Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Sự hiện diện của bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp và vi bào tử trùng trên tôm giống và tôm nuôi nước lợ ở đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.19 KB, 14 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

SỰ HIỆN DIỆN CỦA BỆNH ĐỐM TRẮNG, HOẠI TỬ GAN TỤY CẤP VÀ
VI BÀO TỬ TRÙNG TRÊN TÔM GIỐNG VÀ TÔM NUÔI NƯỚC LỢ Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Lê Hồng Phước1*, Nguyễn Hồng Lộc1

TĨM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện trên 600 mẫu tơm giống thu tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Vũng
Tàu, Bạc Liêu và 120 mẫu tôm nuôi nuớc lợ được thu tại các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng,
Trà Vinh và Cà Mau từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2020 để kiểm tra các mầm bệnh nguy hiểm gồm
WSSV, Vibrio parahaemolyticus và EHP bằng phương pháp PCR. Trên tôm giống tỷ lệ nhiễm
WSSV, Vibrio parahaemolyticus gây AHPND và EHP lần lượt là 2,0; 3,6 và 4,8% trong mùa khô
và 1,4; 2,6 và 7,2% trong mùa mưa. Đối với tôm nuôi thương phẩm, tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh này
là 13,5; 21,2 và 23,1% trong mùa khô và 17,7; 11,8 và 25,0% trong mùa mưa. Tỷ lệ nhiễm Vibrio
parahaemolyticus trên tôm giống trong năm 2020 là 3,0%, thấp hơn so với năm 2019 (4,0%). Tương
tự Vibrio parahaemolyticus, tỷ lệ nhiễm WSSV trên tôm giống trong năm 2020 thấp hơn năm 2019
(1,67% trong năm 2020 so với 1,88% trong năm 2019). Tỷ lệ nhiễm EHP trên tôm giống năm 2020
cũng thấp hơn so với năm 2019 (6,5% trong năm 2020 so với 7,88% trong năm 2019).
Từ khóa: WSSV, Vibrio parahaemolyticus, EHP, tôm.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 2010, người nuôi tôm ở Việt Nam
gặp phải dịch bệnh hoại tử gan tụy cấp tính
(Acute Hepatopancreatic Necrosis DiseaseAHPND) gây chết hàng loạt tơm nuôi thương
phẩm. Đến tháng 05/2013 tác nhân gây bệnh
hoại tử gan tụy cấp tính được xác định là Vibrio
parahaemolyticus. Bệnh hoại tử gan tụy cấp
tính đã gây thiệt hại nghiêm trọng trong nuôi
tôm ở một số quốc gia, với tổn thất toàn cầu
trên 1 tỷ USD mỗi năm. Bệnh thường xảy ra


khoảng 8 ngày sau khi thả nuôi, bệnh phát triển
một cách nhanh chóng và gây chết nghiêm trọng
trong vịng 20-30 ngày sau khi thả nuôi (Han
và ctv., 2015). Dấu hiệu lâm sàng của tôm bệnh
như bao ruột rỗng hoặc bị đứt đoạn, mềm vỏ,
gan tụy nhạt màu, sưng hoặc teo nhỏ, có nhiều
điểm đen. Các giải pháp tổng hợp được áp dụng
để phòng trị bệnh bao gồm con giống tốt, cải

tạo ao kỹ, quản lý chất lượng nước, sử dụng chế
phẩm vi sinh và tăng sức đề kháng. Đáng kể
nhất là việc sử dụng kháng sinh trộn vào thức ăn
để phịng trị bệnh nhưng khơng theo hướng dẫn
cụ thể hay tn thủ theo các quy định. Chính vì
vậy hiệu quả mang lại chưa ổn định và dễ dẫn
đến các hậu quả nghiêm trọng như kháng kháng
sinh hay dư lượng.
Bệnh đốm trắng được phát hiện và gây thiệt
lại lớn trên tơm ni ở Trung Quốc năm 1992
sau đó lây lan sang các Nam Mỹ và Châu Á.
Từ năm 1995 đến nay hầu như năm nào bệnh
đốm trắng cũng có xuất hiện trên tơm ni ở
nước ta. Mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu tìm
giải pháp phịng bệnh đốm trắng nhưng hiện nay
vẫn chưa có một giải pháp cụ thể cho bệnh này
ngoài các biện pháp tổng hợp như an toàn sinh
học, chọn con giống tốt và tăng sức đề kháng
cho tôm nuôi.

Viện Nghiện cứu Nuôi trồng Thủy sản II

* Email:

1

74

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Năm 2009, lần đầu tiên trên tôm sú nuôi ở
Thái Lan phát hiện vi bào tử trùng mới có tên
là EHP (Enterocytozoon hepatopenaei) nhưng
chưa được người nuôi chú ý. Cho đến năm 2011
bệnh do loài vi bào tử trùng này trở nên nghiêm
trọng hơn ở những trang trại nuôi trên 5 năm và
gần biển (Panakorn, 2012). EHP gây ảnh hưởng
lên hệ thống gan tụy của tơm và có hình thái
giống với lồi vi bào tử trùng chưa được đặt
tên microsporian trong nghiên cứu nhiễm trên
tôm Penaeus japonicas ở Úc năm 2001 (Tourtip
và ctv., 2009). Ở Việt Nam, bệnh do EHP cũng
được tìm thấy trong những năm gần đây trên
cả tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Hiện nay, tình
hình nhiễm EHP trên tơm nước lợ đang có chiều
hướng gia tăng. Đây là bệnh không gây chết
hàng loạt như bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy
cấp nhưng có ảnh hưởng đáng kể đến sản lượng
thu hoạch vì mức độ chậm lớn và tiêu tốn nhiều

thức ăn (tơm ni 90-100 ngày tuổi vẫn có thể
chỉ đạt kích cỡ 4-5 g/con).
Trong những năm gần đây cùng với biến
đổi khí hậu là dịch bệnh hàng năm đã làm ảnh
hưởng đáng kể đến sản lượng và gây thiệt hại lớn
cho người nuôi tôm. Các tháng đầu năm 2020
người ni tiếp tục gặp khó khăn về xâm nhập
mặn làm ảnh hưởng đến mùa vụ thả nuôi không
theo kế hoạch ban đầu. Tính đến 10 tháng đầu
năm 2020, tổng diện tích ni tơm bị thiệt hại
là 39.536,69 ha trong đó thiệt hại trên mơ hình
thâm canh và bán thâm canh là 7.616,35 ha,
quảng canh, quảng canh cải tiến là 31.392,62 ha
và các mơ hình khác là 527,72 ha. Thiệt hại do
bệnh là 5.482,71 ha và không rõ nguyên nhân
là 31.275,14 ha. Trong giai đoạn từ 2016 đến
tháng 8/2020 tổng diện tích tơm ni nước lợ bị

thiệt hại là hơn 204.000 ha (Cục Thú Y, 2020).
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi thực
hiện nghiên cứu “Sự hiện diện bệnh đốm trắng,
hoại tử gan tụy cấp và vi bào tử trùng trên tôm
giống và tôm nuôi nước lợ ở ĐBSCL” với mục
tiêu: Đánh giá tình trạng nhiễm các mầm bệnh
nguy hiểm này trên tôm giống và tôm nuôi ở
ĐBSCL làm cơ sở cho việc cảnh báo cũng như
đề ra giải pháp phòng và quản lý.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu
Tổng cộng 600 mẫu tôm sú và tôm thẻ chân

trắng giống được thu tại các tỉnh Ninh Thuận,
Bình Thuận, Vũng Tàu và Bạc Liêu (Bảng 1) và
120 mẫu tôm sú và tôm thẻ chân trắng thương
phẩm được thu tại các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre,
Trà Vinh, Cà Mau và Sóc Trăng (Bảng 2). Đối
với mẫu tôm giống thu nguyên con cố định
trong cồn 90o, mẫu tôm thương phẩm được thu
từ các ao nuôi, thu nguyên con đối với tôm <
1g và thu phần đầu đối với tôm > 1g cố định
trong cồn 90o. Ngồi ra cịn có kết quả nghiên
cứu trong năm 2018, 2019 từ nhiệm vụ thường
xuyên do Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản
II thực hiện trong năm 2018 và 2019 được cùng
nhóm nghiên cứu thực hiện với cùng phương
pháp thu và phân tích mẫu (Lê Hồng Phước và
ctv., 2019).
Các hóa chất chính: DNA Taq polymerase
(Promega, Mỹ), dNTP (Promega, Mỹ) các
mồi đã được thiết kế và công bố trên các tạp
chí trên thế giới (IDT, Mỹ) (Bảng 3), Agarose
(Promega, Mỹ), Gel-Red (Invitrogen, Mỹ),
Sodium hydroxide (Promega, Mỹ), Sodium
dodecyl sulfate (Merk, Đức).

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020

75


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II


Bảng 1. Số mẫu tơm giống thu.
Tơm sú giống
Mùa khơ
Mùa mưa
10
25
20
40
10
25
20
50
60
140

Tỉnh
Bình Thuận
Ninh Thuận
Vũng Tàu
Bạc Liêu
Tổng

Tôm thẻ giống
Mùa khô
Mùa mưa
40
30
60
80

30
30
60
70
190
210

Ghi chú: Mùa mưa từ tháng 6-11; mùa khô từ tháng 1-5.

Bảng 2. Số mẫu tôm nuôi nước lợ thâm canh thu ở các tỉnh.
Tỉnh
Bạc Liêu
Bến Tre
Sóc Trăng
Trà Vinh
Cà Mau
Tổng

Tơm sú giống
Mùa khơ
Mùa mưa
5
6
6
6
6
6
2
4
5

4
24
26

Tơm thẻ giống
Mùa khô
Mùa mưa
6
10
5
5
6
10
5
7
6
10
28
42

Ghi chú: Mùa mưa từ tháng 6-11; mùa khơ từ tháng 1-5.

Bảng 3. Trình tự mồi sử dụng trong nghiên cứu.
Tác
nhân

Tên mồi

F1
R1

WSSV
R2
R3
VpPirB-392F
VP
VpPirB-392R
EHP 510F
EHP
EHP 510R

AGAGCCCGAATAGTGTTTCCTCAGC
CAGGCAATATAGCCCGTTTGGG
ATTGCCAATGTGACTAAGCGG
AACACAGCTAACCTTTATGAG
TGATGAAGTGATGGGTGCTC3
TGTAAGCGCCGTTTAACTCA
GCCTGAGAGATGGCTCCCACGT
GCGTACTATCCCCAGAGCCCGA

2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp tách chiết DNA tổng
số từ mẫu tôm
DNA tổng số từ mẫu tôm được tách chiết
theo phương pháp của Kiatpathomchai và ctv.
(2001) với một số thay đổi nhỏ. Lấy 50-100
mg mô tôm cho mẫu tôm giống, 50-100 mg mô
mang cho mẫu tôm nuôi (chỉ tiêu WSSV), 50
mg-100 mg mô gan cho mẫu tơm ni (chỉ tiêu
76


Kích thước
Tác giả
sản phẩm

Trình tự (5’-3’)

1100 bp
526 bp
250 bp

Kiatpathomchai
và ctv., 2001

392 bp

Han và ctv., 2015

510 bp

Tang và ctv., 2015

EHP và AHPND). Mẫu được đồng nhất trong
1 ml dung dịch ly trích thơ DNA NaOH-SDS
(0,025N – 0,0125%). Sau đó, mẫu được ủ ở
khoảng 94-99°C trong 10 phút và được làm
lạnh nhanh trong nước đá lạnh (khoảng 4-8°C).
Tiếp theo, mẫu được ly tâm với tốc độ 13.000
vịng trong 5 phút. Cuối cùng, 1-2 µl dịch nổi sẽ
được dùng làm bản mẫu cho các phản ứng PCR.


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

2.2.1. Phương pháp semi-nested PCR phát
hiện WSSV trên tôm (Kiatpathomchai và ctv.,
2001)
Sử dụng 4 mồi F/R1/R2/R3 (Bảng 3).
Thành phần phản ứng bao gồm: 200 mM dNTP,
1,5 mM MgCl2, 0,1 µM mồi F1, 0,2 µM mồi R1,
0,3 µM mồi R2, 0,5 µM mồi R3, 1,25 unit Taq
polymerase trong tổng thể tích 50 µl. Với chu
trình nhiệt: 930/5 phút; 5 chu kỳ: 93oC/20 giây,
70oC/20 giây, 72oC/20 giây; 20 chu kỳ: 93oC/20
giây, 55oC/20 giây, 72oC/20 giây, 25 chu kỳ:
93oC/20 giây, 70oC/20 giây, 72oC/20 giây. Sản
phẩm PCR sau đó được điện di trên gel agarose
2% và được nhuộm với thuốc nhuộm GelRed.
Nếu mẫu nhiễm vi rút ở mức độ nặng, sản phẩm
dự kiến có kích thước 1100 bp, 526 bp và 250
bp. Nếu mẫu nhiễm vi rút ở mức độ trung bình,
sản phẩm dự kiến có kích thước 526 bp và 250
bp. Nếu mẫu nhiễm vi rút ở mức độ nhẹ sản
phẩm dự kiến có kích thước 250 bp.
2.2.2. Phương pháp PCR xác định V.
parahaemolyticus gây bệnh AHPND (Han và
ctv., 2015)
Sử dụng cặp mồi VpPirB-392/ VpPirB392R (Bảng 3). Thành phần phản ứng bao gồm:
0,2 mM dNTP, 1,5 mM MgCl2, 0,5µM mỗi mồi

và 0,625 unit Taq polymerase trong tổng thể tích
50 µl. Chu trình nhiệt: 35 chu kỳ: 93oC/3 phút;
94°C/30 giây, 60°C/30 giây, 72°C/30 giây; kết
thúc: 72°C/7 phút. Sản phẩm PCR sau đó được
điện di trên gel agarose 2% và nhuộm với thuốc
nhuộm GelRed, kích thước dự kiến là 392 bp.

2.2.3. Phương pháp PCR phát hiện EHP
trên tôm (Tang và ctv., 2015)
Sử dụng cặp mồi EHP 510 F/EHP 510R
(Bảng 3) để xác định sữ hiện diện của EHP trên
mẫu tôm thu. Thành phần phản ứng bao gồm:
200 mM dNTP, 1,5 mM MgCl2, 0,1 µM mồi và
0,625 unit Taq polymerase trong tổng thể tích
50 µl. Chu trình nhiệt: 94°C/3 phút; 40 chu kỳ:
94°C/30 giây, 60°C/30 giây, 72°C/30 giây; kết
thúc 72oC/5 phút. Sản phẩm PCR sau đó được
điện di trên gel agarose 2% và nhuộm với thuốc
nhuộm GelRed, kích thước dự kiến là 510 bp.
III. KẾT QUẢ
3.1. Sự hiện diện của WSSV, V.
parahaemolyticus gây AHPND và EHP trên
tôm giống
3.1.1. WSSV trên tôm giống
Trong năm 2020 ghi nhận tỷ lệ nhiễm
WSSV trên tôm giống sú và thẻ chân trắng là
1,67%. Trong mùa khơ 2020, có 60 mẫu tơm
sú giống và 190 mẫu tơm thẻ giống được kiểm
tra. Ghi nhận có 2 mẫu tôm sú và 3 mẫu tôm
thẻ nhiễm WSSV (tỷ lệ 3,33% và 1,58%) có

nguồn gốc ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Vũng
Tàu và Bạc Liêu. Trong mùa mưa 2020, trong
tổng số 140 mẫu tôm sú giống và 210 mẫu tôm
thẻ giống được kiểm tra, có 2 mẫu tơm sú giống
nhiễm WSSV (1,43%), trong đó có 1 mẫu ở
Ninh Thuận và 1 mẫu ở Bạc Liêu. Có 3 mẫu
tơm thẻ giống nhiễm WSSV (1,43%), các mẫu
này có nguồn gốc từ Bạc Liêu và Ninh Thuận,
kết quả chi tiết được thể hiện trong Bảng 4.

Bảng 4. Kết quả kiểm tra virus gây bệnh đốm trắng WSSV trên tơm giống PL (Postlarvae).
Loại

PL sú

Tỉnh
Bình Thuận
Ninh Thuận
Vũng Tàu
Bạc Liêu
Tổng

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra
Mùa khô
10
0
20
1

10
1
20
0
60
2 (3,33%)

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra
Mùa mưa
25
0
40
1
25
0
50
1
140
2 (1,43%)

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020

77


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Loại


Tỉnh

Bình Thuận
Ninh Thuận
PL thẻ Vũng Tàu
Bạc Liêu
Tổng
Tổng cộng

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra
Mùa khô
40
1
60
1
30
0
60
1
190
3 (1,58%)
250
5 (2,00%)

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra

Mùa mưa
30
0
80
1
30
0
70
2
210
3 (1,43%)
350
5 (1,43%)

3.1.2. Kết quả kiểm tra V. parahaemolyticus mùa mưa 2020, trong tổng số 140 mẫu tôm sú
giống và 210 mẫu tôm thẻ giống được kiểm
gây AHPND trên tôm giống
Trong mùa khơ 2020, có 60 mẫu tơm sú tra, có 5 mẫu (3,57%) tôm sú giống nhiễm vi
giống và 190 mẫu tôm thẻ giống được kiểm tra. khuẩn V. parahaemolyticus gây AHPND và 4
Ghi nhận có 3 mẫu tơm sú giống (5,0%) nhiễm mẫu tôm thẻ giống (1,9%) nhiễm vi khuẩn V.
V. parahaemolyticus gây AHPND gồm 1 mẫu parahaemolyticus gây AHPND (Bảng 5). Từ
ở Ninh Thuận, 1 mẫu ở Bình Thuận và 1 mẫu kết quả kiểm tra mẫu tôm giống cho thấy tỷ lệ
ở Bạc Liêu. Đối với tôm thẻ chân trắng có 6 nhiễm V. parahaemolyticus là 3,0% trong đó tỷ
mẫu (3,16%) nhiễm V. parahaemolyticus gây lệ nhiễm trong mùa khơ là 3,6% và trong mùa
AHPND, trong đó có 2 mẫu ở Ninh Thuận, 2 mưa là 2,57%.
mẫu ở Vũng Tàu và 2 mẫu ở Bạc Liêu. Trong
Bảng 5. Kết quả kiểm tra V. parahaemolyticus gây AHPND trên tôm giống.
Loại

Tỉnh


Tổng số mẫu
kiểm tra

Số mẫu (+)

Tổng số mẫu
kiểm tra

Mùa khơ
Bình Thuận
Ninh Thuận
PL sú Vũng Tàu
Bạc Liêu
Tổng
Bình Thuận
Ninh Thuận
PL thẻ Vũng Tàu
Bạc Liêu
Tổng
Tổng cộng

10
20
10
20
60
40
60
30

60
190
250

3.1.3. Kết quả kiểm tra vi bào tử trùng
EHP trên tôm giống
Trong mùa khô 2020, kiểm tra 60 mẫu tơm
sú giống ghi nhận 5 mẫu (8,33%) dương tính
78

Số mẫu (+)

Mùa mưa

1
1
0
1
3 (5,00%)
0
2
2
2
6 (3,16%)
9 (3,60%)

25
40
25
50

140
30
80
30
70
210
350

1
2
0
2
5 (3,57%)
0
1
1
2
4 (1,90%)
9 (2,57%)

với EHP, các mẫu này tập trung ở Ninh Thuận,
Bình Thuận và Bạc Liêu. Đối với tôm thẻ giống
kiểm tra 190 mẫu có 7 mẫu (3,68%) dương tính
với EHP. Trong mùa mưa với tổng số 140 mẫu

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II


tơm sú giống và 210 mẫu tôm thẻ giống được mùa mưa tỷ lệ nhiễm EHP trên tơm giống là
kiểm tra, có 11 mẫu tôm sú (7,86%) và 14 mẫu 7,14%, cao hơn so với mùa khô là 4,8%, kết quả
tôm thẻ (6,67%) nhiễm EHP. Như vậy trong chi tiết được thể hiện trong Bảng 6.
Bảng 6. Kết quả kiểm tra vi bào tử trùng EHP trên tơm giống.
Loại

Tỉnh

Bình Thuận
Ninh Thuận
PL sú Vũng Tàu
Bạc Liêu
Tổng
Bình Thuận
Ninh Thuận
PL thẻ Vũng Tàu
Bạc Liêu
Tổng
Tổng cộng

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra
Mùa khô
10
1
20
2
10
0

20
2
60
5 (8,33%)
40
1
60
3
30
0
60
3
190
7 (3,68%)
250
12 (4,80%)

Các số liệu trong năm 2020 được so sánh
với năm 2018 và 2019 do cùng nhóm tác giả
thực hiện (Lê Hồng Phước & Nguyễn Hồng
Lộc, 2019). Kết quả so sánh cho thấy tỷ lệ
nhiễm V. parahaemolyticus trong năm 2020 là
3,0%, thấp hơn so với năm 2018 (3,63%) và

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra
Mùa mưa
25
2

40
2
25
1
50
6
140
11 (7,86%)
30
1
80
3
30
2
70
8
210
14 (6,67%)
350
25 (7,14%)

năm 2019 (4,0%). Tỷ lệ nhiễm WSSV trong
năm 2020 cũng thấp hơn so với năm 2019 (1,67
và 1,88%). Với EHP cũng ghi nhận tương tự,
tỷ lệ nhiễm trong năm 2020 là 6,17%, thấp hơn
so với năm 2018 (7,75%) và năm 2019 (7,88%)
(Hình 1).

Hình 1. Tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh trên tôm giống trong năm 2018, 2019 & 2020.


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020

79


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 2. Kết quả điện kiểm tra WSSV bằng
phương pháp semi-nested PCR. Giếng 1,
2, 3, 4: mẫu âm tính. Giếng 5: mẫu dương
tính. Giếng (-): mẫu chứng âm. Giếng
(+): mẫu chứng dương. Giếng M: Thang
P-Ladder-01-100 (Phusa Biochem).

Hình 3. Kết quả kiểm tra Vibrio
parahaemolyticus bằng phương pháp PCR.
Giếng 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7: mẫu âm tính. Giếng
8, 9: mẫu dương tính. Giếng (-): mẫu chứng
âm. Giếng (+): mẫu chứng dương. Giếng M:
Thang P-Ladder-01-100 (Phusa Biochem).
Hình 4. Kết quả kiểm tra EHP bằng phương
pháp PCR. Giếng 2, 3, 6, 7, 8: mẫu âm tính.
Giếng 1, 4, 5, 9, 10: mẫu dương tính. Giếng
(-): mẫu chứng âm. Giếng (+): mẫu chứng
dương. Giếng M: Thang P-Ladder-01-100
(Phusa Biochem).

3.2. Sự hiện diện của WSSV, V. 8) và 12 mẫu nhiễm EHP (23,07%) (Bảng 9).
parahaemolyticus gây AHPND và EHP trên Trong mùa mưa 2020 với tổng số 26 mẫu tơm
sú và 52 mẫu tơm thẻ có 12 mẫu nhiễm WSSV

tơm ni thương phẩm
Trong mùa khơ 2020, có 24 mẫu tôm sú (17,65%), 8 mẫu nhiễm V. parahaemolyticus
và 28 mẫu tôm thẻ nuôi được kiểm tra 3 mầm gây AHPND (11,76%) và 17 mẫu nhiễm EHP
bệnh nguy hiểm WSSV, V. parahaemolyticus (25,0%). Kết quả kiểm tra cho thấy, tỉ lệ nhiễm
gây AHPND và EHP trong đó có 7 mẫu nhiễm WSSV và EHP trong các tháng mùa mưa cao
WSSV (13,46%) (Bảng 7), 11 mẫu nhiễm V. hơn các tháng mùa khô.
parahaemolyticus gây AHPND (21,15%) (Bảng
Bảng 7. Kết quả kiểm tra WSSV trên mẫu tơm ni.
Loại



80

Tỉnh
Bạc Liêu
Bến Tre
Sóc Trăng
Trà Vinh
Cà Mau
Tổng

Tổng số mẫu
kiểm tra

Số mẫu (+)

Tổng số mẫu
kiểm tra


Mùa khô
5
6
6
2
5
24

0
1
1
0
1
3 (12,50%)

Số mẫu (+)

Mùa mưa
6
6
6
4
4
26

1
0
2
2
0

5 (19,23%

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Loại

Tỉnh

Bạc Liêu
Bến Tre
Sóc Trăng
Thẻ
Trà Vinh
Cà Mau
Tổng
Tổng cộng

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra
Mùa khô
6
1
5
0
6
2

5
0
6
1
28
4 (14,29%)
52
7 (13,46%)

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra
Mùa mưa
10
1
5
0
10
3
7
1
10
2
42
7 (16,67%)
68
12 (17,65%)

Bảng 8. Kết quả kiểm tra V. parahaemolyticus trên mẫu tôm ni.
Loại


Tỉnh

Bạc Liêu
Bến Tre
Sóc Trăng

Trà Vinh
Cà Mau
Tổng
Bạc Liêu
Bến Tre
Sóc Trăng
Thẻ
Trà Vinh
Cà Mau
Tổng
Tổng cộng

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra
Mùa khô
5
0
6
2
6
2
2

1
5
1
24
6 (25,0%)
6
2
5
1
6
2
5
0
6
0
28
5 (17,85%)
52
11 (21,15%)

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra
Mùa mưa
6
0
6
2
6
1

4
0
4
1
26
4 (15,38%
10
1
5
0
10
1
7
1
10
1
42
4 (9,52%)
68
8 (11,76%)

Bảng 9. Kết quả kiểm tra vi bào tử trùng EHP trên mẫu tơm ni.
Loại

Tỉnh

Bạc Liêu
Bến Tre
Sóc Trăng


Trà Vinh
Cà Mau
Tổng
Bạc Liêu
Bến Tre
Sóc Trăng
Thẻ
Trà Vinh
Cà Mau
Tổng
Tổng cộng

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra
Mùa khô
5
1
6
1
6
2
2
1
5
0
24
5 (20,83%)
6
2

5
1
6
2
5
1
6
1
28
7 (25,0%)
52
12 (23,07%)

Tổng số mẫu
Số mẫu (+)
kiểm tra
Mùa mưa
6
1
6
2
6
2
4
1
4
1
26
7 (26,92%)
10

3
5
1
10
2
7
2
10
2
42
10 (23,81%)
68
17 (25,00%)

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020

81


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Đối với bệnh đốm trắng trên tôm nuôi
thương phẩm trong năm 2019 và 2020 cao hơn
so với năm 2018, tương tự cho bệnh hoại tử gan

tụy cấp. Tỷ lệ nhiễm bệnh do vi bào tử trùng
năm 2019 và 2020 cũng cao hơn so với 2018
(Hình 5).

Hình 5. Tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh trên tôm nuôi thương phẩm trong năm 2018, 2019 & 2020.

IV. THẢO LUẬN
Bệnh vi bào tử trùng không gây chết cấp tính
trên tơm nhưng nó ảnh hưởng lớn đến sản lượng
và năng xuất nuôi (Lightner, 1996). Ở châu
Á cũng đã ghi nhận vi bào tử trùng xuất hiện
trên tôm nuôi ở Malaysia, Thái Lan, Indonesia
và Việt Nam (Limsuwan, 1997; Flegel và ctv.,
1992; Flegel., 2012). Gần đây nhất hai ký sinh
trùng gây thiệt hại trên tơm được ghi nhận đó
là vì bào tử trùng Entorocytozoon hepatopenaei
(EHP) gây bệnh phân trắng trên tôm sú nuôi
ở Việt Nam và bệnh chậm lớn và trắng trên
tôm thẻ chân trắng ở Thái Lan. Ký sinh trùng
Halopsoridian gây chết hàng loạt và chậm lớn
trên tôm thẻ nuôi ở Indonesia (Flegel., 2012).
Bệnh do vi bào tử trùng EHP được phát
hiện tại Việt Nam năm 2014. Ngay sau khi nhận
được thông tin về bệnh do vi bào tử trùng EHP,
Cục Thú Y đã có các báo cáo và hướng dẫn các
địa phương chủ động triển khai giám sát thêm
bệnh do EHP tại một số vùng nuôi tôm trọng
điểm từ năm 2015. Đến nay, EHP đã được phát
82

hiện tại các tỉnh, thành phố gồm: Quảng Ninh,
Hải Phòng, Nam Định, Hà Tĩnh, Quảng Nam,
Phú n, Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình Thuận,
Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Bạc
Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Cà Mau. Trong
giai đoạn 2016-2020 bệnh do EHP đã gây thiệt

hại tại một số địa phương do biểu hiện chậm
lớn và có lúc kết hợp với bệnh khác (Cục Thú
Y, 2020).
Hội chứng phân trắng (White Feces
Syndrome -WFS) được tìm thấy do nhiều tác
nhân làm tơm chậm lớn, phân đàn, giảm ăn
và có trường hợp chết rải rác liên tục. Những
biểu hiện này thường được nhận thấy ở các
bệnh khác liên quan đến tình trạng gan tụy
tơm ni như bệnh do EHP, hoại tử gan tụy do
Vibrio parahaemolyticus và bệnh nhiễm giống
vi khuẩn Vibrio nói chung gây hoại tử gan tụy
(Septic Hepatopancreatic Necrosis -SHPN).
Vibrio gây SHPN có thể là tác nhân chính hoặc
tác nhân cơ hội và thường hiện diện chủ yếu
trong gan tụy tôm. Đặc biệt là khi gan tụy tơm bị

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

yếu tố ban đầu làm tổn thương sẽ tạo điều kiện
cho các Vibrio cơ hội gây bệnh và gây SHPN.
Điều này cũng đã được chứng minh theo nhận
định của Aranguren và ctv. (2017), EHP được
xác định là yếu tố làm tăng sự mẫn cảm của
tôm thẻ chân trắng đối với bệnh gan tụy cấp
AHPND, SHPN và WFS. Do đó, việc kiểm sốt
và phịng tránh lồi vi bào tử trùng này trong

q trình ni là rất quan trọng. Trước đây có
thơng tin cho rằng hội chứng phân trắng do
nhiều tác nhân trong đó bao gồm Vibrio cholera,
ký sinh trùng Gregarine,  Bacilloplasma  sp.,
Phascolarctobacterium sp., các loài tảo độc và
không thấy liên quan đến EHP. Tuy nhiên theo
nghiên cứu gần đây cho thấy mối liên hệ giữa
WFS và các tác nhân khác trong đó có vai trị
của EHP, SHPN kết hợp với môi trường bất lợi.
Kết quả thu mẫu kiểm tra EHP bằng phương
pháp PCR trên vùng có WFS và vùng khơng có
WFS cho thấy mẫu thu ở vùng có WFS có số
lượng vi rút EHP cao hơn vùng khơng có WFS
(Aranguren và ctv., 2017). Điều này cho thấy
tơm bệnh phân trắng có nhiều nguy cơ nhiễm
EHP hơn.
Bệnh hoại tử gan tụy cấp được báo cáo lần
đầu vào cuối năm 2010 tại tỉnh Sóc Trăng, sau
đó dịch bệnh đã lây sang hầu hết các địa phương
nuôi tôm trọng điểm ở ĐBSCL. Trong giai đoạn
từ 2016 đến nay, phạm vi xảy ra bệnh giảm dần
từ 306 xã năm 2016 và 237 xã năm 2018 xuống
còn 136 xã năm 2020 (Cục Thú Y, 2020). Từ
năm 2016-2020 bệnh hoại tử gan tụy cấp có xu
hướng giảm mạnh về diện tích mắc bệnh từ trên
3.339 ha xuống 2.143 ha. Bệnh hoại tử gan tụy
cấp xảy ra trên tất cả mơ hình ni tơm nước lợ
nhưng nặng nhất là ở mơ hình nuôi thâm canh
(Cục Thú Y, 2020).
Bệnh đốm trắng xuất hiện hầu hết các vùng

nuôi tôm của cả nước nhưng chủ yếu tập trung
tại các tỉnh thuộc ĐBSCL. Diện tích tơm nuôi
nước lợ mắc bệnh đốm trắng tăng từ năm 20162017 sau đó có xu hướng giảm mạnh từ trên
5.873 ha (năm 2018) xuống còn 1.900 ha (8
tháng đầu năm 2020). Bệnh đốm trắng xuất hiện

ở tất cả các tháng trong năm nhưng tập trung
nhiều vào các tháng có mùa vụ thả ni chính.
Đối với mơ hình ni thâm canh và bán thâm
canh có diện tích bị thiệt hại do bệnh đốm trắng
tăng từ 2016-2018 sau đó có xu hướng giảm.
Cụ thể là năm 2016 có 2.811 ha, năm 2018 có
4.734 ha và 8 tháng đầu năm 2020 có 1.350 ha
bị nhiễm bệnh đốm trắng. Đối với mơ hình ni
quảng canh và quảng canh cải tiến có diện tích
ni bị thiệt hại do bệnh đốm trắng giảm dần từ
năm 2016. Cụ thể là năm 2016 có 1.079 ha và 8
tháng đầu năm 2020 là 549 ha tôm nuôi bị bệnh
đốm trắng (Cục Thú Y, 2020).
Nghiên cứu của Rahman và ctv. (2007a, b)
cho thấy nhiệt độ có liên quan đến sự nhân lên
của WSSV. Nhóm tác giả này bố trí thí nghiệm
gây nhiễm tôm với các nghiệm thức khác nhau
và thay đổi nhiệt độ giữa 27 và 33oC. Ở nghiệm
thức 27oC liên tục trong thời gian gây nhiễm tôm
với WSSV cho thấy tơm có dấu hiệu đốm trắng
sau 24 giờ và chết rất sớm sau 36 giờ gây nhiễm,
tỷ lệ nhiễm đạt 100% sau 60 giờ gây nhiễm. Ở
nghiệm thức duy trì nhiệt độ nước ổn định ở
33°C cho tỷ lệ chết rất thấp từ 0-10%. Ở nghiệm

thức trước gây nhiễm duy trì ở 27oC nhưng sau
gây nhiễm duy trì ở 33oC cho thấy mức độ chết ở
mức thấp hơn so với nhóm nghiệm thức ổn định
ở 27oC. Tỷ lệ chết ở nghiệm thức này đạt 100%
sau 96 giờ gây nhiễm. Kết quả thí nghiệm này
cho thấy khi tăng nhiệt độ có khả năng ức chế
sự nhân lên của WSSV. Điều này khá trùng hợp
trong thực tế khi nhiệt độ thấp, mưa nhiều thì
khả năng bùng phát dịch bệnh đốm trắng cũng
tăng cao. Một số nghiên cứu trên thế giới như
Tendencia và Verreth (2011), Gao và ctv. (2011)
cho thấy yếu tố độ mặn thấp, hàm lượng Vibrio
tổng số trong nước ao cao và sự biến động nhiệt
độ trong ngày lớn là những yếu tố liên quan tới
sự bùng phát bệnh đốm trắng trên tôm. Ở điều
kiện nhiệt độ trên 35oC và dưới 15oC sự xuất
hiện của bệnh đốm trắng giảm rõ rệt và khoảng
nhiệt độ từ 25-28oC là thích hợp nhất cho sự phát
triển của WSSV. Trong nghiên cứu này cho thấy
tôm ni trong mùa mưa có tỷ lệ nhiễm bệnh

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020

83


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

đốm trắng 17,5% cao hơn so với mùa khô là
13,4%. Trong phạm vi của nghiên cứu này cho

thấy tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh trong năm 2020
trên tôm giống thấp hơn so với năm 2018 và
2019 có thể là do mức độ kiểm sốt tơm bố mẹ,
thức ăn cho tơm bố mẹ và an toàn sinh học trong
trại giống đã từng bước được cải thiện hơn. Đối
với tôm nuôi thương phẩm tỷ lệ nhiễm các loại
mầm bệnh tăng cao có thể do ảnh hưởng ngày
càng tăng của mức độ thâm canh hóa.
Tỷ lệ nhiễm EHP trên tôm nuôi trong năm
2020 ở các tỉnh thuộc ĐBSCL được ghi nhận khá
cao (từ 23-25%) (Lê Hồng Phước và ctv., 2020).
Ở Thái Lan cũng ghi nhận tỷ lệ nhiễm EHP khá
cao (chiếm 60% số mẫu phân tích), bằng chứng
đầu tiên cho thấy tỷ lệ nhiễm EHP cao ở tơm thẻ
chân trắng từ một nghiên cứu đồn hệ về dịch tễ
học đối với 196 ao nuôi ở Thái Lan được thực
hiện trong giai đoạn 2013–2014 để xác định các
yếu tố rủi ro liên quan đến hội chứng chết sớm
(EMS) (Sanguanrut và ctv., 2018). Trong một
phần của khảo sát này, gan tụy của tôm cũng
được kiểm tra EHP bằng phương pháp PCR và
phát hiện 60% số ao dương tính với EHP bất kể
tình trạng EMS của chúng như thế nào. Kết quả
này dẫn đến sự thông báo khẩn cấp của NACA
về mối đe dọa của EHP đối với ngành ni tơm
tồn cầu vào năm 2015.
Theo Tourtip và ctv. (2009), bệnh do vi bào
tử trùng ngày càng tăng cao ở các nước Đông
Nam Á. Hiên nay, EHP ghi nhận là đã xuất hiện
ở Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Việt Nam,

Thái Lan, Ấn Độ và một số nước ở vùng Nam
Á. Theo Aranguren và ctv. (2017), EHP được
xác định là yếu tố làm tăng sự mẫn cảm của tôm
thẻ chân trắng đối với bệnh gan tụy cấp AHPND
và triệu trứng SHPN (septic hepatopancreatic
necrosis) bao gồm hội chứng phân trắng và dị
hình gây ra bởi các lồi vi khuẩn Vibrio. Do đó,
việc kiểm sốt và phịng tránh lồi vi bào tử
trùng này trong q trình ni là rất quan trọng.
Rajendran và ctv. (2016) thu 137 mẫu tôm nuôi
thương phẩm giai đoạn 84-91 ngày nuôi với
trọng lượng 2,5-28,5g từ 3 trang trại nuôi tôm
84

ở Andhra Pradesh và Tamil Nadu (Ấn Độ) cho
kết quả tỷ lệ nhiễm EHP là 63,5%. Shen và ctv.
(2019) thu mẫu tôm nuôi trong ao đất và trong
nhà màng ở tỉnh Jiangsu –Trung Quốc để kiểm
tra EHP bằng phương pháp kính hiển vi điện
tử, mô bệnh học và PCR. Kết quả cho thấy tỷ
lệ nhiễm EHP trong nhóm tơm chậm lớn ni
trong nhà màng khá cao (93%). Đối với nhóm
tơm ni chậm lớn trong ao đất cũng cho tỷ lệ
nhiễm gần bằng với nhóm tơm ni trong nhà
màng (91,3%). Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm EHP trên
nhóm tơm bình thường ni trong nhà màng
chỉ ở mức 10,6% và thấp hơn rất nhiều so với
nhóm tơm bình thường nhưng ni trong ao đất
(72,4%).
Hiện tượng EHP làm chậm tăng trưởng

đã được chứng minh khi phân tích mẫu bằng
phương pháp Realtime PCR. Định lượng các
trường hợp nhiễm EHP ở tôm thẻ chân trắng cho
thấy rằng sự hiện diện của hơn 1×103 copies/1
ng gan tụy được tách chiết DNA có tương quan
với sự chậm phát triển của tôm nuôi (Liu và ctv.,
2016; Rajendran và ctv., 2016). Tôm chậm lớn
được thể hiện ở giảm tăng trọng trong ngày, tơm
phân nhiều cỡ. Hơn nữa, có thơng tin cho rằng
nhiễm EHP có thể liên quan đến hội chứng phân
trắng (WFS) ở tôm thẻ chân trắng nuôi (Ha và
ctv., 2010). Tuy nhiên, một báo cáo sau đó cho
rằng đây có thể là một liên kết gián tiếp chứ
không phải trực tiếp (Tangprasittipap và ctv.,
2013).
V. KẾT LUẬN
Đối với tôm giống tỷ lệ nhiễm WSSV,
Vibrio parahaemolyticus gây AHPND và EHP
trong năm 2020 lần lượt là 1,67; 3,0 và 6,5%
trong đó khơng có sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ
nhiễm theo mùa.
Đối với tôm thương phẩm tỷ lệ nhiễm
WSSV, V. parahaemolyticus gây AHPND và
EHP trong năm 2020 lần lượt là 15,83; 15,83
và 24,17% trong đó tỷ lệ nhiễm WSSV và EHP
trong mùa mưa cao hơn trong khi tỷ lệ nhiễm
AHPND trong mùa mưa lại thấp hơn.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng việt
Cục Thú Y, 2020. Báo cáo kết quả phòng, chống
dịch bệnh thủy sản giai đoạn 2016-2020 tại hội
nghị xây dựng kế hoạch quốc gia phòng chống
dịch bệnh thủy sản giai đoạn 2021-2025 phục vụ
xuất khẩu, Cần Thơ 9/2019.
Lê Hồng Phước & Nguyễn Hồng Lộc, 2019. Sự
hiện diện của White Spot Syndrome Virus,
Vibrio parahaemolyticus và Enterocytzoon
hepatopenaei trên tôm giống và tôm nuôi nước
lợ ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Nghề cá
sơng Cửu Long 15: 15-23.
Lê Hồng Phước, Trương Hồng Việt, Trần Minh
Thiện, Đoàn Văn Cường, Thới Ngọc Bảo,
2020. Khảo sát sự hiện diện của vi bào tử trùng
Enterocytozoon hepatopenaei trên tôm nuôi,
thức ăn công nghiệp và các lồi động vật khác
trong ao ni tơm. Tạp chí Nghề cá sông Cửu
Long 16: 27-37.
Tài liệu tiếng Anh
Aranguren, L.F., Jee Eun Han, Kathy, F.J., Tang,
2017. Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) is a
risk factor for acute hepatopancreatic necrosis
disease (AHPND) and septic hepatopancreatic
necrosis (SHPN) in the Pacific white shrimp

Penaeus vannamei. Aquaculture 471: 37-42.
Flegel, T.W., Boonyaratpalin, S., Fegan, D.F., Guerin,
M., and Sriurairatana, S.,1992. High mortality of
black tiger prawns from cotton shrimp disease in
Thailand. In: Shariff M, Subasinghe RP, Arthur
JR, editors. Diseases in Asian Aquaculture I. Fish
Health Section, Asian Fisheries Society. Manila:
181–197.
Flegel, T.W., 2012. Historic emergence, impact
and current status of shrimp pathogens in Asia.
Journal of Invertebr Pathol 110: 166-173.
Gao, H., Kong, J., Li, Z., Xiao, G., Meng, X., 2011.
Quantitative analysis of temperature, salinity and
pH on WSSV pro-liferation in Chinese shrimp
Fenneropenaeus chinensisby real-time PCR.
Aquaculture 312: 26-31.
Ha, N.T., Ha, D.T., Thuy, N.T., Lien, V.T.K., 2010.
Occurrence of microsporidia Enterocytozoon
hepatopenaei in white feces disease of cultured
black tiger shrimp (Penaeus monodon) in
Vietnam. Aquat Anim Dis.
Han, J.E., Mohney, L.L., Tang, K.F.J., Pantoja,
C.R., Lightner, D.V., 2015. Plasmid mediated
tetracycline resistance of Vibrio parahaemolyticus
associated with acute hepatopancreatic necrosis

disease (AHPND) in shrimps. Aquaculture
Reports (2): 17–21.
Kiatpathomchai, W.,  Boonsaeng, V.,  Tassanakajon,
A.,  Wongteerasupaya,

C.,  Jitrapakdee,
S.,  Panyim, S., 2001. A non-stop, single-tube,
semi-nested PCR technique for grading the
severity of white spot syndrome virus infections
in Penaeus monodon. Dis Aquat Organ 47(3):
235-9.
Lightner, D.V., 1996. A Handbook of Pathology and
Diagnostic Procedures for Diseases of Penaeid
Shrimp. J World Aquac Soc, Baton Rouge.
Limsuwan, C., 1997. Reducing the effects of
white-spot baculovirususing PCR screeningand
stressors. Aquat Anim Health Res Inst News
l6:1–2.
Liu, Y.M., Zhang, Q., Wan, X.Y., Ma, F., Huang,
J., 2016. Development of real-time PCR assay
for detecting microsporidian Enterocytozoon
hepatopenaei and the application in shrimp
samples with different growth rates. Prog. Fish.
Sci. 37: 119–126.
Panakorn, S., 2012. Opinion article: more on early
mortality syndrome in shrimp. Aqua Culture
Asia Pacific, 8 (1): 8-10.
Rahman, M.M., Corteel, M., Dantas-Lima, J.J.,
Wille, M., Alday-Sanz, V., Pensaert, M.B.,
Sorgeloos, P., Nauwynck, H.J, 2007a. Impact of
daily fluctuations of optimum (27°C) and high
water temperature (33°C) on Penaeus vannamei
juveniles infected with white spot syndrome
virus (WSSV). Aquaculture 269: 107–113.
Rahman, M.M., Corteel, M., Wille, M., Alday-Sanz,

V., Pensaert, M.B., Sorgeloos, P., Nauwynck, H.J,
2007b. The effect of raising water temperature to
33 °C in Penaeus vannameijuveniles at different
stages of infection with white spot syndrome
virus (WSSV). Aquaculture 272: 240–245.
Rajendran, K.V., Shivam, S., Ezhil Praveena, P.,
Sahaya Rajan, J.J., Sathish Kumar, T., Satheesha,
A., 2016. Emergence of Enterocytozoon
hepatopenaei (EHP) in farmed Penaeus
(Litopenaeus) vannamei in India. Aquaculture
454: 272-280.
Sanguanrut,
P.,
Munkongwongsiri,
N.,
Kongkumnerd, J., Thawonsuwan, J., Thitamadee,
S., Boonyawiwat, V., Tanasomwang, V., Flegel,
T.W., Sritunyalucksana, K., 2018. A cohort study
of 196 Thai shrimp ponds reveals a complex
etiology for early mortality syndrome (EMS).
Aquaculture 493: 26-36.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020

85


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Shen, H., Qiao, Y., Wan, X., Jiang, G., Fan,
X., Li, H., Shi, W., Wang, L. and Zhen, X.,

2019.  Prevalence of shrimp microsporidian
parasite Enterocytozoon hepatopenaei in Jiangsu
Province, China. Aquacult Int 27: 675–68.
Tang, K.F.J., Pantoja, C.R., Redman, R.M., Han, J.E.,
Tran, L.H., Lightner, D.V., 2015. Development
of in situ hybridization and PCR assays for
the detection of Enterocytozoon hepatopenaei
(EHP), a microsporidian parasite infecting
penaeid shrimp. J Invertebr Pathol 130: 37–41.
Tangprasittipap, A., Srisala, J., Chouwdee, S.,
Somboon, M., Chuchird, N., Limsuwan, C.,
Srisuvan, T., Flegel, T.W., and Sritunyalucksana,
K., 2013. The Microsporidian Enterocytozoon
Hepatopenaei Is Not the Cause of White

86

Feces Syndrome in Whiteleg Shrimp Penaeus
(Litopenaeus) vannamei.
BMC veterinary
research 9(1): 139.
Tendencia, E.A., Verreth, J.A.J., 2011. Temperature
fluctuation,low salinity, watermicroflora: risk
factors for WSSV outbreaksin Penaeus monodon.
Isr J Aquacult-Bamid 63: 1−7.
Tourtip, S., Wongtripop, S., Stentiford, G.D.,
Bateman, K.S., Sriurairatana, S., Chavadej, J.,
Sritunyalucksana, K., Withyachumnarnkul, B,
2009. Enterocytozoon hepatopenaei sp. Nov
(Microsporida: Enterocytozoonidae), a parasite

of the black tiger shrimp Penaeus monodon
(Decapoda: Penaeidae): Fine structure and
phylogenetic relationships. J Invertebr Pathol
102(1): 21-29.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

THE PRESENCE OF WHITE SPOT SYNDROME VIRUS, Vibrio
parahaemolyticus AND Enterocytozoon hepatopenaei IN
POSTPARVAE AND MARINE SHRIMP CULTURED IN MEKONG DELTA
Le Hong Phuoc1*, Nguyen Hong Loc1
ABSTRACT
This study was conducted with 600 postlarvae samples collected at Ninh Thuận, Binh Thuan, Vung
Tau, Bac Lieu provinces and 120 farmed shrimp sample collected at Bac Lieu, Soc Trang, Ben Tre,
Tra Vinh and Ca Mau. The samples were collected from Janary to October of 2020 and tested for
some dangerous pathogenic agents including WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP via PCR
method. The prevalence of postlarvae samples positive with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and
EHP were 2.0%, 3.6% and 4.8%, respectively in dry season while. In rainy season the postlarvae
were infected with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP with the prevalence of 1.4%, 2.6%
and 7.2%, respectively. The percentage of farmed shrimp samples positive with WSSV, Vibrio
parahaemolyticus and EHP in dry season were 13.5%, 21.2% and 23,1%, respectively. In rainy
season, farmed shrimp were infected with these pathogens wth the prevalence of 17.7; 11.8 and
25.0% respectively. The percentage of postlarve samples positive with Vibrio parahaemolyticus in
2020 is 3.0%. It is lower than that of 2019 (4.0%). The percentage of postlarve samples positive
with WSSV in 2020 is also lower than in 2019. It was 1.67% in 2020 and 1.88% in 2019. EHP
infection in postlarvae was also lower than that of 2019 (6.5% in 2020 compare to 7.88% in 2019).
Keywords: WSSV, Vibrio parahaemolyticus, EHP, shrimp


Người phản biện: TS. Ngô Huỳnh Phương Thảo

Người phản biện: PGS. TS. Từ Thanh Dung

Ngày nhận bài: 10/11/2020

Ngày nhận bài: 10/11/2020

Ngày thông qua phản biện: 12/12/2020

Ngày thông qua phản biện: 15/12/2020

Ngày duyệt đăng: 25/12/2020

Ngày duyệt đăng: 25/12/2020

Research Institute for Aquaculture No.2
*Email:
1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 18 - THÁNG 12/2020

87



×