Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

PHẬT GIÁO và ẢNH HƯỞNG của

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.77 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


BỘ MƠN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
***

PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ
CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC HIẾU
MÃ LỚP HỌC PHẦN: 211LLCT120405_05
SINH VIÊN THỰC HIỆN: NHĨM 5

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2021


DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2021 – 2022
Lớp thứ 7 – Tiết 4-5
Tên đề tài: Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đến
đời sống xã hội và con người Việt Nam hiện nay.
MÃ SỐ

TỈ LỆ %

SINH VIÊN

HOÀN THÀNH



Nguyễn Tuấn Hào

20143440

100%

2

Đinh Ánh Tuyết

20950009

100%

3

Nguyễn Phương Vy

20950027

100%

4

Lê Tú Phương

20950022

100%


CNXHKH13

5

Lê Ngọc Tiến

20132239

100%

CNXHKH13

STT

HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN

1

GHI CHÚ

Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
- Trưởng nhóm: Đinh Ánh Tuyết

SĐT: 0948634651

Nhận xét của giảng viên
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Ngày ...... tháng …. năm 2021


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 1
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................3
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO ............... 3
1.1. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo ...................................................................3
1.2. Một số nội dung chủ yếu của Phật giáo ......................................................6
1.3. Sự du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam ........................................7
CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ
CON NGƯỜI VIỆT NAM ....................................................................................... 11
2.1. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng và đạo lý .....................................11
2.1.1. Về tư tưởng ..........................................................................................11
2.1.2. Về đạo lý ..............................................................................................11
2.2. Ảnh hưởng Phật giáo qua quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam .........12
2.2.1. Qua sự dung hịa với các tín ngưỡng truyền thống .........................12
2.2.2. Qua sự dung hịa với các tơn giáo khác ............................................13
2.2.3. Qua sự dung hịa giữa các tơng phái Phật giáo ................................13
2.2.4. Qua sự dung hịa với các thế hệ chính trị - xã hội ...........................14
2.2.5. Trong đời sống người bình dân và giới trí thức Việt Nam .............15
2.3. Ảnh hưởng Phật giáo qua phong tục, tập quán của người Việt Nam ....16

2.4. Ảnh hưởng Phật giáo qua các loại hình nghệ thuật ................................18
2.4.1. Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu ....................................18
2.4.2. Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ thuật tạo hình ................................19
KẾT LUẬN ..................................................................................................................21


PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ước muốn về một cuộc sống hạnh phúc đó là ước muốn từ muôn đời nay không
chỉ của riêng ai. Phật giáo chứa một triết lý nhân sinh cao cả với ước muốn là cứu con
người khỏi nỗi khổ muôn đời, với cứu cánh là giải thốt, khơng phải bằng sự ban bố
nhân đức mà ở chỗ con người có hạnh phúc hay khơng là chính ở cuộc sống đức độ của
con người, có như vậy con người mới có thể đạt đến cái “Chân - Thiện - Mỹ” và nhập
vào thế giới niết bàn.
Ta thấy rằng đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ những kỷ nguyên tây lịch, rồi
tồn tại phát triển và chan hòa với dân tộc cho đến tận hôm nay. Nếu thời gian là thước
đo của chân lý thì với bề dày lịch sử đó đạo Phật đã khẳng định những giá trị của nó trên
mảnh đất này. Vì vậy tìm hiểu triết học Phật giáo giúp con người biết hiểu hơn về một
trường phái triết học lớn, về truyền thống văn hóa mà tổ tiên đã để lại. Đó cũng chính là
lý do chúng em quyết định đồng thuận với nhau chọn đề tài: “Phật giáo và ảnh hưởng
của Phật giáo đến đời sống xã hội và con người Việt Nam hiện nay”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích đề tài này khơng chỉ giúp chúng ta có những hiểu biết thêm về triết học
Phật giáo mà còn hiểu biết sâu sắc hơn về những ảnh hưởng của Phật giáo đối với xã
hội và con người Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: xoay quanh tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo và ảnh
hưởng của Phật giáo đối với đời sống người Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: chỉ nghiên cứu thế giới quan Phật giáo trong tính hệ thống và
tồn diện của nó và ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống xã hội của người Việt
Nam nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, việc nghiên cứu tiểu luận cần phải được tiến
hành dựa trên:
- Tra cứu tài liệu và Internet, tổng hợp và chọn lọc lại thơng tin, phân tích, nghiên
cứu và từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá khách quan cho vấn đề cần nghiên cứu.

1


- Hỏi ý kiến các bạn sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ
Chí Minh, tham khảo ý kiến từ giảng viên bộ môn và lấy thông tin từ những nguồn trang
mạng đáng tin cậy của Nhà nước.
Từ đó thực hiện việc thu thập, phân tích, hệ thống và sắp xếp lại các nội dung của
từng đơn vị kiến thức theo một trình tự logic để làm cho bài tiểu luận mạch lạc và rõ
ràng.

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO
1.1. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo
Gần ba mươi lăm thế kỷ về trước, dân tộc A-ly-an (Aryen) thâu phục nước Ấn Độ
và chia dân chúng ra làm bốn bực:
- Chủng tộc Bà-la-môn (Brahmana), tức là các đạo sĩ học hành uyên bác, giới hạnh

đoan nghiêm; văn hóa học thuật của dân tộc đều ở trong tay các bậc này cả.
- Chủng tộc Sát đế lỵ (Kshastriya), tức là dòng dõi vua chúa.
- Chủng tộc Phệ xá (Vaisya), tức là hạng bn bán bình dân.
- Chủng tộc Thủ đà la (Soudra), gồm những dân tộc tôi tớ lao động.
Ngồi ra lại cịn một chủng tộc là Ba-ly-a (Pariahs), tức là những dân tộc mọi rợ.
Theo luật Bà-la-môn thì chỉ có ba chủng tộc trên là có quyền đọc kinh học đạo mà
thơi, cịn hai chủng tộc dưới khơng có quyền gì và phải làm nơ lệ cho ba phái trên.
Bấy giờ toàn cõi Ấn Độ chia làm rất nhiều nước nhỏ, thường khi hòa chiến với
nhau như đời Chiến quốc bên Trung Quốc, tuy đại thế vẫn thu về nước Ma-kiệt-đà
(Magadha) (như các nước chư hầu với đời Chu Mạc). Nước này lớn nhất ở phía Nam
sơng Hằng Hà (Gange), làm trung tâm điểm cho toàn xứ Ấn Độ.
Trong những nước có danh tiếng nhất thời ấy, có nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu),
vua tên là Tịnh Phạn (Suddhodana) Hồng hậu là Ma-ha Ma-da (Maha-maya) con vua
A-nâu Thích-ca (Anu-shakya) nước Câu-ly (Koly). Khi ấy vua Tịnh Phạn đã 50 tuổi và
Hoàng hậu 45 tuổi mới thọ thai lần đầu. Theo tục Ấn Độ, đàn bà phải về nhà cha mẹ mà
sanh con, và con sanh ra đều lấy họ mẹ, nên Hoàng hậu đã về nước Câu-ly, đản sanh
được Hoàng tử lấy tên là Tất-đạt-đa (Siddharta) và họ là Thích-ca (Sakya).
Hồng tử Tất-đạt-đa sau này là Phật Thích-ca, hiệu là Mưu-ni (Mouni), nghĩa là
vắng lặng, nhơn đức hoàn toàn.
Nơi sinh Ngài là vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini). Năm 1897 bác sĩ A Fuhrer có đào
được ở nơi ấy một trụ đá của vua A Dục (Asoka) (sau khi Phật tịch diệt chừng 270 năm)
đánh dấu chỗ của Đức Phật giáng sinh.
Còn về niên đại giáng sinh của Ngài hiện có nhiều thuyết khác nhau. Theo thuyết
phổ thơng thì Ngài sanh ngày mùng 8 tháng Tư Âm lịch đời Chiêu Vương nhà Chu
(trước Tây lịch 1027 năm). Nhưng theo pháp sư Pháp Châu, người Trung Quốc đã từng
3


du học ở Tích Lan (Ceylan), dày cơng nghiên cứu về lịch sử Phật, có dẫn chứng bằng
mấy chục bộ sách vừa văn Trung Quốc và văn Pali, thì Ngài sanh vào khoảng năm 563

trước Thiên chúa giáng sinh.
Ngài tư bẩm thông minh từ thuở nhỏ. Bảy tuổi Ngài theo học các đạo sĩ phái Bàla-môn, như ông Tỳ-xa-mật-đa-la (Visvamitra) và ông tướng võ Sằn-đề-đề-bà
(Ksautidiva). Dần dần Ngài thông hiểu các khoa, nhất là nghị luận, triết lý. Chính trong
khi bắt đầu hiểu biết ấy, cũng là khi Ngài bắt đầu cảm thấy chán nản cuộc đời vinh hoa
phú quý và buồn đau cho cuộc thế của nhân sinh.
Nhưng vì cớ gì một vị thiếu niên Hồng tử sống một cuộc đời đẹp đẽ, không bao
giờ trực tiếp với đời mà lại có tâm lý ấy? Rồi sau đây tại sao Ngài biết đời khổ mà xót
thương đến phải xả thân để tìm phương giải thốt? Chúng ta sẽ tìm sâu vào nguyên lý
ấy.
Cứ suy mấy bậc thánh triết Trung Hoa ai cũng biết, bởi sống giữa thời đại quá suy
đồi, lớn hiếp bé, mạnh hiếp yếu, thì ngài Lý Đam mới tạo ra được triết lý vô vi của đạo
Lão; đời Xn thu phong hóa đồi bại (cha khơng ra cha, con không ra con, vua không
ra vua, tôi khơng ra tơi), thì Ngài Khổng Khâu mới sáng ra phép tu thân của đạo Nho.
Như vậy đủ rõ, hoàn cảnh giúp nên thánh triết, mà người trở nên thánh triết chỉ là
người muốn cải thiện thời thế. Nếu đời chiến quốc không phải là thời phong kiến, và là
đời sống thanh bình như thời Nghiêu, Thuấn thì đủ có Khổng tử hay Lão tử, nước Trung
Quốc cũng không thêm được món triết lý nào.
Vậy nói đến Phật Thích-ca, tất cũng phải xét đến nguyên nhân chính đáng. Nguyên
nhân chính đáng ấy chính là lịng từ bi của Ngài, nghĩa là suy đến hồn cảnh Ngài.
Như trên đã nói, dân tộc Ấn Độ bấy giờ chia ra làm năm phái rõ rệt và Ngài là
dòng quý tộc. Nhưng xét ra dịng q tộc chỉ có quyền mà khơng có thế, vì bao nhiêu
học thuật, luật pháp đều ở trong tay phái Bà-la-mơn cả. Một Hồng tử thiếu niên có đủ
tài như đức Thích-ca, thấy vậy tất phải sinh lịng bất mãn cho cái chế độ ấy. Rồi Ngài
lại thấy cái khổ của những kẻ nô lệ gần Ngài. Ngài sinh ra bất bình với cái tập qn bất
cơng của dân tộc. Sự buồn rầu của Ngài khởi điểm từ đấy. Lại hằng ngày Ngài thường
nghe và thấy bao nhiêu chuyện đau khổ của nhân loại, và, dù người được sinh vào nơi
quyền quý, nơi mà người đời đã cho là sung sướng, cũng không tránh khỏi bốn cái ách

4



“sinh, lão, bệnh, tử”. Thế là Ngài bắt đầu ngờ vực mới triết lý trước sự sống đau khổ của
loài người.
Ngài lại càng buồn rầu khi thấy chỉ có mình Ngài cảm biết nỗi đau khổ ấy, còn biết
bao nhiêu người vẫn sống mê man, tranh đua, áp chế, cướp giết lẫn nhau, gây thêm cho
nhau bao nhiêu là cảnh khổ não thương tâm, mà người đời vẫn triền miên sống trong
vịng tội lỗi tối tăm, trong cảnh khổ khơng bờ bến mà khơng hề tự biết. Từ đó Ngài mới
nhóm trong tâm một lý tưởng: “Phải tìm lấy chân lý đủ cứu vớt chúng sinh ra ngoài bể
khổ”. Từ đó Ngài cố tìm trong kinh điển, trong đạo lý để mong tìm thấy một chân lý mà
giải luận cuộc nhân sinh.
Năm 16 tuổi, Ngài vâng lời vua cha cưới 3 vị phu nhân La-gia (Gapika), Gia-duđà-la (Yasodhara), Lộc-giả (Urganika). Bà Gia-du-đà-la sanh được một con trai lấy tên
là La-hầu-la. Nhưng càng ngày Ngài càng chán nản đời sống tầm thường dù vợ đẹp con
yêu ấy.
Năm 19 tuổi, khi sự chán nản lên đến cực độ, Ngài quyết bỏ vợ con, bỏ cuộc đời
vinh hoa phú quý, vào hang núi chịu đói rét, tu khổ hạnh để mong tìm nghĩ được một
phương pháp gì cứu lồi người ra khỏi vịng khổ ải, và bầy cảnh cực lạc trên thế gian.
Trong mấy năm ấy, Ngài đi tìm hỏi mấy vị đạo sĩ có danh tiếng, nhưng Ngài thấy triết
lý của vị nào cũng khơng được siêu thốt lắm. Ngài liền vào ẩn trong dãy Tuyết Sơn
(tức là núi Già-xà-gaya trong sách Phật, ngày sau gọi là Khổ hạnh lâm) để tu tập thiền
định. Trong 6 năm trời tu khổ hạnh, nhưng Ngài khơng thấy chứng được đạo quả gì.
Ngài mới đi đến núi Tượng Đầu (Gajasirsa) bên sông Ni-liên-thuyền (Nai-Rạdjjâna) tắm
rửa xong, Ngài thọ bát sữa của mấy nàng mục nữ cúng, rồi Ngài ở đó một mình tỉnh tọa
suy xét. Ngài thề : “Ta ngồi ở đây nếu không chứng được đạo quả, thì dù có tan nát thân
này, ta quyết không bao giờ đứng dậy”. Dưới gốc cây Tất-bát-la (Pippala), Ngài ngồi
định tâm, vừa định tâm 48 ngày thì một hôm, khi sao mai vừa mọc, Ngài bỗng thấy
trong tâm sáng suốt, rõ thấy chân lý của vũ trụ và nguồn gốc sanh tử của chúng sinh:
Ngài đã thành Phật. Bấy giờ Ngài vừa 31 tuổi, ngày ấy nhằm ngày mồng 8 tháng chạp
lịch Trung Hoa (Ngày nay ở Nam thành Patna chừng 110 cây số có thành Già gia (Gaya)
và cách thành này 13 cây số có linh địa gọi là Phật-đà Già-gia (Bouddha Gaya), tức là
chỗ Ngài thành Phật. Còn cây Tất-bát-la là chỗ Ngài ngồi nhập định, sau gọi là cây Bồđề, dấu tích nay vẫn còn.

5


Khi ấy Ngài yên lặng, hoàn toàn sống trong sự sáng suốt nhiệm màu của chân lý
mà Ngài đã chứng ngộ, rồi Ngài trở lại với loài người đem đạo lý ra mà thuyết pháp giáo
hóa.
Từ đó Ngài chu du khắp các lưu vực sơng Hằng hà, giáo hóa được vô số chúng
sinh đương mê muội, trở nên giác tĩnh, đều quy y Phật pháp để tu hành diệt khổ, chứng
đạo Niết bàn.
Ngài thọ 80 tuổi và tịch diệt vào ngày rằm tháng hai, trong một vườn cây gần thành
Câu-thi-na (Kushinagar). Câu nói cuối cùng của Phật là: “Hỡi các tỳ kheo, tất cả những
gì đang tồn tại rồi sẽ qua đi. Vậy các ngươi càng không nên ngừng gắng sức!”
1.2. Một số nội dung chủ yếu của Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết thành
văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, gồm 3 Tạng kinh điển là:
- Kinh Tạng: Bộ sách ghi lại những lời của Thích ca Mâu ni khi ơng cịn sống.
- Luật Tạng: Bộ sách ghi lại những quy tắc, luật lệ khi ra nhập cộng đồng Phật
giáo.
- Luận Tạng: Bộ sách do những nhà tư tưởng Phật giáo của đời sau biên soạn.
Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo cũng được tóm tắt trong hai câu nói
sau: “Trước đây và sau này ta chỉ lý giải và nêu ra những chân lý về nỗi đau khổ và sự
giải thoát khỏi nỗi đau khổ”. “Cũng như đại dương chỉ có một vị mặn, học thuyết của
ta chỉ có một vị là cứu vớt”. Cái chân lý về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau ấy
được thể hiện trong thuyết “Tứ diệu đế”, đó là:
- Khổ đế: là chân lý về bản chất của nỗi khổ. Khổ là gì? Đó là trạng thái buồn phiền
phổ biến ở con người do sinh, lão, bệnh, tử, do mọi nguyện vọng không được thỏa mãn.
- Nhân đế: là chân lý về nguyên nhân của nỗi khổ. Đó là do ái dục và vô minh
(kém sáng suốt). Dục vọng thể hiện thành hành động là Nghiệp (karma), hành động xấu
khiến con người phải nhận hậu quả của nó (nghiệp báo), thành ra cứ luẩn quẩn trong
vịng ln hồi khơng thốt ra được.

- Diệt đế: là chân lý về cảnh giới diệt khổ. Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên
nhân gây ra khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn (nirvana, nghĩa đen là
“không ham muốn, dập tắt”). Đó là thế giới của sự giác ngộ và giải thoát.

6


- Đạo đế: là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ. Diệt khổ, giải thốt và giác ngộ địi
hỏi phải rèn luyện đạo đức (giới), tư tưởng (định) và khai sáng trí tuệ (tuệ).
Và cũng theo Phật giáo thì có 8 nỗi khổ: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Ái biệt ly, Oán tằng
hội, Cầu bất đắc, Ngũ uẩn xí thạnh. Đạo Phật cho rằng đời là “bể khổ”, khổ là bản chất
vĩnh viễn của cuộc đời, con người còn sống là còn khổ.
1.3. Sự du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam
Hiện nay, có rất nhiều tài liệu viết về lịch sử phát triển Phật giáo ở Việt Nam với
nhiều nguồn thông tin và cách tiếp cận cũng như chia giai đoạn phát triển khác nhau.
Tuy nhiên, theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thì đạo Phật du nhập và phát triển ở Việt
Nam được thể hiện qua 4 thời kì lần lượt như sau:
- Thời kỳ thứ nhất: Từ khi Phật giáo du nhập cho đến thế kỷ X
Phật giáo là một tôn giáo được truyền vào nước ta từ rất sớm. Theo giới nghiên
cứu lịch sử thì Việt Nam đón nhận Phật giáo từ những năm đầu Cơng ngun. Chính sử
Trung Quốc ghi nhận rằng vào thời điểm đó, trong khi miền Nam Trung Quốc chưa có
đạo Phật thì ở Kinh đơ Giao Chỉ của nước Việt đã có một trung tâm Phật giáo và Phật
học khá phồn thịnh.
Ban đầu, Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ những tăng sĩ Ấn Độ và Trung
Á. Đến thế kỷ V, Phật giáo đã phủ sóng nhiều nơi trên đất nước và có nhiều nhà sư nổi
tiếng như Huệ Thắng tu tại chùa Tiên Châu (đệ tử của Đạt Ma Đề Bà). Lịch sử Phật giáo
Việt Nam ghi nhận rằng giai đoạn từ thế kỷ VI đến thế kỷ X vẫn chỉ là giai đoạn truyền
giáo của đạo Phật với phần lớn từ các nhà truyền giáo của Trung Quốc chứ không phải
là Ấn Độ.
Trong mười thế kỷ đầu du nhập vào Việt Nam, mặc dù trong hoàn cảnh đất nước

bị xâm lược và đô hộ nhưng đạo Phật đã tạo ra được những ảnh hưởng trong nhân dân
và có những sự chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới khi đất nước độc lập, tự chủ.
- Thời kỳ thứ hai: Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV (Thời Đinh – Tiền Lê – Lý – Trần)
Sau một ngàn năm Bắc thuộc, từ thế kỷ X, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập,
tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Vào thời Đinh và Tiền Lê, tuy không được công
nhận là Quốc đạo nhưng Phật giáo đã được là tơn giáo chính của cả nước. Các vị vua
dưới hai thời này cũng có nhiều chính sách nâng đỡ đạo Phật, đặc biệt có thể kể đến vua
Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành đã trọng dụng và phong thưởng cho nhiều nhà sư
7


đã có cơng giúp vua lo việc triều chính. Vua Đinh Tiên Hồng và vua Lê Đại Hành cịn
cho xây dựng rất nhiều chùa và tháp ở Hoa Lư, biến nơi đây thành trung tâm Phật giáo
lớn nhất cả nước.
Tuy nhiên, mãi cho đến thời nhà Lý thì mới được xem là Triều đại Phật giáo đầu
tiên ở Việt Nam vì Lý Thái Tổ có xuất thân từ chốn thiền mơn nên ơng hết lịng ủng hộ
Phật giáo. Sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ ra sắc chỉ ban phẩm phục cho hàng trăm tăng
sĩ. Năm 1010, sau khi dời đô về Thăng Long, ông đã cho xây dựng một số chùa lớn như
Thiên Phủ, Hưng Long và cho tu sửa lại một số chùa bị hư hỏng. Dưới triều đại nhà Lý
đã có rất nhiều nhà sư có những đóng góp to lớn cho đất nước như sư Vạn Hạnh được
phong làm Quốc Sư, sư Huệ Sinh được phong làm Tăng thống,…
Vào thời nhà Trần, Phật giáo phát triển đến mức cực thịnh và được công nhận là
tôn giáo chính thống của đất nước. Vua Trần Thái Tơng trong ba mươi năm trị vì, ơng
vừa cai trị đất nước vừa nghiên cứu Phật học đạt đến trình độ uyên thâm và viết nhiều
sách văn thơ mang tư tưởng Phật giáo như: Thiền tông chỉ nam, Lục thời sám hối khoa
nghi,…và khơng chỉ vua Trần Thái Tơng mà cịn rất nhiều vị vua, quan khác có những
đóng góp cho sự phát triển của Phật giáo.
- Thời kỳ thứ ba: Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX (Thời Hậu Lê đến thời Nguyễn)
Từ thế kỷ XV, nền phong kiến ở Việt Nam thay đổi, lấy Nho giáo làm chỗ dựa cho
tư tưởng chính trị và đạo đức nên Phật giáo suy yếu dần. Tuy vậy, với truyền thống gắn

bó với cội nguồn thì Phật giáo vẫn giữ được gốc rễ sâu trong lòng nhân dân. Cùng với
Nho giáo và Lão giáo, Phật giáo đã làm cho tư tưởng Tam giáo mang một sắc thái mới.
Thời kỳ Nam – Bắc triều, Phật giáo có dấu hiệu khởi sắc khi mà chúa Trịnh ở đàng
ngoài và chúa Nguyễn ở đàng trong đều tạo điều kiện cho việc xây dựng, tu sửa chùa
chiền. Có thể kể đến một vài cái tên như: chùa Phúc Long (xây năm 1618), chùa Thiền
Tây ở Vĩnh Phúc (xây năm 1727), chùa Thiên Mụ ở Huế (xây năm 1601),…
- Thời kỳ thứ tư: Từ thế kỷ XX cho đến nay
Vì Phật giáo Việt Nam đã suy vi dưới triều Hậu Lê, sau này, đơi lúc có sự khơi
phục song khơng cịn thịnh vượng như trước. Phật giáo Việt Nam vẫn tiếp tục suy vi,
cho đến những năm ba mươi của thế kỷ XX mới bắt đầu có sự khởi sắc trở lại bởi phong
trào Chấn hưng Phật giáo.

8


Đầu thế kỷ XX, những biến đổi lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng khơng chỉ
ở Việt Nam mà còn nhiều nước trên thế giới đã gây ra sự bùng nổ của các phong trào
Chấn hưng Phật giáo. Với sự bùng nổ ở Trung Quốc và Nhật Bản, phong trào chấn hưng
Phật giáo sau đó lan ra nhiều nước Châu Á với các khẩu hiệu cách mạng giáo lý, cách
mạng giáo chế, cách mạng giáo hội. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ngồi mang ý
nghĩa tơn giáo thì cịn có ý nghĩa chính trị - xã hội tích cực gắn với cơng cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc; đó là một số nhà sư cùng một số nhân sĩ trí thức yêu nước, mến đạo,
muốn đạo Phật phát triển nên đã sử dụng ngọn cờ Phật giáo để đoàn kết, tập hợp lực
lượng chống thực dân Pháp.
Tháng 11/1981, Hội nghị đại biểu thống nhất Phật giáo đã được long trọng tổ chức
tại thủ đô Hà Nội với 165 đại biểu là tăng, ni, cư sĩ của 9 hệ phái Phật giáo trong cả
nước, đó là:
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất với 23 đại biểu do Hịa thượng Thích
Thiện Siêu làm Trưởng đồn.
- Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam có 23 đại biểu do Hịa thượng Thích Ngun

Sinh làm trưởng đồn.
- Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam có 12 đại biểu do Hịa thượng Thích Trí
Tấn làm trưởng đồn.
- Ban liên lạc Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh gồm có 10 đại biểu do Hịa thượng
Thích Thiện Hào làm trưởng đồn.
- Giáo hội Tăng già nguyên thủy Việt Nam có 07 đại biểu do Hịa thượng Thích
Siêu Việt làm trưởng đồn.
- Hội đoàn kết sư sãi yêu nước Tây Nam Bộ gồm có 08 đại biểu do Hịa thượng
Dương Nhơn làm trưởng đoàn.
- Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam có 06 đại biểu do Hịa thượng Thích Giác
Nhu làm trưởng đồn.
- Giáo hội Thiên thai giáo Qn tơng gồm có 05 đại biểu do Thượng tọa Thích Đạt
Pháp làm trưởng đồn.
- Hội Phật học Việt Nam có 06 đại biểu do cư sĩ Tăng Quang làm trưởng đoàn.

9


Tại hội nghị trên đã thống nhất lập ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam và thông qua
Hiến chương, chương trình hành động của Giáo hội với đường hướng "Đạo pháp - Dân
tộc - Chủ nghĩa xã hội”.

10


CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ
CON NGƯỜI VIỆT NAM
2.1. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng và đạo lý
2.1.1. Về tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và

Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo, nguyên
thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Luật nhân quả cần được quan sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới có
thể gọi là luật nhân quả của đạo Phật. Theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc khơng
bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng vai trị quả cho một
nhân khác. Giáo lý về nghiệp nhân quả báo của đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất
sớm. Giáo lý này đã trở thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt
có hiểu biết và suy nghĩ.
Có thể nói mọi người dân Việt đều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý
nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn học từ xưa
cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả
nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp, đem lại hòa bình an vui cho con người. Thậm
chí trẻ con mười tuổi cũng tự nhiên biết câu “ác giả ác báo”. Từ hành nghiệp thiện, giảm
bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một cuộc sống yên vui cho hiện
tại và mai sau.
2.1.2. Về đạo lý
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo
đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Điều này ta thấy rõ
qua con người và tư tưởng của Nguyễn Trãi (1380-1442), một nhà văn, nhà chính trị,
nhà tư tưởng Việt Nam kiệt xuất, ơng đã khéo vận dụng đạo lý Từ Bi và biến nó thành
đường lối chính trị nhân bản đem lại thành cơng và rất nổi tiếng trong lịch sử nước Việt.
Ơng nói điều đó trong tác phẩm “Bình Ngơ đại cáo” rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Bằng cách:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
11


Lấy chí nhân để thay cường bạo

Cho nên khi đại thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta khơng
những khơng giết hại mà cịn cấp cho thuyền bè, lương thực để họ về nước.
Thần vũ chẳng giết hại
Thể lịng trời ta mở đất hiếu sinh
Ngồi đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác của
đạo Phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sanh.
Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát triển của tâm lý về
tình cảm của dân tộc Việt. Đặc biệt trong đạo lý Tứ Ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và
ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của người Việt. Vì đạo Phật rất chú
trọng đến hiếu hạnh, và được Đức Phật thuyết giảng trong nhiều kinh khác nhau, nhắc
đến công lao dưỡng dục của cha mẹ, Phật dạy: “Muôn việc ở thế gian, khơng gì hơn
cơng ơn ni dưỡng lớn lao của cha mẹ” (Kinh Thai Cốt).
Đạo lý Tứ Ân khiến cho ta sống hài hòa với xã hội, với thiên nhiên để tiến đến
hạnh phúc chân thực và miên trường.
Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật giáo Việt Nam hình
thành được một bản sắc đặc thù rất riêng biệt của nó tại Việt Nam, góp phần làm phong
phú và đa dạng hóa nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
2.2. Ảnh hưởng Phật giáo qua quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam
Với tinh thần nhập thế tùy duyên bất biến mà đạo Phật đã tạo cho mình một sức
sống vô biên, vượt qua sự ngăn cách của không gian, thời gian, văn hóa, tơn giáo và ý
thức hệ. Tinh thần tùy duyên là tự thay đổi với hoàn cảnh để có thể tiếp độ chúng sanh,
tính bất biến là giải thoát ra khỏi mọi đau khổ, sinh tử luân hồi. Tuy nhiên Phật giáo vẫn
ln hịa nhập với tất cả truyền thống văn hóa tín ngưỡng của các nước trên thế giới. Và
trong q trình hội nhập văn hóa, sự ảnh hưởng của Phật giáo đã tác động và đã tạo cho
Phật giáo Việt Nam có những nét đặc thù sau đây.
2.2.1. Qua sự dung hịa với các tín ngưỡng truyền thống
Khi được truyền vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng bản
địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này. Biểu tượng chùa Tứ Pháp thực
ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên Mây, Mưa, Sấm, Chớp
và thờ Đá. Lối kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là tiền Phật hậu Thần cùng với việc

12


thờ trong chùa các vị thánh, các vị thành hoàng thổ địa và các vị anh hùng dân tộc. Chính
vì tinh thần khai phóng này mà về sau phát sinh những hậu quả mê tín dị đoan bên trong
Phật giáo như xin xăm, bói quẻ, cầu đồng,... Ta phải thừa nhận rằng tinh thần dung hịa
và khai phóng của Phật giáo Việt Nam là một trong những nét đặc trưng đáng chú ý.
2.2.2. Qua sự dung hịa với các tơn giáo khác
Là kết quả của sự phối hợp và kết tinh của đạo Phật với đạo Nho và đạo Lão, được
các nhà vua thời Lý công khai và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính dung hịa và điều hợp
này mà Phật giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt. Nó
chẳng phải Phật giáo Ấn Độ hay Trung Hoa, mà nó là tất cả những khuynh hướng tâm
linh của người dân Việt. Chính tinh thần khai phóng của Phật giáo Việt Nam đã kết tinh
lấy Chân, Thiện, Mỹ làm cứu cánh để thực hiện.
Nho giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường Thiện, tức là hành vi đạo đức để
tới chỗ nhất quán với Mỹ và Chân.
Đạo giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường Mỹ, tức là tâm lý nghệ thuật để
tới chỗ nhất quán với Thiện và Chân.
Phật giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường trí tuệ giác ngộ để đạt tới chỗ
nhất quán Chân, Thiện, Mỹ.
Đó là thực tại Tam Vi Nhất của tinh thần Tam giáo Việt Nam. Trong nhiều thế kỷ
hình ảnh tam giáo tổ sư với Phật Thích Ca ở giữa, Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên
phái đã in sâu vào tâm thức của người dân Việt.
2.2.3. Qua sự dung hòa giữa các tông phái Phật giáo
Đây là một nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật giáo Việt Nam so với các quốc gia
Phật giáo láng giềng. Chẳng hạn như Thái Lan, Lào, Campuchia chỉ có Phật giáo Nam
Tơng; ở Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản thuần túy chỉ có Phật giáo Bắc Tơng. Nhưng
ở Việt Nam thì lại dung hịa và điều hợp cả Nam Tơng và Bắc Tơng. Chính vì tinh thần
khế lý khế cơ của Phật giáo cộng với tinh thần khai phóng của Phật giáo Việt Nam mới
có được kết quả như vậy. Tuy thiền tơng chủ trương bất lập văn tự, song ở Việt Nam

chính các vị thiền sư xưa và nay đã để lại rất nhiều trước tác có giá trị, đặc biệt các thiền
viện ở Việt Nam đều tụng kinh gõ mõ như các tự viện Tông Tịnh Độ.
Điều đặc sắc ở đây là, trong khi khai triển Phật giáo Việt Nam, các thiền sư Việt
Nam đã không theo thiền kiểu mẫu của các thiền sư Ấn Độ và Trung Hoa mà mở lấy
13


một con đường riêng, phù hợp với dân tộc. Và trong khi tiếp nhận hai luồng ảnh hưởng
ấy, các thiền sư Việt Nam đã khéo léo điều chỉnh tính hai cực, Ấn Độ - Trung Hoa: một
bên thì quá ham chuộng sự bay bổng, thần bí, một bên quá thực tiễn duy lý. Trên pháp
đàn tư tưởng thời Lý cũng như thời Trần, thời kỳ vàng son của Phật giáo Việt Nam và
các thời kỳ sau này, tất cả đều quy về một mục đích chính là tu hành giải thốt. Sự thống
nhất về ý thức tư tưởng, dung hịa giữa các tơng phái và đồn kết dân tộc đã uốn nắn
Phật giáo Việt Nam theo con đường dung hòa thống nhất.
2.2.4. Qua sự dung hòa với các thế hệ chính trị - xã hội
Phật giáo tuy là một tơn giáo xuất thế, nhưng Phật giáo Việt Nam có chủ trương
nhập thế, tinh thần này nổi bật nhất là các thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Trong các thời này,
các vị cao tăng có học thức và giới hạnh đều được mời tham gia triều chính hoặc làm cố
vấn trong những việc quan trọng của quốc gia. Có rất nhiều lý do khiến các thiền sư Việt
Nam tham gia vào chính sự:
- Một là, họ là những người có học, có ý thức về quốc gia, sống gần gũi nên thấu
hiểu được nỗi đau khổ của một dân tộc bị nhiều cuộc đô hộ của ngoại bang.
- Hai là, các thiền sư khơng có ý tranh ngơi vị ngồi đời nên được các vị vua tin
tưởng.
- Cuối cùng, các thiền sư không cố chấp vào thuyết trung quân như các nho gia
nên họ có thể cộng tác với bất cứ vị vua nào đem lại hạnh phúc cho dân chúng.
Thời vua Đinh Tiên Hồng đã phong cho thiền sư Ngơ Chân Lưu làm Tăng Thống.
Thời Tiền Lê có ngài Vạn Hạnh, ngài Đỗ Pháp Thuận, ngài Khuông Việt cũng tham gia
triều chính. Trong đó, đặc biệt thiền sư Vạn Hạnh đã có cơng xây dựng triều đại nhà Lý
khi đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt chế độ tàn bạo của Lê Long Đĩnh, ơng vua

Ngọa Triều có biệt danh “kẻ róc mía trên đầu sư”. Thời nhà Trần có các thiền sư Đa
Bảo, thiền sư Viên Thơng,... đều được các vua tin dùng trong bàn bạc quốc sự như những
cố vấn triều đình.
Đến thế kỷ XX, phật tử Việt Nam rất hăng hái tham gia các hoạt động xã hội như
cuộc vận động đòi ân xá cho Phan Bội Châu. Vào thời Diệm, Thiệu (1959-1975), các
tăng sĩ và cư sĩ miền Nam tích cực tham gia phong trào đấu tranh địi hịa bình và độc
lập cho dân tộc, nổi bật là những cuộc đối thoại chính trị giữa các tăng sĩ Phật giáo và

14


chính quyền. Đến cuối thế kỷ XX, ta thấy tinh thần nhập thế này cũng khơng ngừng phát
huy, đó là sự có mặt của các thiền sư Việt Nam trong quốc hội của nước nhà.
2.2.5. Trong đời sống người bình dân và giới trí thức Việt Nam
Cũng như tất cả dân tộc nào trên thế giới, lúc sơ khởi người Việt Nam tín ngưỡng
và tơn thờ tất cả những sức mạnh hữu hình hay vơ hình mà họ cho là có thể giúp đỡ họ
hoặc làm hại đến họ như mây, mưa, sấm, sét, lửa, gió,... Trong bối cảnh tín ngưỡng đa
thần này, Phật giáo đã xuất hiện và nhanh chóng hóa thân qua hình ảnh của bộ tượng Tứ
Pháp ở chùa Dâu, ngôi chùa Phật giáo đầu tiên của Việt Nam ở Luy Lâu (Hà Bắc ngày
nay), đó là bộ tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điển, một hình ảnh sống
động và gần gũi với người dân nông thôn trong việc cầu xin phước lộc, cầu đảo, cầu
siêu, cầu xin tất cả những gì mà con người đòi hỏi.
Trong buổi đầu, Phật giáo ở Việt Nam mang dáng dấp của Phật giáo Tiểu Thừa và
Mật Giáo, vì vậy đã dễ dàng gắn với phù chú, cầu xin hơn là tơi luyện trí tuệ và thiền
định. Vả lại, tính đời trội hơn tính đạo, trong quần chúng đa số là phụ nữ đến với Phật
giáo, đó là hạng người đau khổ nhất trong xã hội cũ.
Đến thời nhà Lý, có các thiền sư từ Trung Quốc sang và thiết lập nhiều thiền phái,
phong trào học và tu phật phát triển mạnh ở trong giới trí thức, cung đình và đơ thị;
nhưng trong giới bình dân vẫn tồn tại nhất định một Phật giáo dân gian với ảnh hưởng
cảm tính vốn có từ trước. Được vua triều Lý, Trần ủng hộ, hoạt động của Phật giáo có

mặt ở khắp ngõ hẻm, làng nào cũng có chùa có tháp, người ta học chữ, học kinh, hội hè,
họp chợ ngay ở trước chùa.
Đến thế kỷ XV, Phật giáo từ giã cung đình, nhưng vẫn vững vàng trong làng xã.
Ngơi đình xuất hiện tiếp thu một số kiến trúc và nghệ thuật Phật giáo, đồng thời trở
thành trung tâm hành chính của làng xã. Cửa chùa chỉ còn mở cửa cho phụ nữ, con gái
nguyện cầu khi chồng bị bắt phu, con bị bắt nợ, ốm đau, mất mùa, đói rét,... xin Phật gia
hộ. Bồ Tát Quan Âm được ưa chuộng hơn xưa.
Đạo Phật đã có mặt ảnh hưởng khắp mọi giai tầng trong ở xã hội Việt Nam, không
những trong giới bình dân mà cịn ở trong giới trí thức nữa.
Phật giáo thiền tông Việt Nam phát triển rực sáng nhất là ở giai đoạn nhà Trần
(1226-1400) với những tư tưởng vừa thăng trầm vừa phóng khống của các thiền sư thời
Trần, đã làm cho bình diện học thuật Việt Nam lúc bấy giờ bổng bừng sáng hẳn lên.
15


Phật giáo không những ảnh hưởng trong đời sống của người bình dân và giới trí
thức mà cịn ảnh hưởng qua góc độ nhân văn và xã hội.
2.3. Ảnh hưởng Phật giáo qua phong tục, tập quán của người Việt Nam
Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của mỗi dân tộc.
Thơng qua việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại được những giá trị văn hóa
mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối với người Việt Nam, những phong tục
tập quán chịu ảnh hưởng của Phật giáo khá nhiều. Cụ thể:
- Tục ăn chay: rất đông người Việt Nam chịu ảnh hưởng nếp sống văn hóa này.
Ăn chay (hay ăn lạt) xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo - vì khi đã trở về với
Phật pháp, mỗi người phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó giới căn bản là khơng sát
sanh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Trong hành động lời nói và ý nghĩ,
người phật tử phải thể hiện lịng từ bi (điều khơng thể có được khi con người còn ăn thịt,
còn uống máu chúng sinh). Để đạt được mục đích đó, phật tử phải dùng đến phương
pháp ăn chay. Cố nhiên, người xuất gia ăn chay trường, còn phật tử tại gia còn nhiều trở
ngại nên chỉ ăn chay kỳ. Thông thường, người Việt Nam, cả phật tử lẫn người không

phải phật tử cũng theo tục lệ đặc biệt này, họ ăn chay mỗi tháng hai ngày, là ngày mùng
Một và ngày Rằm mỗi tháng, có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày 01, 14, 15 và
30,…
- Phóng sinh và bố thí: Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố
thí và phóng sinh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày Rằm và
mùng Một, người Việt thường hay mua chim, cá, rùa.. để đem về chùa chú nguyện rồi
đi phóng sinh. Người Việt cũng thích làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo
khó, hoạn nạn, vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về chùa. Tuy nhiên, trong xã hội
hiện đại, những biểu hiện mang tính chất hình thức trên ngày càng bị thu hẹp. Thay vào
đó, mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai,
hoạn nạn, gặp hoàn cảnh sống gặp khó khăn đúng với truyền thống đạo lí của dân tộc
“lá lành đùm lá rách”.
- Cúng rằm, mùng một và lễ chùa: Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm,
mùng Một là tập tục cúng sóc vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho
nên thần thánh, tổ tiên có thể liên lạc, thơng thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt
tới sự cảm ứng với các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập. Mùng một cũng
16


là ngày trong sạch để các vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bồ tát và
ngày sám hối, người tín đồ về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành
và sửa đổi thân tâm. Quan niệm ngày sóc vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn
chay là xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, khi
ở nhà vào ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam
Bảo và tổ tiên, thể hiện lịng tơn kính, thương nhớ những người quá cố và cụ thể hóa
hành vi tu tâm dưỡng tính của họ.
Bên cạnh việc đi chùa vào ngày rằm, mùng một, người Việt Nam cịn có tập tục
khác là đi lễ chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như ngày rằm tháng Giêng, rằm tháng
Tư (Phật Đản) và rằm tháng Bảy (lễ Vu Lan). Đây là một tập tục, một nhu cầu không
thể thiếu được trong đời sống người Việt. Tuy nhiên, đi viếng chùa cũng tùy thuộc vào

mục đích và quan niệm của mỗi người. Cửa chùa bao giờ cũng rộng mở đối với thập
phương bá tính, nhất là các ngày hội lớn của Phật giáo, của dân gian (Tết Nguyên Đán)
hoặc những ngày kỷ niệm lớn của lịch sử dân tộc. Vào những ngày này, đông đảo các
tầng lớp nhân dân, các giới trong xã hội đều quy tụ về đây. Trước cánh cửa thiền môn,
những khuôn mặt trang nghiêm, vẻ đẹp thanh thoát của hoa huệ, hoa cúc chen lẫn với
hương trầm quyện tỏa tạo nên bầu khơng khí ấm cúng, linh thiêng, thể hiện tấm lịng
thành kính của họ đối với Đức Phật và các bậc Thánh Hiền. Những hình ảnh đó đã góp
phần tạo nên bản sắc và nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt. Trong dịng người tấp nập,
đơng đảo đó, khơng phải ai cũng đến đây vì lý do tín ngưỡng thuần túy. Một số chỉ đơn
giản muốn đi xem lễ hội hoặc thích chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa chiền, nhưng khi đã
hội nhập vào bầu khơng khí trang nghiêm họ cũng thấy mình trở nên đĩnh đạc và trầm
tĩnh hơn.
- Các nghi thức ma chay, cưới hỏi:
+ Về ma chay: Phong tục của người Việt Nam và Trung Hoa trước đây rất phiền
phức và hao tốn. Tuy nhiên, nhờ có sự dẫn dắt của chư tăng thì tang lễ diễn ra đơn giản
và trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình (theo đạo Phật) có người qua đời, thân quyến
đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để giúp đỡ phần tang lễ (thường gọi là làm ma chay).
Thông thường các nghi thức trong tang lễ được diễn ra tuần tự như sau:
1) Nghi thức nhập liệm người chết;
2) Lễ phát tang;
17


3) Lễ tiến linh (cúng cơm);
4) Khóa lễ cầu siêu cho hương linh;
5) Lễ cáo Triều Tổ (cáo tổ tiên ông Bà trước giờ di quan);
6) Lễ di quan và hạ huyệt;
7) Đưa lư hương, long vị, hình vong về nhà hoặc chùa;
8) Lễ an sàng;
9) Cúng thất (tụng kinh cầu siêu và cúng cơm cho hương linh trong bảy tuần gồm

49 ngày, mỗi tuần cúng một lần);
10) Lễ tiểu tường (giáp năm, sau ngày hương linh mất một năm);
11) Lễ đại tường (lễ xả tang, sau ngày hương linh qua đời hai năm);
12) Ở những gia đình khơng theo đạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia chủ
mến chuộng đạo Phật nên họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho hương linh
và tổ chức tang lễ giống như những tín đồ theo đạo Phật.
+ Về cưới hỏi: Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều đôi bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật
giáo thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật phù hộ cho mối lương duyên của họ
được “thuận buồm, xi gió”. Đến ngày cưới hỏi, họ được hướng dẫn về chùa để chư
tăng làm lễ “hằng thuận quy y” trước khi rước dâu. Đó là một lễ chúc lành ngắn gọn và
được chư tăng khuyên dạy một số nguyên tắc đạo đức Phật giáo, để làm kim chỉ nam
cho cuộc sống mới.
Ngoài những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo đã được kể
trên, chúng ta còn thấy một số tập tục khác cũng tương đối phổ biến và có ít nhiều liên
quan đến Phật giáo cần phải ghi nhận.
2.4. Ảnh hưởng Phật giáo qua các loại hình nghệ thuật
2.4.1. Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu
Nghệ thuật sân khấu cũng là một loại hình văn hóa, nhất là các chủng loại này
thuộc về di sản mang tính bản sắc của văn hóa dân tộc song song với những phần đã nêu
ra ở trên. Tính triết lý “nhân quả báo ứng” của Phật giáo đóng vai trị quan trọng trong
các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý phương đông và nếp sống truyền thống của
dân tộc.
- Về hát chèo: Loại hát chèo xuất hiện ban đầu chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng Bắc
Bộ, thu hút nhiều tinh hoa nghệ thuật dân gian như múa, hát và diễn các vở truyện Nôm
18


truyền thống. Đáng kể nhất là vở “Quan Âm Thị Kính” đã đi vào dạng tuồng tiêu biểu
chính thống khi nhắc đến mơn nghệ thuật này. Cịn có các vở “Trương Viên”, “Lưu Bình
Dương Lễ”, “Kim Nhan”, “Chu Mãi Thần”,... đều mang tính thưởng thiện phạt ác và

các vở này gọi là tiêu biểu nên có tên gọi là "chèo cổ".
- Về hát bội: Hát bội ban đầu đi vào nếp sống cung đình, khác với chèo cổ, nghệ
thuật này trở nên một loại hình giải trí cao cấp dành cho vua chúa và giới thượng lưu,
một phía khác là nó dành cho những ai có trình độ thưởng thức nghệ thuật, tương đối
thì mới có thể xem và cảm nhận được chủng loại độc đáo này. Có thể nói xuyên suốt thế
kỷ thứ 19 là thời đại hoàng kim của nghệ thuật hát bội. Các vở “San Hậu”, “Tam Nữ Đồ
Vương”, “Diễn Võ Đình”, “Nghêu Sị Ốc Hến”,... là những vở mang tính chất dân tộc
chính thống và chứa đựng toàn vẹn triết lý “nhân quả báo ứng” và hướng thiện một cách
cao đẹp.
2.4.2. Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ thuật tạo hình
- Về kiến trúc: Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, cố nhiên đã đem theo các kiểu
kiến trúc chùa tháp, lầu chuông gác trống theo mô hình kiến trúc của Ấn Độ, Miến Điện
và Trung Hoa. Tuy nhiên theo thời gian, tinh thần khai phóng của Phật giáo phối hợp
cùng với lối tư duy tổng hợp của dân tộc Việt đã tạo ra một mơ hình kiến trúc rất riêng
cho Phật giáo ở Việt Nam. Chùa tháp ở Việt Nam thường được xây dựng với lối kiến
trúc đặc biệt, mái chùa bao giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre làng, dưới gốc cây đa hay ở một
nơi có cảnh trí thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng.
Mơ hình kiến trúc theo kiểu chữ “Cơng”: bái đường và điện Phật được nối nhau
bằng nhà thiên hương; kiểu chữ “Đinh”: trước; kiểu chữ “Tam”: có ba nếp nhà song
song với nhau, hay kiểu “Nội cơng ngoại Quốc”: phía trước là tiền đường và điện Phật,
sau là mảnh sân hình vng trồng cây cảnh, đặt hịn non bộ, phía sau là nhà hậu tổ, hai
bên là nhà Đông và nhà Tây. Phật giáo để lại nhiều quần thể kiến trúc độc đáo và danh
lam thắng cảnh cho nước Việt, nhiều ngơi chùa nổi tiếng như ở miền Bắc có chùa Một
Cột, chùa Tây phương, chùa Hương, ở miền Trung có chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu,
chùa Báo Quốc; và ở miền Nam có các chùa Giác Lâm, chùa Vĩnh Tràng,...
- Về điêu khắc: Ngày nay, khi có dịp tham quan viện bảo tàng lớn ở Việt Nam,
chúng ta sẽ thấy nhiều cốt tượng, phù điêu của Phật giáo được trưng bày, đó khơng
những là một niềm tự hào của nền văn hóa dân tộc Việt mà cịn là dấu vết chứng minh
19



sự ảnh hưởng của Phật giáo có mặt trong lĩnh vực này. Tiêu biểu ta thấy có các tác phẩm
như: tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở Chùa Hạ (Vĩnh Phú, Bắc Việt, cao 3,2m);
16 pho tượng tổ gỗ của chùa Tây Phương (Hà Tây, Bắc Việt); Bộ tượng Thập Bát La
Hán ở chùa Phước Lâm (Hội An, Quảng Nam Đà Nẵng); Bộ tượng Thập Bát ở chùa
Tràng (Mỹ Tho), tượng Tuyết Sơn ở chùa Trăm Gian (Hà Tây); tượng Phật Thích Ca,
cao 1,07m bằng đồng là hiện vật Bảo tàng lịch sử TP. Hồ Chí Minh... là những tác phẩm
nghệ thuật điêu khắc độc đáo của Việt Nam. Ngồi ra cịn có những cơng trình điêu khắc
quy mơ và mang tính lịch sử như tượng “Phật Nhập Niết Bàn” dài 49m ở núi Tà Cú,
Phan Thiết được kiến tạo năm 1962, tượng Đức Phật Thích Ca ngồi kiết già cao 11m tại
Vũng Tàu, khánh thành ngày 10/3/963; tượng “Kim thân Phật tổ” cao 24m ở chùa Long
Sơn, thành phố Nha Trang được thực hiện vào năm 1964.
- Về hội họa: Mái chùa cổ kính giữa núi non tĩnh mịch hay các lễ hội viếng chùa
ngày đầu xuân hoặc tư tưởng độc đáo của triết học, của thiền học Phật giáo luôn là đề
tài tạo nhiều cảm hứng cho các nghệ nhân và họa sĩ Việt Nam. Nhiều tranh lụa, tranh
màu nước, sơn dầu, sơn mài đề cập đến Phật giáo đã được các họa sĩ, nghệ nhân lên tuổi
ở Việt Nam thể hiện một cách sống động và tinh tế qua các tác phẩm như “chùa Thầy”
của Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1938, “Lễ Chùa” của Nguyễn Siêu, “Bức Tăng” của
Đỗ Quang Em, “Đi Lễ Chùa” của Nguyên Khắc Vịnh. Đặc biệt từ thập niên tám mươi
của thế kỉ XX trở lại đây, có “Thiền Quán”, “Quan Âm Thị Hiện”; “Bích Nhãn”, “Rừng
Thiền” của họa sĩ Phượng Hồng, “Hồi Đầu Thị Ngạn” của Huỳnh Tuần Bá; “Nhất Hoa
Vạn Pháp” của Văn Quan,...
Đến đây, có thể kết luận rằng, những tư tưởng và hình ảnh của Phật giáo đã để lại
những dấu ấn sâu đậm trong phong tục tập quán, trong văn học và nghệ thuật của người
Việt Nam và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng những tinh hoa độc đáo cho dân tộc Việt nói riêng
và cả nhân loại nói chung trong tương lai.

20



KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên, chúng ta đã có thêm những hiểu biết về nguồn gốc ra
đời và nội dung của Phật giáo. Những tư tưởng, triết lý của Phật giáo luôn hướng con
người tới những giá trị tốt đẹp, lương thiện, tránh những tà kiến, những dục vọng, ham
muốn vật chất tầm thường. Những giá trị đạo đức của Phật giáo đã đưa nó trở thành một
trong ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới.
Khi được du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh chóng được nhân dân tiếp
nhận một cách tự nhiên và ngày càng phát triển theo thời gian. Nó đã thâm nhập vào
tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt Nam và góp phần nào vào việc hình thành
bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Ảnh hưởng của đạo Phật đến xã hội Việt
Nam hiện nay được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, tiêu biểu như tín ngưỡng, đạo đức, văn
hoá, nghệ thuật và gắn với cả phong tục, tập quán của con người Việt. Trong bối cảnh
thời đại mới, Phật giáo hiện nay cũng đã có những biến đổi nhất định cho phù hợp với
tình hình thực tế, hướng con người ta tới việc tìm kiếm, mưu cầu những giá trị hạnh
phúc trong cuộc sống mỗi người. Triết học Phật giáo nói riêng và Phật giáo nói chung
đã và đang góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng hơn trong đời sống văn hoá và tinh
thần của con người Việt Nam.

21


×