiêu thoả mãn nhu cầu ngày càng tốt hơn về vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp, nhiều hình thức sở hữu,
lực lượng sản xuất chưa phát triển cao đến mức có thể phân phối theo nhu cầu. Vì
vậy, thành phần kinh tế nhà nước không chỉ giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,
hỗ trợ các thành phần kinh tế khác nhằm giải phóng sức sản xuất, tạo nên năng suất
lao động xã hội ngày càng cao, mà còn quan tâm thực hiện các vấn đề về công
bằng xã hội, lợi ích của nhân dân. Đó cũng chính là mục tiêu của nhà nước xã hội
chủ nghĩa và chỉ riêng có ở thành phần kinh tế nhà nước. Đại hội lần thứ VIII của
Đảng còn nhấn mạnh: thành phần kinh tế nhà nước còn phải đi đầu về nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả, nhờ đó mà thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền
vững của nền kinh tế quốc dân. Tăng cường sức mạnh vật chất cùng với kinh tế

hợp tác (mà nòng cốt là hợp tác xã) dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân và chế độ xã hội mới. Kinh tế nhà nước, nhất là loại hình doanh nghiệp
nhà nước, tuy còn hạn chế mặt này hay mặt khác, song thực tế cho thấy nó đã nắm
giữ cơ sở vật chất chủ yếu, huyết mạch chính của nền kinh tế quốc dân, nơi cung

×