Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Một số mô hình hoạt động đoàn, hội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở trường đại học vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.12 KB, 80 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Trường Đại học Vinh
--------------------------

NGUYỄN QUỐC DŨNG

Một số mơ hình Hoạt động Đồn, Hội
trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ
ở Trƣờng Đại học Vinh

Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục

Vinh, năm 2007

1


Bộ giáo dục và đào tạo

Trường Đại học Vinh
--------------------------

NGUYỄN QUỐC DŨNG

Một số mơ hình Hoạt động Đồn, Hội
trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ
ở Trƣờng Đại học Vinh

Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục
Mã số: 60 14 05


Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Xuân Khoa

Vinh, năm 2007

2


MỤC LỤC

Trang
Đặt vấn đề

1

Chƣơng I: Cơ sở lý luận của đề tài

4

1.1. Các khái niệm cơ bản

4

1.2. Một số chủ trương, chính sách cơ bản về hoạt động Đồn, Hội
trong trường đại học

7

1.3. Giới thiệu về đào tạo theo hệ thống tín chỉ


16

Chƣơng II: Thực trạng cơng tác Đồn, Hội ở Trƣờng Đại học
Vinh trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ

24

2.1. Lịch sử phong trào Đồn, Hội Trường Đại học Vinh

24

2.2. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ với cơng tác Đồn, Hội

56

2.3. Một số mơ hình hoạt động Đoàn, Hội ở các trường đại học đã áp
dụng đào tạo theo học chế tín chỉ

59

Chƣơng III: Một số mơ hình hoạt động Đồn, Hội trong đào tạo
theo hệ thống tín chỉ ở Trƣờng Đại học Vinh

62

3.1. Các cơ sở để đưa ra mơ hình và giải pháp

63


3.2. Các mơ hình, giải pháp cụ thể

63

3.3. Một số mơ hình và giải pháp cơng tác Đồn, Hội Trường Đại học
Vinh khi chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ.
Kết luận

70

Tài liệu tham khảo

71

3


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Đào tạo theo học chế tín chỉ là một trong bảy bước đi quan trọng trong
lộ trình đổi mới giáo dục đại học giai đoạn 2006 - 2020 (Nghị quyết số
14/2005/NQ-CP, ngày 02/11/2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và tồn
diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020). Bộ trưởng Bộ Giáo
dục & Đào tạo đã có Quyết định số 31/2001/QĐ-BGD&ĐT, ngày 30/7/2001
về việc thí điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp đại
học, cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ. Theo đó, các trường đại học
phải tập trung triển khai đào tạo học chế tín chỉ và phải hoàn thành vào năm
2010. Thực hiện Quyết định của Bộ Giáo dục & Đào tạo, Đảng uỷ Trường
Đại học Vinh đã có Nghị quyết số 234-NQ/ĐU, ngày 23/5/2006 về đào tạo
theo học chế tín chỉ. Theo đó, Trường Đại học Vinh sẽ triển khai đào tạo

theo học chế tín chỉ từ khoá tuyển sinh năm 2007.
Từ khi thành lập (năm 1959) đến nay, Trường Đại học Vinh cũng như
tất cả các trường đại học khác đều triển khai hình thức đào tạo "truyền
thống" niên chế học phần. Việc chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ là
một tất yếu để giáo dục đại học Việt Nam bắt nhịp được với giáo dục đại học
thế giới khi đất nước ta đang tiến nhanh trên con đường hội nhập. Tuy nhiên,
khi chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, sẽ có hàng loạt vấn đề nảy sinh,
trong đó có việc tổ chức các hoạt động Đoàn, Hội trong nhà trường. Các vấn
đề cụ thể như: sẽ khơng cịn tổ chức lớp theo năm học, khóa học mà chỉ có
lớp học phần; sự cố kết của sinh viên thông qua các lớp học phần, mỗi sinh
viên có cơ hội tham gia nhiều nhóm khác nhau; khơng có thời khóa biểu cố
định cho cả khóa học mà chỉ có lịch trình học tập cho các học phần; sinh viên
phải chủ động cao trong việc lựa chọn học phần phù hợp; tự xây dựng cho

4


mình chiến lược và lịch trình học tập. Các khái niệm truyền thống như lớp
sinh viên, năm học thứ nhất, thứ hai, khoá học này, khoá học kia... sẽ trở nên
mờ nhạt. Sự cá thể hố cao độ q trình học tập sẽ dẫn đến những khó khăn
trong tổ chức các hoạt động tập thể và các phong trào chung. Ý thức tập thể,
ý thức cộng đồng sẽ giảm sút đáng kể. Do đó, hoạt động Đồn, Hội cũng
phải có những thay đổi để đáp ứng tình hình mới, làm sao vừa quản lý được
đoàn viên, hội viên, vừa linh động, hiệu quả trong việc triển khai các hoạt
động chung.
Từ trước đến nay, chưa có cơng trình nghiên cứu khoa học nào nghiên
cứu về vấn đề tổ chức hoạt động Đồn, Hội khi chuyển sang đào tạo theo học
chế tín chỉ. Vì vậy, chúng tơi lựa chọn đề tài "Một số mơ hình hoạt động
Đồn, Hội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở Trường Đại học Vinh"
làm luận văn tốt nghiệp cao học thạc sỹ chuyên ngành quản lý giáo dục.

Mục đích của đề tài là tìm ra các mơ hình hoạt động Đồn, Hội phù
hợp và áp dụng cho hoạt động của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên của Nhà
trường trong thời gian tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đưa ra được những mơ hình hoạt động Đồn, Hội của Trường Đại học
Vinh khi chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Vai trị của cơng tác Đồn, Hội trong hoạt động của các trường đại
học.
3.2. Tìm hiểu hoạt động Đồn, Hội của Trường Đại học Vinh.
3.3. Tìm hiểu những vấn đề của đào tạo theo học chế tín chỉ có liên
quan đến người học và hoạt động Đồn, Hội.
3.4. Tìm hiểu các mơ hình hoạt động Đồn, Hội của các trường đại
học đã áp dụng mơ hình đào tạo theo học chế tín chỉ.

5


3.5. Xây dựng mơ hình hoạt động Đồn, Hội của Trường Đại học Vinh
khi chuyển sang mơ hình đào tạo theo học chế tín chỉ.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Các văn bản, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của
ngành Giáo dục & Đào tạo, của Trung ương Đoàn, Trung ương Hội, Tỉnh
Đoàn, Hội Sinh viên tỉnh Nghệ An, các trường đại học đã áp dụng mơ hình
đào tạo theo học chế tín chỉ.
4.2. Thực tiễn hoạt động Đồn, Hội tại Trường Đại học Vinh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Thu thập và xử lý tài liệu.
- Phỏng vấn.
- Toạ đàm, thảo luận, seminar.

6. Đóng góp của đề tài
Việc xây dựng được mơ hình hoạt động Đồn, Hội trong đào tạo theo
hệ thống tín chỉ ở Trường Đại học Vinh sẽ có tác dụng tích cực, có hiệu quả
trong việc thực hiện nhiệm vụ của Đoàn và Hội trong thời gian tới, góp phần
vào sự nghiệp xây dựng và phát triển Nhà trường.

6


CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm cơ bản
Mơ hình: "Là vật thu nhỏ một vật khác đã có trong thực tế hoặc làm
mẫu để tạo ra cái mới trong thực tế" [20].
Giải pháp: "Là phương pháp giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó"
[20].
Hoạt động Đoàn, Hội: Theo thuật ngữ đặc thù, hoạt động Đồn được
viết là "Cơng tác Đồn và phong trào thanh niên", hoạt động Hội được viết là
"Công tác Hội và phong trào sinh viên". Bao gồm những công tác, những
hoạt động, những phong trào của tổ chức Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên
dành cho đối tượng đoàn viên, thanh niên và hội viên, sinh viên.
- Cơng tác Đồn và phong trào thanh niên của tổ chức Đoàn Thanh
niên được quy định rõ trong Điều lệ Đoàn:
+ Điều 16: Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đoàn
1. Đại diện, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của cán bộ, đoàn
viên, thanh thiếu nhi.
2. Tổ chức các hoạt động, tạo mơi trường giáo dục, rèn luyện đồn
viên, thanh thiếu nhi nhằm góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, văn hóa - xã hội, quốc phịng, an ninh của địa phương, đơn vị.
3. Phối hợp với chính quyền, các đoàn thể và các tổ chức kinh tế, xã

hội làm tốt công tác thanh niên, chăm lo xây dựng Đồn, tích cực xây dựng
cơ sở Đồn, Hội, Đội ở địa bàn dân cư, tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng và
chính quyền.
+ Điều 17: Quyền hạn của tổ chức cơ sở Đoàn

7


1. Kết nạp đoàn viên mới, quản lý đoàn viên, tiếp nhận, chuyển sinh
hoạt Đoàn; giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng bồi dưỡng, kết nạp; giới
thiệu cán bộ, đoàn viên vào quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ của Đảng,
Nhà nước, các đoàn thể và tổ chức kinh tế, xã hội.
2. Tổ chức các hoạt động, các phong trào, nhằm đoàn kết, tập hợp
thanh niên, đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng, hợp pháp của tuổi trẻ; liên
kết, phối hợp với các ngành, các đoàn thể, các tổ chức kinh tế - xã hội tạo
sức mạnh đồng bộ trong công tác thanh niên.
3. Tổ chức các hoạt động tạo thêm việc làm và thu nhập cho cán bộ
đồn viên, thanh niên, tạo nguồn kinh phí cho hoạt động của Đoàn; được sử
dụng con dấu hợp pháp [4].
- Công tác Hội và phong trào sinh viên của tổ chức Hội Sinh viên
được quy định rõ trong Điều lệ Hội:
Điều 1: Mục đích tổ chức và hoạt động của Hội
Hội Sinh viên Việt Nam đoàn kết, tập hợp rộng rãi mọi sinh viên Việt
Nam cùng phấn đấu học tập, rèn luyện vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng nước Việt Nam
hồ bình, độc lập, giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, vì quyền lợi hợp pháp, chính đáng của sinh viên; đồn kết
và hợp tác bình đẳng với các tổ chức sinh viên, thanh niên tiến bộ và nhân
dân các nước trên thế giới vì mục tiêu hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.

Hội Sinh viên Việt Nam hoạt động trong phạm vi cả nước, được phép
hoạt động ở nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật
của nước sở tại.
Điều 2: Nhiệm vụ của Hội Sinh viên Việt Nam

8


1. Đồn kết, khuyến khích, giúp đỡ hội viên, sinh viên trong học tập
và rèn luyện, hoàn thành nhiệm vụ của người sinh viên, góp phần xây dựng
nhà trường vững mạnh.
2. Giáo dục lý tưởng, truyền thống đạo đức, lối sống và ý thức pháp
luật cho hội viên, sinh viên.
3. Phản ánh nhu cầu, nguyện vọng của sinh viên; tham gia đề xuất các
chủ trương, chính sách liên quan đến sinh viên. Tổ chức các hoạt động thiết
thực chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp,
chính đáng của hội viên, sinh viên và tổ chức Hội.
4. Đoàn kết, phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các tổ chức sinh
viên, thanh niên tiến bộ và nhân dân các nước trên thế giới vì hồ bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội [5].
Về mối quan hệ giữ tổ chức Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
và Hội Sinh viên Việt Nam, Điều lệ Đoàn quy định rõ:
Điều 32: Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh giữ vai trị nịng cốt
chính trị trong việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Thanh
niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam và các thành viên khác của Hội.
Điều 33: Ban chấp hành Đoàn các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện để
Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam và các thành
viên khác của Hội thực hiện đúng mục đích, tơn chỉ theo Điều lệ Hội [4].
Đoàn viên: Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Đại hội
Đại biểu Đồn tồn quốc lần thứ VIII thơng qua ngày 8/12/2002) quy định:

"Đồn viên Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thanh niên Việt
Nam tiên tiến, phấn đấu vì lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh; có tinh thần u nước, tự cường dân tộc, có lối sống lành
mạnh, cần kiệm, trung thực; gương mẫu trong học tập, lao động, hoạt động

9


xã hội và bảo vệ Tổ quốc, gắn bó mật thiết với thanh niên; chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật của Nhà nước, qui ước của cộng đồng và Điều lệ Đoàn". [4]
Hội viên: Điều lệ Hội Sinh viên Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc
Hội Sinh viên Việt Nam lần thứ VII thông qua ngày 31/12/2003) quy định:
"Sinh viên là công dân Việt Nam đang học bậc đại học, cao đẳng ở trong và
ngoài nước tán thành điều lệ Hội, tự nguyện gia nhập Hội thì được kết nạp
vào Hội Sinh viên Việt Nam" [5].
1.2. Một số chủ trƣơng, chính sách cơ bản về hoạt động Đồn, Hội
trong trƣờng đại học
Hiện nay, nước ta có hơn 1,3 triệu sinh viên đang theo học tại các
trường đại học, cao đẳng. Đây là đội ngũ thanh niên ưu tú, có kiến thức, có
tri thức và là nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội trong tương lai, phần
lớn đang sinh hoạt tại các tổ chức Đoàn, Hội. Trong những năm qua, cơng
tác Đồn, Hội và phong trào thanh niên, sinh viên trong các trường đại học,
cao đẳng đã có những chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả tốt,
góp phần đáng kể vào việc thực hiện nhiệm vụ của các nhà trường cũng như
cơng tác Đồn, Hội và phong trào thanh niên, sinh viên tại các địa phương và
của cả nước. Có được những kết quả này, ngồi sự nỗ lực vươn lên bằng nội
lực của chính bản thân mình, các tổ chức Đồn, Hội trong trường đại học,
cao đẳng cịn được thụ hưởng các chủ trương, chính sách cũng như việc triển
khai tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của
Bộ Giáo dục & Đào tạo, của Đoàn - Hội các cấp.

1.2.1. Quan điểm của Đảng về cơng tác thanh niên
Nói tới quan điểm là nói tới nhận thức khái quát thành lý luận mang tầm
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Quan điểm là kết quả quá
trình nhận thức và chỉ đạo hành động thực tiễn. Chính vì vậy quan điểm được

10


hình thành và bổ sung hồn thiện trong q trình đấu tranh cách mạng lâu dài
của Đảng.
Hơn 77 năm hoạt động, đấu tranh cách mạng của Đảng, Đảng vừa phát
triển, cụ thể hóa những quan điểm về cách mạng dân chủ, về cách mạng xã
hội chủ nghĩa nước ta, vừa hồn thiện từng bước lý luận về cơng tác thanh
niên. Theo thời gian, Đảng ta đã xây dựng được hệ thống quan điểm về công
tác thanh niên thông qua nội dung các kỳ Đại hội toàn quốc và các Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương.
Sau khi tổ chức Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày
3/2/1930), chỉ một thời gian ngắn sau, trong Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp
hành Trung ương Đảng (từ ngày 20 đến ngày 26/3/1931), Hội nghị đã chỉ rõ:
"Tổ chức ra Cộng sản Thanh niên Đoàn là một nhiệm vụ thâu phục một bộ
phận quan trọng của vô sản giai cấp là một vấn đề cần kíp mà Đảng phải giải
quyết" [18]. Từ đây, Hội nghị đã xác định một trong những "nhiệm vụ cần
kíp" của tổ chức Đảng là phải tổ chức ra Cộng sản Thanh niên Đoàn. Và
trong ngày làm việc cuối cùng của Hội nghị (ngày 26/3/1931), Ban chấp
hành Trung ương Đảng đã quyết định thành lập ra Cộng sản Thanh niên
Đoàn - tổ chức đầu tiên của thanh niên Việt Nam, dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Đảng.
Tại Hội nghị lần 3, Hội nghị Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản
Đông Dương và đại diện các tổ chức Đảng ở trong nước (từ ngày 16 đến
ngày 21/6/1934), Hội nghị đã thơng qua Nghị quyết Chính trị chỉ rõ những

nhiệm vụ của Đảng, trong đó có "Cơng tác Thanh niên Cộng sản Đoàn". Đại
hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương (từ ngày 27 đến ngày
31/3/1935) đã thông qua Điều lệ của Thanh niên Cộng sản Đồn Đơng
Dương. Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IV Đảng Cộng sản Việt Nam (từ
ngày 14 đến ngày 20/12/1976), trong văn kiện Đại hội Đảng, phần "Tăng

11


cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trị các đồn thể, làm tốt
cơng tác quần chúng" có nêu rõ nhiệm vụ phải "Củng cố và phát triển Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh".
Đến Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI (từ
ngày 12 đến ngày 27/3/1990), Hội nghị đã thảo luận và ra Nghị quyết Đổi
mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân. Hội nghị nêu rõ: Các đoàn thể quần chúng bị quan liêu hố, hành
chính hố, khơng đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp tập hợp các
tầng lớp nhân dân, khơng ít tổ chức cơ sở hoạt động thất thường hoặc khơng
hoạt động, nhiều đồn viên, hội viên khơng tha thiết gắn bó với đồn thể của
mình [18]. Hội nghị đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể để đổi mới cơng tác quần
chúng của các đồn thể, Nhà nước và của Đảng. Trong đó có việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, của các tổ chức đoàn thể và tổ chức
quần chúng. Các đoàn thể và các tổ chức quần chúng bao gồm: Tổng liên
đồn Lao động Việt Nam, Hội Nơng dân Việt Nam, Đồn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, các hội nghề nghiệp...
Đảng cần hướng dẫn sự đổi mới nội dung hoạt động của các đoàn thể và tổ
chức quần chúng vào việc đoàn kết đồn viên, hội viên cùng nhau chăm lo
lợi ích thiết thực của mình và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước,
xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Các đoàn thể đổi mới xây dựng
tổ chức theo hướng coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, tích cực

xây dựng cơ sở vững mạnh, thu hẹp diện yếu kém. Đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng, giữ vững mối liên hệ mật
thiết giữa Đảng và nhân dân là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc đổi
mới và toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Hội nghị cho rằng, cần phải tăng
cường sự lãnh đạo đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh [18].

12


Đến Hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (từ
ngày 04 đến ngày 14/01/1993), Hội nghị đã thảo luận và ra nhiều Nghị
quyết, trong đó có Nghị quyết về cơng tác thanh niên trong tình hình mới.
Nghị quyết nêu rõ: Vì tầm quan trọng của thanh niên và công tác thanh niên
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cho nên vấn đề thanh niên phải
đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con
người. Phải nâng cao công tác đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng, tạo điều kiện
cho thanh niên phấn đấu. Phát huy lực lượng và tiềm năng của thế hệ trẻ,
trước mắt giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu về học tập, lao động, văn
hoá, du lịch, thể dục, thể thao và xây dựng hạnh phúc gia đình. Xây dựng tổ
chức Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh thực sự là đội dự
bị của Đảng. Hội nghị nhấn mạnh: Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
vừa là điều kiện phát triển, vừa là nhiệm vụ của chính thanh niên [18].
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng định: "Các cấp ủy
và tổ chức Đảng cần tăng cường lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh nâng cao chất lượng đồn viên và cán bộ Đồn, phát huy vai trị Đồn
là nịng cốt trong phong trào thanh niên, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của
Đảng".
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VIII (tháng
6/1996) nêu rõ: "Đối với thanh niên, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở mọi cấp, mọi ngành. Coi

trọng hơn nữa việc giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ về chính trị, tư tưởng, văn
hóa, nghề nghiệp, đạo đức, lối sống. Quan tâm đào tạo nghề và giải quyết
việc làm, đáp ứng nhu cầu học tập, lao động sáng tạo, hoạt động văn hóa,
nghệ thuật, thể thao và giải trí lành mạnh cho thanh, thiếu niên. Tạo điều
kiện cho Đoàn Thanh niên thực hiện tốt trách nhiệm đối với Đội Thiếu niên
Tiền phong Hồ Chí Minh. Tạo môi trường xã hội lành mạnh, ngăn ngừa các

13


tệ nạn xã hội và văn hóa phẩm độc hại. Chăm lo giáo dục, đào luyện thế hệ
trẻ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị,
của gia đình, nhà trường và của tồn xã hội. Nghiên cứu ban hành Luật thanh
niên". Phần bàn về cơng tác xây dựng Đảng, báo cáo chính trị tại Đại hội
VIII còn ghi rõ: "Chăm lo tạo nguồn cán bộ trong phong trào thực tiễn, và
ngay từ trong các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề, coi trọng bồi dưỡng
lý tưởng Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ".
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX (tháng 1/2001)
nêu rõ: "Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề
nghiệp; giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai
trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X (tháng 4/2006)
nêu rõ: "Đối với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý
tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển
thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khuyến khích thanh
niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm. Chú trọng bồi dưỡng
nguồn cán bộ, đào tạo thanh niên trong lực lượng vũ trang đảm bảo có nghề
khi hết thời hạn nghĩa vụ quân sự. Tạo cơ hội cho thanh niên có tài năng đi
học ở nước ngoài về phục vụ đất nước. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu

niên và nhi đồng vào các tổ chức do Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh làm nịng cốt và phụ trách".
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam
sáng lập và rèn luyện tổ chức Đoàn, đã căn dặn trong Di chúc thiêng liêng
của Người: "Đồn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng
hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm

14


lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa
kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan
trọng và rất cần thiết".
Các chủ trương, Nghị quyết Trung ương đã đánh giá một cách khách
quan tình hình cơng tác thanh niên và xác lập hệ thống quan điểm về cơng
tác thanh niên, mà các nội dung chính có thể khái quát như sau:
1. Thanh niên là lực lượng hùng hậu và xung kích trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành cơng hay khơng? Đất
nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay
khơng? Phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn
luyện thế hệ thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc,
là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
2. Đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng và tạo mọi điều kiện cho thanh niên
phấn đấu để hình thành một thế hệ con người mới, có lý tưởng cao đẹp, có ý
thức trách nhiệm đúng đắn, có tri thức, có sức khỏe và lao động giỏi, sống có
văn hóa và tình nghĩa, giàu lịng u nước và tinh thần quốc tế chân chính.
Cổ vũ thanh niên Việt Nam ni dưỡng hoài bão lớn, tự cường, sánh vai
cùng thanh niên các nước trên thế giới. Hình thành một lớp thanh niên nam,
nữ ưu tú, vững vàng về chính trị, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa tiêu

biểu cho thế hệ trẻ, trở thành những nhà lãnh đạo, quản lý, kinh doanh giỏi,
những chuyên gia xuất sắc trên mọi hoạt động xã hội, những trí thức uyên
bác chiếm lĩnh các đỉnh cao khoa học, những văn nghệ sĩ có tài năng, những
người lao động có tay nghề cao.
3. Phát huy lực lượng và tiềm năng của thế hệ trẻ, tạo mọi điều kiện để
cho thanh niên cống hiến sức trẻ của mình.

15


4. Xây dựng Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là đội dự bị của Đảng. Củng cố tổ
chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn, nhất là Đoàn cơ sở. Đào
tạo cán bộ Đoàn, nhất là cán bộ Đoàn cơ sở. Đoàn kết tập hợp rộng rãi các
tầng lớp thanh niên trong các tổ chức của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt
Nam do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nịng cốt. Chăm lo
xây dựng Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và các hình thức tập hợp
giáo dục nhi đồng.
5. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh là điều kiện phát triển của
thế hệ trẻ và cũng chính là nhiệm vụ của chính bản thân thanh niên. Mơi
trường xã hội tốt, lành mạnh, văn minh là điều kiện cho thanh niên vun đắp
lý tưởng, ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Vì vậy, cùng với quá trình chống những
mặt tiêu cực nảy sinh, phải gắn chặt với quá trình xây dựng một xã hội tốt
đẹp [6].
1.2.2. Luật Giáo dục
Luật Giáo dục năm 2005 được Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khố XI, kỳ họp thứ 7 thơng qua ngày 14 tháng 6 năm 2005
gồm 9 chương và 120 điều. Trong đó có những quy định về quyền lợi, nghĩa
vụ của người học, trách nhiệm của tổ chức đoàn thể trong nhà trường làm cơ
sở pháp lý để xây dựng các mơ hình hoạt động Đồn, Hội phù hợp, góp phần

thực hiện mục tiêu giáo dục.
Mục tiêu giáo dục của Giáo dục Việt Nam là: "... đào tạo con người
Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 2)" [7].

16


Mục tiêu của giáo dục đại học Việt Nam là: "... là đào tạo người học
có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và
năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức
khoẻ, đáp ứng u cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 39)" [7].
Đoàn thể, tổ chức xã hội trong nhà trường được Luật Giáo dục quy
định: "Đoàn thể, tổ chức xã hội trong nhà trường hoạt động theo quy định
của pháp luật và có trách nhiệm góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục theo
quy định của Luật này (Điều 57)" [7].
Điều 85 Luật Giáo dục quy định nhiệm vụ của người học là: "Thực
hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục của
nhà trường, cơ sở giáo dục khác. Tôn trọng nhà giáo, cán bộ và nhân viên
của nhà trường, cơ sở giáo dục khác; đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học
tập, rèn luyện; thực hiện nội quy, điều lệ nhà trường; chấp hành phát luật của
Nhà nước. Tham gia lao động và hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi
trường phù hợp với lứa tuổi, sức khoẻ và năng lực. Giữ gìn, bảo vệ tài sản
của nhà trường, cơ sở giáo dục khác. Góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy
truyền thống của nhà trường, cơ sở giáo dục khác" [7].
Điều 86 quy định quyền của người học: "Được nhà trường, cơ sở giáo
dục khác tơn trọng và đối xử bình đẳng, được cung cấp đầy đủ thông tin về
việc học tập, rèn luyện của mình. Được học trước tuổi, học vượt lớp, học rút

ngắn thời gian thực hiện chương trình, học ở tuổi cao hơn tuổi quy định, học
kéo dài thời gian, học lưu ban. Được cấp văn bằng, chứng chỉ sau khi tốt
nghiệp cấp học, trình độ đào tạo theo quy định. Được tham gia hoạt động của
các đoàn thể, tổ chức xã hội trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác theo quy
định của pháp luật. Được sử dụng trang thiết bị, phương tiện phục vụ các
hoạt động học tập, văn hoá, thể dục, thể thao của nhà trường, cơ sở giáo dục
khác. Được trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị

17


với nhà trường, cơ sở giáo dục khác các giải pháp góp phần xây dựng nhà
trường, bảo vệ quyền, lợi chính đáng của người học. Được hưởng chính sách
ưu tiên của Nhà nước trong tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước nếu tốt
nghiệp loại giỏi và có đạo đức tốt" [7].
1.2.3. Luật Thanh niên
Luật Thanh niên năm 2005 được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khố X, kỳ họp thứ nhất thơng qua ngày 29 tháng 11 năm
2005 gồm 6 chương và 36 điều. Đây là cơ sở pháp lý cơ bản để xây dựng
chính sách, triển khai các chủ trương, đường lối liên quan đến cơng tác thanh
niên. Theo Luật này, "Thanh niên có các quyền, nghĩa vụ của công dân theo
quy định của Hiến pháp, pháp luật..." (Điều 3); "Được học tập và bình đẳng
về cơ hội học tập...; tham gia xây dựng mơi trường văn hóa học đường; trung
thực trong học tập. Xung kích tham gia xây dựng xã hội học tập" (Điều 9);
"Chủ động tiếp cận thông tin thị trường lao động; lựa chọn việc làm và nơi
làm việc phù hợp với khả năng của bản thân và nhu cầu của xã hội. Rèn
luyện tác phong công nghiệp, năng lực quản lý, kinh doanh, tuân thủ kỷ luật
lao động; phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật; nâng cao trình độ nghề
nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học và cơng nghệ. Xung kích thực
hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn" (Điều

10); "...Tham gia xây dựng nền quốc phịng tồn dân, giữ gìn bí mật quốc
gia, xung kích đấu tranh chống mọi hành vi xâm hại đến an ninh quốc gia và
trật tự, an toàn xã hội" (Điều 11); "Được nghiên cứu khoa học và công nghệ,
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Tham gia các hoạt động
bảo vệ môi trường" (Điều 12); "Được tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ
thuật, vui chơi, giải trí lành mạnh. Thường xuyên rèn luyện đạo đức, tác
phong, hành vi ứng xử văn hóa; thực hiện nếp sống văn minh. Giữ gìn và

18


phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ di sản văn hóa; tích cực tham gia
xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng. Được bảo vệ, chăm sóc, hướng dẫn
nâng cao sức khỏe, kỹ năng sống lành mạnh, phòng ngừa bệnh tật, tham gia
các hoạt động thể dục, thể thao, rèn luyện thân thể" (Điều 13, 14). Thanh
niên không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn
giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp đều được tơn trọng và bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ.
Điều 4 của Luật này ghi rõ: "Thanh niên là tương lai của đất nước, là
lực lượng xã hội hùng hậu, có tiềm năng to lớn, xung kích trong cơng cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên là
trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội. Nhà nước có chính sách tạo
điều kiện cho thanh niên học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ,
bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân, ý chí vươn lên
phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có trách nhiệm góp phần tích cực
vào việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của thanh niên" [8].
1.2.4. Ngày 24 tháng 03 năm 2005, Thủ tƣớng Chính phủ đã có
Quyết định số: 61/2005/QĐ-TTg, ban hành chế độ chính sách đối với cán
bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam,

Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các trƣờng đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và trung học phổ thông. Quyết định
này quy định thời gian làm cơng tác Đồn, Hội theo định mức giờ chuẩn;
Phụ cấp cho cán bộ Đoàn, Hội trong trường học; Quy định về cán bộ chun
trách làm cơng tác Đồn đối với cán bộ Đồn, Hội là giảng viên, giáo viên,
cán bộ không trực tiếp giảng dạy; Quy định về chế độ chính sách đối với cán
bộ Đoàn, Hội là sinh viên, học sinh, trong các trường ngồi cơng lập [16].

19


1.2.5. Điều lệ Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh được Đại
hội đại biểu Đoàn toàn quốc lần thứ VIII thông qua ngày 08/01/2002, gồm
11 chương và 38 điều.
1.2.6. Điều lệ Hội Sinh viên Việt Nam được Đại hội đại biểu toàn
quốc Hội Sinh viên Việt Nam lần thứ VII thông qua ngày 31/12/2003, gồm 7
chương và 18 điều.
1.3. Giới thiệu về đào tạo theo hệ thống tín chỉ
1.3.1. Sơ nét lịch sử về học chế tín chỉ
Hiện nay, tuy “sinh sau đẻ muộn” so với Châu Âu, nhưng hệ thống
giáo dục đại học Hoa Kỳ phát triển mạnh và có sức hấp dẫn bậc nhất, được
hình thành dựa trên những nét độc đáo của nền kinh tế - xã hội. Ý tưởng về
một nền giáo dục đại học cho số đông người (đại chúng) nảy sinh đầu tiên
vào cuối thế kỷ XIX và trở thành hiện thực ở Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ XX.
Trong một nền giáo dục đại học cho số đông người như vậy phải đảm bảo cá
nhân hoá được việc học tập của từng sinh viên. Với mục tiêu đó, vào năm
1872, Charle Eliot - Viện trưởng Viện Đại học Harvard đã đề xuất một quy
trình đào tạo mới gọi là giải pháp mơ đun hố các mơn học (học chế tín chỉ)
được cung cấp trong trường đại học để sinh viên có thể lựa chọn một tổ hợp
mơn học thích hợp nhằm cấu thành một chương trình đào tạo để có thể nhận

được văn bằng tốt nghiệp.
Vào đầu thế kỷ XX, học chế tín chỉ được áp dụng rộng rãi hầu như
trong mọi trường đại học ở Hoa Kỳ. Tiếp đó, nó được lan toả ra nhiều nước
như: Canađa, Nhật Bản, Philippin, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia,
Inđơnêxia, Ấn Độ, Sênêgan, Mơzămbích, Nigêria, Uganđa, Camơrun... Tại
Trung Quốc, từ cuối thập niên 80 (thế kỷ XX) đến nay, hệ thống học chế tín
chỉ cũng lần lượt được áp dụng ở nhiều trường đại học. Ở Châu Âu, Tuyên
ngôn Boglona được đề xướng (năm 1999) đến nay đã được ký bởi Bộ trưởng

20


của 45 nền giáo dục đại học (mà một trong các nội dung quan trọng là triển
khai áp dụng học chế tín chỉ trong tồn hệ thống giáo dục đại học) nhằm tạo
thuận lợi cho việc cơ động, liên thông hoạt động học tập của sinh viên trong
khu vực Châu Âu và trên thế giới.
Trước 1975, một số trường đại học ở miền Nam đã áp dụng học chế
tín chỉ như: Viện Đại học Cần Thơ (nay là Đại học Cần Thơ), Viện đại học
Thủ Đức... Vào năm 1987, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương triển khai
trong các trường đại học quy trình đào tạo 2 giai đoạn và mơ đun hố kiến
thức. Theo đó, học chế học phần ra đời và chính thức được triển khai trong
tồn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng nước ta từ năm 1988 đến
nay. Học chế học phần có các đặc điểm cơ bản là tích luỹ dần kiến thức. Mơ
đun hố kiến thức thành các học phần một cách khá trọn vẹn và khơng q
lớn để có thể lắp ghép với nhau, tạo nên một chương trình đào tạo dẫn đến
một văn bằng mà người học có thể tích luỹ dần trong q trình học tập. Để
đo lường kiến thức theo khối lượng lao động học tập của người học, khái
niệm đơn vị học trình được đưa vào. Nhằm làm cho các chương trình đào tạo
mềm dẻo, có 3 loại học phần được quy định: học phần bắt buộc phải học, học
phần lựa chọn theo hướng dẫn của nhà trường và học phần tự chọn. Mỗi học

phần được đánh giá bằng một con điểm (tổng hợp của các đánh giá bộ phận
và một kỳ thi kết thúc). Kết quả học tập chung của học kỳ, năm học (hoặc
khố học) được đánh giá bằng điểm trung bình chung; đó là điểm trung bình
của các học phần đã tích luỹ [19].
Từ năm 1993, học chế tín chỉ đã được thực hiện ở Trường Đại học
Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó là các trường Đại học Khoa học
Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Xây dựng Hà Nội, Đại học Bách
khoa Đà Nẵng, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học

21


Thăng Long Hà Nội, Đại học Đà Lạt, Đại học Thủy sản Nha Trang, Đại học
Cần Thơ...
1.3.2. Đặc điểm của học chế tín chỉ
Tín chỉ là khối lượng học tập gồm 1 tiết học lý thuyết (50 phút) trong 1
tuần và kéo dài 1 học kỳ (15 - 18 tuần). Thơng thường, các tiết học loại khác
như: Thực tập thí nghiệm, đi thực địa, vẽ, nhạc, thực hành nghệ thuật, thể
dục..., cứ 3 tiết trong 1 tuần (kéo dài 1 học kỳ) được tính một tín chỉ. Ngồi
ra, cịn có quy định: Để chuẩn bị cho 1 tiết lên lớp, sinh viên phải bỏ ra ít
nhất 2 giờ làm việc ở ngoài lớp. Như vậy, lao động học tập của sinh viên có
một phần “nổi” tính theo tiết học ở lớp và một phần “chìm” là thời gian tự
học.
Để đạt bằng cử nhân, sinh viên thường phải tích lũy 120 - 136 tín chỉ
(Hoa Kỳ), 120 - 135 tín chỉ (Nhật Bản), 120 - 150 tín chỉ (Thái Lan)... Đối
với bằng thạc sỹ, học viên phải tích luỹ 30 - 36 tín chỉ (Hoa Kỳ), 30 tín chỉ
(Nhật Bản), 36 tín chỉ (Thái Lan)... Theo quy ước của hệ thống tín chỉ Châu
Âu, khối lượng lao động học tập của một sinh viên chính quy trung bình
được tính bằng 60 tín chỉ /1 năm học. Khi tổ chức giảng dạy theo tín chỉ, đầu
mỗi học kỳ, sinh viên được đăng ký các mơn học thích hợp với năng lực và

hồn cảnh của họ, đồng thời phù hợp với quy định chung nhằm đạt được
kiến thức theo một ngành đào tạo nào đó. Sự lựa chọn các mơn học rất rộng
rãi, sinh viên có thể ghi tên học các mơn liên ngành nếu họ thích. Sinh viên
khơng chỉ giới hạn học các mơn chun mơn của mình mà cịn cần học các
mơn học khác lĩnh vực. Ví dụ: sinh viên ngành khoa học tự nhiên và kỹ thuật
vẫn cần phải học một số môn khoa học xã hội, nhân văn và ngược lại. Về kết
quả học tập đại học, hệ thống tín chỉ dùng cách đánh giá thường xuyên và
đối với các chương trình đào tạo sau đại học cịn có thêm các kỳ thi tổng hợp
và các luận văn.

22


1.3.3. Các ƣu điểm của học chế tín chỉ
Học chế tín chỉ được truyền bá nhanh chóng và áp dụng rộng rãi nhờ
có nhiều ưu điểm sau:
+ Có hiệu quả đào tạo cao: Học chế tín chỉ cho phép ghi nhận kịp thời
tiến trình tích luỹ kiến thức và kỹ năng của sinh viên để nhận được văn bằng.
Sinh viên được chủ động thiết kế kế hoạch học tập cho mình, được quyền lựa
chọn tiến độ học tập thích hợp với khả năng, sở trường và hồn cảnh riêng
của mình. Điều đó đảm bảo cho q trình đào tạo trong các trường đại học
trở nên mềm dẻo hơn, đồng thời cũng tạo khả năng cho việc thiết kế chương
trình liên thông giữa các cấp đào tạo đại học và giữa các ngành đào tạo khác
nhau. Học chế tín chỉ cho phép ghi nhận cả những kiến thức và khả năng tích
luỹ được ngồi trường lớp để dẫn tới văn bằng, khuyến khích sinh viên từ
nhiều nguồn gốc khác nhau có thể tham gia học một cách thuận lợi. Về
phương diện này, có thể nói, học chế tín chỉ là một trong những công cụ
quan trọng để chuyển từ nền đại học mang tính tinh hoa thành nền đại học
mang tính đại chúng.
+ Có tính mềm dẻo và khả năng thích ứng cao: Với học chế tín chỉ,

sinh viên có thể chủ động ghi tên học các học phần khác nhau dựa theo
những quy định chung về cơ cấu và khối lượng của từng lĩnh vực kiến thức.
Nó cho phép sinh viên dễ dàng thay đổi ngành chuyên môn trong tiến trình
học tập khi thấy cần thiết mà khơng phải học lại từ đầu. Cũng do vậy, với
học chế tín chỉ, các trường đại học có thể mở thêm ngành học mới một cách
dễ dàng khi nhận được tín hiệu về nhu cầu của thị trường lao động và tình
hình lựa chọn ngành nghề của sinh viên. Học chế tín chỉ cịn cung cấp cho
các trường một ngơn ngữ chung, tạo thuận lợi cho sinh viên khi cần chuyển
trường cả trong nước cũng như ngoài nước.

23


+ Đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo: Với học
chế tín chỉ, kết quả học tập của sinh viên được tính theo từng học phần chứ
khơng phải theo năm học, do đó, việc hỏng một học phần nào đó khơng cản
trở q trình học tiếp tục, sinh viên không bị buộc phải quay lại học từ đầu.
Chính vì vậy, giá thành đào tạo theo học chế tín chỉ thấp hơn so với đào tạo
theo niên chế.
Nếu triển khai học chế tín chỉ, các trường đại học lớn đa lĩnh vực có
thể tổ chức những môn học chung cho sinh viên nhiều trường, nhiều khoa,
tránh các mơn học trùng lặp ở nhiều nơi; ngồi ra, sinh viên có thể học
những mơn học lựa chọn ở các khoa khác nhau. Cách tổ chức trên cho phép
sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất và phương tiện tốt nhất cho từng
môn học. Kết hợp với học chế tín chỉ, nếu trường đại học tổ chức thêm
những kỳ thi đánh giá kiến thức và kỹ năng của người học tích luỹ được bên
ngồi nhà trường hoặc bằng con đường tự học để cấp cho họ một tín chỉ
tương đương, thì sẽ tạo thêm cơ hội cho họ đạt văn bằng đại học. Ở Hoa Kỳ,
trên 1.000 trường đại học chấp nhận cung cấp tín chỉ cho những kiến thức và
kỹ năng mà người học đã tích luỹ được ngoài nhà trường.

1.3.4. Nhƣợc điểm của học chế tín chỉ và cách khắc phục
+ Học chế tín chỉ cắt vụn kiến thức: Phần lớn các mô đun trong học
chế tín chỉ được quy định tương đối nhỏ, 3 hoặc 4 tín chỉ. Do vậy, sẽ khơng
đủ thời gian để trình bày kiến thức thực sự có đầu, đi theo một trình tự
diễn biến liên tục. Từ đó, gây cảm giác kiến thức bị cắt vụn. Người ta khắc
phục nhược điểm này bằng cách không thiết kế các mô đun quá nhỏ dưới 3
tín chỉ và trong những năm cuối, thường thiết kế các môn học /tổ chức các kỳ
thi có tính tổng hợp để sinh viên có cơ hội liên kết, tổng hợp các kiến thức đã
học.

24


+ Khó tạo nên sự gắn kết trong sinh viên: Vì các lớp học theo mơ đun
khơng ổn định nên khó xây dựng các tập thể gắn kết chặt chẽ như các lớp
theo khóa học, việc tổ chức sinh hoạt đồn thể của sinh viên cũng khó khăn
(có người nói: Học chế tín chỉ “khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, khơng coi
trọng tính cộng đồng”). Tuy nhiên, bằng cách xây dựng các tập thể tương đối
ổn định qua các lớp, khoá học trong năm thứ nhất (khi sinh viên học chung
phần lớn các mô đun kiến thức), sắp xếp một số buổi xác định khơng bố trí
thời khóa biểu để họ có thể cùng tham gia các sinh hoạt đồn thể chung... thì
sẽ khắc phục được nhược điểm này" [19].
1.3.5. Chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về đào tạo theo hệ thống
tín chỉ
- Luật Giáo dục năm 2005, "Điều 6, mục 4: Chương trình giáo dục
được tổ chức thực hiện theo năm học đối với giáo dục mầm non và giáo dục
phổ thơng; theo năm học hoặc theo hình thức tích luỹ tín chỉ đối với giáo dục
nghề nghiệp, giáo dục đại học" [7].
- Ngày 02/11/2005, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về
đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 2020. Nghị quyết đề ra 7 nhóm nhiệm vụ, với những giải pháp nhằm đổi mới

mạnh mẽ giáo dục đại học: Cơ cấu, hệ thống về mạng lưới cơ sở giáo dục đại
học, quy trình về nội dung, phương pháp đào tạo, xây dựng đội ngũ giảng
viên và cán bộ quản lý, hoạt động nghiên cứu và triển khai ứng dụng của các
cơ sở đào tạo đại học, cơ chế tài chính nhằm đa dạng hố nguồn lực và nâng
cao hiệu quả đầu tư của giáo dục đại học, đổi mới quản lý giáo dục đại học
theo hướng tăng quyền tự chủ, nâng cao trách nhiệm xã hội và thúc đẩy năng
lực cạnh tranh của các trường đại học, nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống
giáo dục đại học trong q trình hội nhập quốc tế... Trong đó, Nghị quyết có
nêu rõ: "Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ

25


×