Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Thảo luận 1 Lịch sử Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.07 KB, 18 trang )

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
NỘI DUNG
CHỦ TRƯƠNG LÃNH ĐẠO GIÀNH CHÍNH QUYỀN CỦA
ĐẢNG TỪ 1930 -1939:
1. Tình hình cục diện và Đảng lãnh đạo cao trào cách mạng
năm 1930 -1931:
- Năm 1929-1933, trong tình hình thế giới đang diễn ra cuộc
khủng hoảng trầm trọng, ảnh hưởng đến các nước tư bản và
các nước thuộc địa, ở Đơng Dương, Pháp tăng cường bóc bột
để bù đắp những tổn thất của khủng hoảng, Pháp ra sức tiến
hành các cuộc khủng bố trắng, tiến đến đàn áp cuộc khởi nghĩa
Yên Bái, dẫn đến mâu thuẫn của dân tộc Việt Nam với Pháp
ngày càng gay gắt.
- Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời với tư cách là một tổ chức thống nhất, cương lĩnh đúng đắn
và là lực lượng nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách
mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh kịch liệt.
- Tháng 10/1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội
nghị lần đầu tiên tại Hương Cảng (Trung Quốc) do đồng chí Trần
Phú điều hành. Hội nghị phân tích tình hình trước mắt ở Đơng
Dương, do khủng hoảng kinh tế và đế quốc Pháp tăng cường
bóc lột nên đời sống nhân dân ngày càng khổ cực, nên công
nông vùng dậy đấu tranh. Đảng Cộng sản đi sâu vào quần
chúng nhân dân và lãnh đạo họ đấu tranh. Trước tình hình cách
mạng bị khủng bố trắng, Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt
của Đảng là phải mở rộng phong trào rộng khắp Đông Dương
nhằm thu hút đông đảo quần chúng nhân dân. Trong đấu tranh
phải chống khuynh hướng bạo động, khởi nghĩa non, tuyên
truyền đường lối của Đảng thông qua việc treo cờ đỏ búa liềm,
diễn thuyết, rải truyền đơn,... bằng các biện pháp đó, tuyên


truyền giáo dục quần chúng tin theo Đảng và đấu tranh theo
đường lối của Đảng.
- Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, phong trào đấu
tranh của quần chúng trên đà phát triển từ năm 1929, đã bùng
lên mạnh mẽ khắp cả ba miền: Bắc, Trung, Nam. Đảng đã phát
động ngay được cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là
Xô-Viết Nghệ Tĩnh. Cao trào đã thu hút đông đảo quần chúng
công nông cả nước đấu tranh chống ách thống trị của bọn đế
I.


quốc, phong kiến. Dù bị tổn thất nặng nề nhưng phong trào đã
để lại ý nghĩa vô cùng to lớn.
- Thành quả lớn nhất của cao trào cách mạng 1930-1931,
mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế quốc và phong kiến
đã khơng thể nào xóa nổi là ở chỗ, nó là cuộc diễn tập thứ
nhất của Đảng ta và quần chúng cách mạng về khởi nghĩa
giành chính quyền, khẳng định năng lực lãnh đạo cách mạng
của Đảng, góp phần củng cố niềm tin của quần chúng nhân
dân vào Đảng.
 Đảng tích cực vận động, lơi kéo tầng lớp trung gian đứng về
phía cách mạng: Đảng tập hợp, tổ chức các lực lượng yêu
nước trong Mặt trận dân dộc thống nhất, trên cơ sở liên
minh công nông, tạo nên sức mạnh tồn dân, phân hóa và
cơ lập cao độ kẻ thù để tiến tới tiêu diệt chúng.

2. Củng cố hệ thống tổ chức Đảng và lãnh đạo quần

chúng đấu tranh (1932 – 1935):
a) Tình hình thế giới và chủ trương mới của Quốc tế

Cộng sản:
Để bù đắp tổn thất của khủng hoảng 1929-1933, các nước
như Đức, Ý, Tây Ban Nha chủ trương dùng bạo động để đàn áp
đấu tranh trong nước và chuẩn bị phát động chiến tranh thế
giới để chuẩn bị chia lại thị trường, chủ nghĩa phát xít xuất hiện
và tạm thời thắng thế ở một số nơi, đe dọa hịa bình và an ninh
quốc tế.
Tháng 7 năm 1935, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản diễn
ra ở Mátscơva. Đồn đại biểu Đảng Cộng sản Đơng Dương do
đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu đến tham dự. Đại hội đã xác
định kẻ thù trước mắt của công nhân và nhân dân lao động là
chủ nghĩa phát xít, nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh chống
phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hòa binh, bảo vệ
Liên Xơ. Các chính quốc và cả thuộc địa cần thành lập các mặt
trận nhằm thống nhất lực lượng, hàng ngũ để chống phát xít,
chống chiến tranh.
b) Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ nhất của Đảng

Cộng sản Đơng Dương:
Tháng 3 năm 1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng
họp ở Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội đánh dấu sự phục hồi hệ
thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng quần
chúng, đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ban Chấp hành
Trung ương, chuẩn bị điều kiện để Đảng bước vào thời kỳ đấu


tranh mới. Đại hội đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của
Đảng và phong trào cách mạng quần chúng, đặt dưới sự chỉ
đạo thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương, chuẩn bị điều
kiện để Đảng bước vào một giai đoạn đấu tranh mới.

Tuy Đại hội mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
hệ thống tổ chức của Đảng nhưng về mặt đanh giá và nhận
xét tình hình cách mạng thì Đại hội cịn có một số hạn chế.
Thứ nhất, chưa thấy hết được nguy cơ của chủ nghĩa phát xít.
Thứ hai, chưa thấy được tính khách quan của mối quan hệ giữa
các giai cấp trong tình hình Đơng Dương, do đó khơng có chủ
trương lập mặt trận đoàn kết rộng rãi. Thứ ba, Đại hội chưa
tổng kết kinh nghiệm vận động, lãnh đạo của Đảng từ khi
thành lập.
3. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng trong lãnh
đạo phong trào dân chủ, dân sinh giai đoạn 1936 -1939:
Tháng 7 năm 1936, Ban lãnh đạo của Đảng họp Hội nghị lần
thứ hai tại Thượng Hải (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của Lê Hồng
Phong và Hà Huy Tập. Hội nghị đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược, định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh
trong thời kỳ mới.
Mục tiêu chiến lược vẫn là chống phát xít,chiến tranh đế
quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân
chủ, cơm áo và hịa bình.
Về đồn kết quốc tế, đồn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân
và Đảng Cộng sản Pháp.
Về phương pháp tổ chức và đấu tranh: chủ trương chuyển
hình thức tổ chức bí mật khơng hợp pháp sang các hình thức tổ
chức và đấu tranh cơng khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa
hợp pháp, nhằm làm cho Đảng mở rộng quan hệ với quần chúng,
giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các
hình thức và khẩu hiệu thích hợp như hoạt động đấu tranh nghị
trường, hoạt động xuất bản giấy báo công khai như vấn đề dân
cày nhằm giới thiệu về chủ nghĩa Mác và chính sách mới của
Đảng, tố cáo tội ác của đế quốc, nêu cao vai trò của quần chúng

nhân dân.
Nghị quyết của Hội nghị đánh dấu một bước trưởng thành của
Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh, tinh thần độc
lập, sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào cách mạng mới trong
cả nước.


Tháng 10 năm 1936, Đảng đã thông qua văn kiện chung
quanh vấn đề chính sách mới (nhận thức lại mối quan hệ giữa 2
nhiệm vụ dân tộc và dân chủ).
Đồng thời, Hội nghị lần thứ ba (tháng 3/1937) và lần thứ tư
(tháng 9/1937) đã đi sâu hơn nữa về phương pháp tổ chức và
hoạt động để tập hợp được đông đảo quần chúng trong mặt trận
đấu tranh, phong trào dân chủ phát triển mạnh, ảnh hưởng của
Đảng lan rộng, tổ chức của Đảng và các hội quần chúng phát
triển, song cơng tác tổ chức của Đảng cịn nhiều thiếu sót. Cùng
với việc đề ra những chủ trương mới, một phong trào đấu tranh
việc gửi bản dân nguyện của nhân dân An Nam gửi cho 2 đoàn
đại biểu của Pháp (đầu năm 1937),
Tháng 3 năm 1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội
nghị toàn thể nhấn mạnh vấn đề lập mặt trận thống nhất dân chủ,
coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại,
thành lập mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương.
Tháng 7/1939, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác
phẩm Tự chỉ trích (tự phê bình để nâng cao năng lực cách mạng của
Đảng)
Cuộc vận động dân sinh, dân chủ của Cộng sản Đông Dương
trong những năm 1936 – 1939 thực sự là một cuộc đấu tranh cách
mạng sôi nổi, mang tính quần chúng rộng rãi. Là cuộc chuẩn bị và
xây dựng lực lượng của Đảng cho giai đoạn cách mạng 1939 – 1945,

với đội ngũ cán bộ đông đảo, dày dặn kinh nghiệm trong đấu tranh,
trưởng thành về tư tưởng chính trị. Đây thực sự là một sự chuẩn bị
cho thắng lợi cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC,
KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1939 – 1945):
1. Phong trào Giải phóng dân tộc từ tháng 9/1939 đến

tháng 3/1945:
- Tình hình thế giới: Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ 2
bùng nổ, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến phức tạp. Phát xít
Đức tấn cơng Pháp, đến tháng 6/1940, Chính phủ Pháp đầu hàng
phát xít Đức. Chính phủ Pháp thực hiện chính sách thù địch đối với
các lực lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc
địa trong đó có Đơng Dương. Ở Viễn Đơng, Nhật tiến sát biên giới
Việt-Trung
- Tình hình trong nước: Tháng 9/1940, Nhật vượt biên giới Việt
-Trung vào miền Bắc Việt Nam, Pháp nhanh chóng đầu hàng. Nhật


giữ nguyên chính quyền của Pháp, sử dụng bộ máy thống trị của
Pháp để vơ vét kinh tế phục vụ cho chiến tranh và đàn áp phong
trào cách mạng. Các tầng lớp, giai cấp (trừ tay sai) đều bị tác động
nghiêm trọng bởi chính sách bóc lột của Pháp – Nhật. Nhân dân Việt
Nam mâu thuẫn thực dân Pháp, phát xít Nhật gay gắt. Điều này địi
hỏi Đảng phải kịp thời đề ra đường lối đấu tranh phù hợp.
a) Hội nghị lần thứ sáu của Ban chấp hành Trung ương

Đảng (11/1939):
- Tháng 11 năm 1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội
nghị lần thứ sáu tại Bà Điểm (Hóc-mơn) do tổng bí thư Nguyễn Văn

Cừ chủ trì. Hội nghị nhận định: trong điều kiện lịch sử mới, giải
phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách
mạng Đông Dương. Hội nghị nhấn mạnh Đảng phải kiên quyết tập
trung mũi nhọn đấu tranh của quần chúng vào việc chống đế quốc
và tay sai.
Chủ trương: Tạm gác lại khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, tịch
thu ruộng đất của thực dân đế quốc và địa chủ, phản bội quyền lợi
dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Hội nghị đưa ra chủ trương thành lập
Mặt trận Phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông
Dương và chủ trương lập Chính quyền Liên bang cộng hịa dân chủ
Đơng Dương thay cho Chính quyền cơng – nơng – binh nhằm thống
nhất phạm vi rộng hơn, thu hút, tập hợp các lực lượng yêu nước.
Về phương pháp đấu tranh: Đảng chuyển từ đấu tranh đòi dân
sinh, dân chủ sang đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ
hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật.
Hội nghị đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng, đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đưa dân ta bước
vào thời kỳ trực tiếp vận động cứu nước.
b) Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(11/1940):


Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng diễn ra
từ ngày 6 đến 9/11/1941 tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) và
nhận định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là chuẩn bị lãnh đạo cuộc
“võ trang bạo động gìanh lấy quyền tự do độc lập”. Đồng thời, nhận
định rằng việc Pháp đầu hàng Nhật làm cho Đơng Dương rơi vào
cảnh “một cổ hai trịng”, vừa bị thực dân Pháp đàn áp, vừa bị phát
xít Nhật hành hạ. Kẻ thù mà nhân dân Đông Dương cần phải đánh
bại chính là thực dân Pháp và phát xít Nhật.



Hội nghị xác định rõ tính chất của cách mạng Đông Dương vẫn là
cách mạng tư sản dân quyền với hai tính chất phản đế và thổ địa,
cùng với đó là nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, diệt trừ phong kiến, làm
cho Đơng Dương hồn tồn độc lập, chia ruộng đất cho dân cày.
Trong thời gian này thì Việt Nam nổ ra 3 cuộc khởi nghĩa do nhân
dân địa phương tiến hành: khởi nghĩa Bắc Sơn (9/1940), khởi nghĩa
Nam Kỳ (11/1940), khởi nghĩa Đô Lương (9/1941). Các cuộc nổi dậy
đều thất bại vì điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, nhưng là bước
đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương.
c) Hội nghị lần thứ tám của Ban chấp hành trung ương Đảng

Cộng sản Đông Dương (5/1941):
Tháng 5 năm 1941, Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương diễn ra do Nguyễn Ái Quốc trực
tiếp lãnh đạo, triệu tập tại Pắc Pó (Cao Bằng). Nhiệm vụ chủ yếu
trước mắt: Đánh Đế quốc Pháp, phát xít Nhật nhằm giải phóng dân
tộc. Nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu cần được giải quyết cấp bách là
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp-Nhật.
Hội nghị cũng xác định những điều kiện chủ quan, khách quan và dự
đoán thời cơ tổng khởi nghĩa
Trung ương Đảng khẳng định: “Chưa chủ trương làm cách mạng
tư sản dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân
tộc”. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác
khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm thuế,
chia lại ruộng cơng, tiến tới người cày có ruộng tạo động lực, khiến
nơng dân có niềm tin vào cách mạng.
Phương pháp đấu tranh: Khởi nghĩa vũ trang, xem khởi nghĩa vũ
trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, tồn dân. Hình thái khởi

nghĩa vũ trang: đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa
Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh (Mặt trận Việt Minh – thành lập hội Cứu quốc), giúp đỡ việc lập
mặt trận riêng ở Lào, Campuchia. Tập hợp rộng rãi mọi lực lượng
dân tộc (thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ…).
Các tổ chức quần chúng trong mặt trận Việt Minh đều mang tên
“cứu quốc”.
Sự ra đời của Mặt trận Việt Minh góp phần giải quyết nhiệm vụ
cấp bách lúc bấy giờ - thực hiện nhiệm vụ đoàn kết dân tộc, xây
dựng một lực lượng chính trị hùng mạnh, đơng đảo. Giúp cho Tổng
khởi nghĩa diễn ra nhanh chóng, thành cơng, ít đổ máu (lực lượng
chính trị đơng đảo hơn lực lượng vũ trang, chiếm vai trò quyết


định).Có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của phong trào
cách mạng đi tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
 Ý nghĩa của Hội nghị lần thứ 8:

Hồn chỉnh chủ trương
chiến lược giải phóng dân tộc được đề ra tại Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11/1939.
Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng
đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đồng thời
khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị
10/1930.
 Là sự chuẩn bị về đường lối và phương pháp cách mạng
cho sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Chủ trương là sự
hồ quyện giữa trí tuệ tồn Đảng với tư tưởng Nguyễn Ái Quốc
với đường lối cách mạng dân tộc dân chủ VN. Góp phần bổ
sung, phát triển, làm phong phú thêm kho tàng lý luận MácLênin về cách mạng giải phóng dân tộc.

 Là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành
thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập
cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
III. CHỦ TRƯƠNG PHÁT ĐỘNG TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH
CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG:
1. Cao trào kháng Nhật cứu nước và khởi nghĩa từng

phần:
a) Phát động phong trào kháng Nhật cứu nước:
Vào cuối năm 1944, đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai
bước vào giai đoạn kết thúc. Mâu thuẫn giữa Nhật-Pháp ngày càng
gay gắt. Tối 9-3-1945, Nhật Bản tiến hành cuộc đảo chính lật đổ
Pháp trên tồn cõi Đơng Dương. Qn Pháp nhanh chóng đầu hàng
quân Nhật.
Ngay trong đêm 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp
khẩn Hội nghị mở rộng tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do Tổng bí
thư Trường Chinh chủ trì để phân tích tình hình và đề ra chủ trương
chiến lựợc mới. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra
Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Bản Chỉ thị nhận định tình hình: cuộc đảo chính đã tạo ra ở Đơng
Dương một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện
khởi nghĩa chưa thật sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ
hội tốt làm cho những điều kiện của cuộc Tổng khởi nghĩa Đơng
Dương chưa chín muồi đang đi tới chín muồi nhanh chóng. Ba cơ hội
tốt giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chóng chín muồi là:
chính trị khủng hoảng (qn thù khơng rảnh tay đối phó với cách


mạng), nạn đói ghê gớm (quần chúng ốn ghét qn cướp
nước),chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào

Đông Dương đánh Nhật.
Chỉ thị cũng xác định rõ kẻ thù: sau cuộc đảo chính là phát xít
Nhật . Do đó phải thay đổi khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật, Pháp" bằng
khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật", thực hiện khẩu hiệu "Thành lập
chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”.
Chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh
mẽ,làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên
truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích
hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa như tuyên truyền xung phong, biểu
tình tuần hành, bãi cơng chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật
để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng đội tự vệ cứu quốc...
Phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích,
giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa. Hình thức đấu tranh “có
thể bao gồm từ hình thức bất hơp tác, bãi cơng, bãi thị, phá phách
cho đến những hình thức cao hơn như biểu tình, thị uy, vũ trang du
kích… và sẵn sàng chuyển qua hình thức Tổng khởi nghĩa một khi đã
đủ điều kiện”.
 Chỉ thị quyết định phát động một cao trào kháng Nhật

cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa, đồng
thời sẵn sàng chuyển lên tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện.
Tư tưởng chủ động của Đảng trong chỉ thị là “phải hành động
ngay, hành động cương quyết, nhanh chống, sáng tạo, củ
động, táo bạo”. Bản chỉ thị ngày 12/3/1945 thể hiện sự lãnh
đạo kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào chống Nhật
cứu nước và có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
 Đảng tiền phong đề ra đường lối cách mạng đúng đắn,
sẵn sàng lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền,

vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin vào thực tiễn Việt
Nam, nắm bắt tình hình thế giới và trong nước để đề ra chủ
trương, biện pháp phù hợp
b) Khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận
Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, Cách mạng Việt Nam tiến lên Cao
trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong
phú về nội dung cũng như hình thức: đấu tranh chính trị kết hợp với
đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ, khởi nghĩa
từng phần, giành chính quyền từng bộ phận.


Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra
trong nhiều nơi ở vùng thượng du và trung du miền Bắc. Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực
lượng chính trị của quần chúng đồng loạt nổi dậy, giải phóng hàng
loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn,
Thái Nguyên, Tuyên Quang. Ở Quảng Ngãi , ngày 11 – 3 – 1945,
cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Ba Tơ. Những Đảng viên, cán bộ cách mạng
đang bị giam trong trại tập trung Ba Tơ, khi nghe tin Nhật đảo chính
Pháp, đã phá trại giam, lấy súng địch diệt địch, chiếm được đồn Ba
Tơ, thành lập đội du kích, xây dựng căn cứ cách mạng Ba Tơ. Đây là
cuộc khởi nghĩa từng phần đầu tiên giành được thắng lợi. Đây cũng
là đội du kích đầu tiên của miền Trung do Đảng tổ chức, lãnh đạo,
trở thành lực lượng nịng cốt trong cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền ở Quảng Ngãi, cũng như ở miền Trung Nam Kì.
Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức Ủy
ban giải phóng Việt Nam.
Ngày 4/6/1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm
hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái
Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ,

Yên Bái, Vĩnh Yên. Uỷ ban lâm thời khu giải phóng được thành lập.
Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển
mạnh mẽ ở cả nông thôn và thành thị thì nạn đói đã diễn ra nghiêm
trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ do Nhật và Pháp đã vơ vét
hàng triệu tấn lúa gạo của nhân dân. Hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết
đói. Xuất phát từ lợi ích sống cịn trước mắt của quần chúng, Đảng
kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”.
Khẩu hiệu đã “thổi bùng ngọn lửa căm thù trong đông đảo nhân
dân và phát động quần chúng vùng dậy với khí thế cách mạng hừng
hực tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền”, “một khẩu hiệu sát
đúng với tình hình cụ thể có sức dấy lên cả một phong trào”.
 Chủ trương đó của Đảng đã đáp ứng đúng nguyện vọng

cấp bách nhất của nhân dân ta, vì vậy trong một thời gian
ngắn, Đảng đã vận động được hàng triệu quần chúng tiến lên
trận tuyến cách mạng.
 Phong trào phá kho thóc, cứu đói dưới sự lãnh đạo của
Đảng là một trong những hình thức tập dợt quần chúng đấu
tranh từ thấp đến cao, kết hợp đấu tranh kinh tế, chính trị, vũ
trang, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
Ngày 15/5/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội
nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang) do Trường


Chinh chủ trì. Hội nghị chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang
thành Việt Nam giải phóng quân, phát triển lực lượng bán vũ trang
và xây dựng bảy chiến khu trong cả nước.
Tại các đô thị lớn: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Đà
Nẵng, Sài Gòn-Chợ Lớn, liên tục nổ ra nhiều cuộc mít tinh, biểu tình
chống Nhật, lôi cuốn hàng vạn người tham gia. Nhiều khẩu hiệu đấu

tranh xuất hiện: “Bất hợp tác với giặc Nhật”, “Khơng đi phu, đi lính
cho Nhật”, “Khơng đóng thuế cho Nhật”...
Trong các đô thị, nhất là những thành phố lớn, các đội danh dự
Việt Minh đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ
gian, tạo điều kiện phát triển các tổ chức cứu quốc trong các tầng
lớp nhân dân thành thị và xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc. Phong
trào đấu tranh ở thành thị thu hút đông đảo công nhân, các tầng lớp
nhân dân lao động, thanh niên, học sinh…tham gia.
Phong trào công nhân đấu tranh tiến lên hình thức cao hơn, như
phá hoại kế hoạch địch, chế tạo vũ khí, lấy súng, đạn của địch cung
cấp cho bộ đội du kích ở các chiến khu. Phong trào cách mạng ở
thành thị, chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa ở thành phố thắng
lợi.
 Để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ

trang, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị quân sự cách
mạng Bắc Kì. Hội nghị họp từ ngày 15 đến 20–4–1945 tại
huyện Hưng Hóa (Bắc Giang), do Trường Chinh, Tổng bí thư của
Đảng chủ trì. Tham dự Hội nghị có đại diện các chiến khu ở Việt
Bắc, xứ ủy Bắc Kì.
Cao trào kháng Nhật cứu nước khơng những động viên được đông
đảo quần chúng công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, học
sinh, viên chức… mà cịn lơi kéo cả tư sản dân tộc và một số địa chủ
nhỏ tham gia hoạt động cách mạng. Binh lính, cảnh sát của chính
quyền thân Nhật dao động, một số ngả theo cách mạng. Nhiều lý
trưởng, chánh, phó tổng, tri phủ, tri huyện và cả một số tỉnh trưởng
cũng tìm cách liên lạc với Việt Minh… Bộ máy chính quyền Nhật
nhiều nơi tê liệt.
 Qua cao trào kháng Nhật cứu nước, lực lượng chính trị,


lực lượng vũ trang được củng cố, phát triển vượt bậc; kẻ thù
hoang mang, suy yếu.
 Thực chất của cao trào kháng Nhật cứu nước là một cuộc
khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ, giành
chính quyền ở những nơi có điều kiện.


 Đây là một cuộc chiến đấu vĩ đại, làm cho trận địa cách

mạng được mở rộng, lực lượng cách mạng được tăng cường,
làm cho toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ động, tiền đề cho
Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám sau này.
c) Chủ trương của Đảng về phát động Tổng khởi nghĩa
Tháng 8 năm 1945:
 Tình hình thế giới (Điều kiện khách quan):
Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 95-1945 phát xít Đức đầu hàng không điều kiện, ở châu Á, phát xít
Nhật đang đi gần đến thất bại hồn tồn.
Ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản ngày 9-8 quân
đội Xơ viết mở màn chiến dịch tổng cơng kích đạo quân Quan Đông
của Nhật Bản ở Đông Bắc Trung Quốc
Trước tình thế đó, Hội đồng tối cao chiến tranh và Nội các Nhật
Bản họp, với sự tham gia của Nhật hồng, thơng qua quyết định đầu
hàng. Giữa 15-8-1945, Nhật hồng tun bố đầu hàng đồng minh
khơng điều kiện trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Điều kiện khách
quan thuận lợi cho cuộc tổng khởi nghĩa đã đến
 Tình hình trong nước (Điều kiện chủ quan): Chính phủ

Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Trực tiếp xuất hiện tình thế
cách mạng. Vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một
cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh mà Đảng và nhân

dân Việt Nam không thể chậm trễ, không chỉ để tranh thủ thời
cơ, mà còn phải khắc phục nguy cơ, đưa cách mạng đến thành
công.
Ngày 12/8/1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi
nghĩa trong khu.
Ngay từ ngày 13 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn
dân tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về
chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền. Hội
nghị nhận định: Cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền độc lập đã
tới và quyết định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa, giành chính
quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai, trước khi quân Đồng minh vào
Đông Dương.
Hội nghị chỉ rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: “Phản đối xâm
lược”; “Hồn tồn độc lập”; “Chính quyền nhân dân”. Những ngun
tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất kịp thời, phải đánh


chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nơng
thơn; qn sự và chính trị phải phối hợp;...
Về đối nội, sẽ lấy Mười chính sách lớn của Việt Minh làm chính
sách cơ bản của chính quyền cách mạng.
Về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn
bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp - Anh vả Mỹ - Tưởng,
tránh trường hợp một mình phải đối phó nhiều kẻ thù trong cùng
một lúc; phải tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân các
nước trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Trung Quốc.
Hội nghị quyết định của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường
Chinh phụ trách và kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương... Ngày
13/8/1945, Trung ương đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy

ban khởi nghĩa toàn quốc, gồm 5 người: Trường Chinh, Võ Nguyên
Giáp, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn. Tổng bí thư
Trường Chinh trực tiếp phụ trách Ủy ban. Ngay đêm 13/8/1945, Ủy
ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa.
Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội Quốc dân được
triệu tập ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa
của Đảng, thơng qua Mười chính sách của Việt Minh cử ra Ủy ban
Dân tộc giải phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước
đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: “Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem,
sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới
đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. chúng ta không thể
chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy
dũng cảm tiến lên”.
 Nghị quyết Hội nghị tồn quốc của Đảng có ý nghĩa lịch

sử quan trọng, thể hiện trí tuệ sáng suốt, sự nhạy bén chính trị,
tầm nhìn chiến lược và quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn
dân ta trước giờ phút quyết định vận mệnh của Tổ quốc. Nghị
quyết này của Đảng đã chuẩn bị cụ thể, trực tiếp cho thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự ra đời nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà.
 Diễn biến cuộc khởi nghĩa
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước nhất tề vùng dậy ở
cả thành thị và nông thôn, với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập.
Lệnh Tổng khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và lời kêu gọi



của Chủ tịch Hồ Chí Minh được chuyển đến các tổ chức Đảng và Việt
Minh, chiến sĩ và đồng bào.
Từ ngày 14/8/1945, các xã, huyện vùng nông thôn của hầu hết
các tỉnh ở châu thổ sông Hồng, các tỉnh ở Trung Kì đã lần lượt nổi
dậy giành chính quyền.
Ngày 18/8/1945, các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng
Nam khởi nghĩa thành công ở tỉnh lị sớm nhất trong cả nước.
Được biết Tổng hội viên chức sẽ tổ chức một cuộc mít tinh lớn
vào chiều ngày 17/8/1945 tại nhà hát lớn để ủng hộ chính phủ bù
nhìn, Đảng bộ và Ủy ban khởi nghĩa quyết định biến cuộc mít tinh đó
thành cuộc mít tinh của quần chúng ủng hộ cách mạng.
Sau đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình tuần hành của
quần chúng, diễn ra qua các đường phố chính của Hà Nội, quần
chúng biểu tình hơ vang khẩu hiệu “Đả đảo bù nhìn”, “Ủng hộ Việt
Minh”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”.
Sáng ngày 19/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội quyết định khởi
nghĩa giành chính quyền. Tối ngày 19/8/1945, cuộc khởi nghĩa ở Hà
Nội thắng lợi. Chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân. Thắng lợi của
cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân cả nước gấp
rút nổi dậy giành chính quyền như các tỉnh Thái Bình, Khánh Hịa,
Thái Ngun, n Bái, Bắc Ninh, Sơn Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa…
Cũng trong ngày 20/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh được thành lập
tại Huế.
Huế là nơi đóng đơ của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, là
trung tâm chính trị của đất nước. Vì vậy, Huế có vị trí rất quan trọng
trong cuộc Tổng khởi nghĩa của cả nước. Ngày 23/8/1945, nhân dân
Thừa Thiên - Huế nổi dậy giành chính quyền và gianh thắng lợi , kinh
đô Huế tràn ngập cờ đỏ sao vàng Tại đây, Ủy ban Việt Minh và Ủy
ban khởi nghĩa tỉnh tuyên bố xóa bỏ chính quyền bù nhìn, lập chính
quyền cách mạng.

Sài Gòn là một trong 3 địa bàn chiến lược quan trọng bậc nhất
của đất nước, là thủ phủ của Nam Kì thuộc Pháp, là nơi đặt đại bản
doanh của qn Nhật đóng trên tồn bộ Đơng Nam Á. Tại Sài Gòn,
Xứ uỷ Nam kỳ quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn. Rạng sáng ngày
25/8/1945, các đơn vị “Xung phong cơng đồn”, “Thanh niên tiền
phong”, cơng nhân, nơng dân tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một,
Mỹ Tho kéo về thành phố, các đường phố Sài Gòn tràn ngập biển cờ,
biểu ngữ, tiếng hô khẩu hiệu quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do
vang dội trong thành phố.


 Đại diện xứ ủy Nam Kì đọc lời kêu gọi nhân dân ủng hộ,

bảo vệ cách mạng. Đại diện tổng cơng đồn Nam Bộ đọc lời
hứa của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động, cùng tồn thể
nơng dân quyết giữ vững chính quyền cách mạng. Quần chúng
chiếm Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, nhà ga, bưu điện, nhà máy,...
Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gịn kết thúc bằng
một cuộc tuần hành khổng lồ chưa từng thấy.
Khởi nghĩa thắng lợi ở ba thành phố lớn (Hà Nội, Huế, Sài Gòn)
tác động mạnh đến các địa phương trong cả nước nhiều nơi. Đặc
biệt là thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Sài Gịn làm rung chuyển cả
vùng nơng thôn Nam Bộ, cổ vũ nhân dân Nam Bộ vùng lên. Từ rừng
núi, nông thôn đến thành thị nối tiếp nhau khởi nghĩa. ở các tỉnh:
Cần Thơ, Châu Đốc, Biên Hịa (26/8),Rạch Gía (27/8), Đồng Nai
Thượng, Hà Tiên (28/8).
Ở Cơn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo lãnh đạo các chiến sĩ cách
mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền, làm chủ toàn đảo.
Giữa tháng 9/1945, các chiến sĩ cách mạng được đưa về đất liền,
tăng cừơng cho các Đảng Bộ miền Nam.

Một số thị xã do lực lượng Trung Hoa Quốc dân Đảng và tay sai
chiếm giữ từ trước, như Hải Ninh (nay thuộc Quảng Ninh), Hà Giang,
Lào Cai, Lai Châu,Vĩnh Yên vẫn chưa được giải phóng (sau khi hiệp
định sơ bộ 6/3/1946 được kí kết, quân Trung Hoa Quốc dân Đảng mới
trao trả cho ta).
Như vậy, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền do Đảng ta
lãnh đạo đã giành thắng lợi trên cả nước trong vòng nửa tháng, từ
ngày 14 đến 28/8/1945. Hồi 16 giờ ngày 30/8, hàng vạn nhân dân
Huế tập trung ở Ngọ Môn chứng kiến một sự kiện lịch sử: Vua Bảo
Đại thoái vị. Chế độ phong kiến Việt Nam hoàn toàn sụp đổ.
 Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do đại hội quốc dân

họp ở Tân Trào cử ra cải tổ thành chính phủ lâm thời nước Việt
Nam dân chủ cộng hịa, nhằm đồn kết rộng rãi các tầng lớp
nhân dân, các Đảng phái yêu nước và nhân sĩ tiến bộ. nhiều ủy
viên thuộc mặt trận Việt Minh trong Chính phủ Lâm thời tự
nguyện nhường chỗ cho các nhân sĩ yêu nước ngoài Việt Minh.
Hồi 14 giờ ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội),
trước cuộc mít-tinh lớn của hàng vạn nông dân Hà Nội và các vùng
lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời tuyên bố
với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
thành lập.


IV. Ý NGHĨA VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 NÓI RIÊNG, PHONG TRÀO
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC NÓI CHUNG:
1. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám: Cách mạng
Tháng Tám là một sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám khơng chỉ có ý nghĩa

đối với dân tộc mà cịn có ý nghĩa quốc tế.


Đối với quốc tế:
Trong gần 5 năm đấu tranh chống phát xít Nhật chiếm đóng,
khi thời cơ đến, dân ta nổi dậy “lấy lại nước Việt Nam từ tay
Nhật”, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã
góp phần cùng nhân dân thế giới đánh bại chủ nghĩa phát xít,
mang lại hịa bình cho nhân loại. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám đã gián đòn mạnh mẽ vào chủ nghĩa thực dân cũ
trên toàn thế giới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi đầu tiên trong
thời đại mới của dân tộc nhược tiểu đã tự giải phóng khỏi ách
đế quốc thực dân. Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần
đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc trên
thế giới, đặc biệt là đối với hai nước bạn bè Miên và Lào. Đó là
thắng lợi đầu tiên của Đảng vơ sản ở nước thuộc địa đã giành
được chính quyền cách mạng trong cả nước.



Đối với dân tộc Việt Nam:
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, lần đầu tiên một nhà
nước mới đã được xây dựng ở nước ta – nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhân dân ta từ
thân phận nô lệ trở thành người chủ đất nước, chủ vận mệnh
dân tộc.
2. Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là tổng hợp của những yếu

tố khách quan và chủ quan:


Về khách quan:

Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai làm cho chủ nghĩa đế quốc suy
yếu. Đế quốc Pháp thống trị nước ta bị Đức chiếm đóng. Bọn thực
dân ở Đơng Dương bị Nhật đảo chính truất quyền cai trị Đơng
Dương. Khi Liên Xô tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc, những thắng
lợi của Hồng qn Liên Xơ tiêu diệt hồn tồn phát xít Đức đã cổ vũ
tinh thần nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.


Cuộc đấu tranh chống phát xít của đồng minh, của lực lượng dân
chủ, tiến bộ trên thế giới, của phong trào giải phóng dân tộc ở châu
Á, châu Phi và Mỹ Latinh, đặc biệt chiến thắng của Hồng quân Liên
Xô tiêu diệt đạo quân Quan Đông của Nhật buộc Nhật đầu hàng
đồng minh không điều kiện, tạo thời cơ khách quan thuận lợi cho
nhân dân ta nổi dậy giành chính quyền.


Về chủ quan:

Dân tộc ta có truyền thống yêu nước nồng nàn, đã trải qua hàng
ngàn năm đấu tranh giữ nước và dựng nước, đã tích lũy được nhiều
kinh nghiệm quý báu truyền từ đời này sang đời khác. Nhân dân ta
đã kế thừa và phát huy truyền thống quý báu đó. Đặc biệt, từ khi có
Đảng Cộng sản Đơng Dương lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, nhân dân ta đồn kết một lịng, khơng quản hy sinh, gian
khổ, đứng lên cứu nước, cứu nhà.

Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, ra sức và tích cực chuẩn bị lực lượng để đón thời cơ giành
thắng lợi chứ khơng khoanh tay chờ thời một cách bị động.
Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong 15 ngày, nhưng sự chuẩn bị
liên tục của Đảng trong suốt 15 năm: trải qua các cao trào cách
mạng 1930 – 1931, cao trào 1936 – 1939 đã tích lũy được nhiều bài
học kinh nghiệm cho Cách mạng Tháng Tám. Nhất là sự chuẩn bị chu
đáo, tồn diện của Đảng cho cách mạng giải phóng dân tộc từ năm
1939 đến năm 1945: Chuẩn bị về đường lối, xây dựng lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Sự chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo, chủ động của Đảng, của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, của các cấp bộ Đảng và Việt minh trong Tổng khởi
nghĩa: Xác định thời cơ phát động khởi nghĩa, sử dung hình thức đấu
tranh thích hợp, sử dung lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, kết
kợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp lực lượng
Trung ương với địa phương, chỉ đạo khởi nghĩa từng phần tiến tới
Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đã đến.
“Cách mạng Tháng Tám thành công căn bản là do lực lượng chính
trị của nhân dân đã kịp thời nắm lấy cơ hội thuận tiện nhất, khởi
nghĩa giành chính quyền Nhà nước. Nhưng nếu Đảng ta trước đó
khơng xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập những khu căn cứ
rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị và phong trào đấu
tranh chính trị, và khi điều kiện đã chín muồi khơng mau lẹ phát
động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng khơng thể mau chóng
giành được thắng lợi”


 Nhìn chung, sự lãnh đạo tích cực của Đảng trong việc chuẩn bị


lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền, được thể
hiện trên 3 mặt sau:
− Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân được
chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến.
− Hai là, Đảng tích cực vận động, lơi kéo tầng lớp trung gian đứng
về phía cách mạng.
− Ba là, Đảng tiền phong đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sẵn
sàng lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền.
Danh mục tài liệu tham khảo:
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia sự thật, xuất
bản lần thứ 11.
[3] Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các
bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001.
[4] TS. Trần Thị Rồi – ThS. Trần Ngọc Anh (đồng chủ biên): Tài liệu
hướng dẫn học và ôn tập môn Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam, NXB Đại học Quốc Gia thành phố Hồ Chí
Minh, 2012.
[5] Trần Ngọc Anh, Chương 1 Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời và
lãnh đạo đấu tranh gianh chính quyền,
/>WPWWAGOcjZ1knn7nxu4QZe9R1qZ8 Truy cập ngày 12/9/2020





×