Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động CTTC của công ty TNHH một thành viên cho thuê tài chính ngân hàng á châu nói riêng và thị trường cho thuê tài chính việt nam nói chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.06 KB, 57 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ lâu, cho thuê tài chính đã xuất hiện ở Việt Nam nhưng hầu như mức độ
phổ biến và sử dụng dịch vụ tại các doanh nghiệp chưa nhiều. Ở các quốc gia
khác trên thế giới, cho thuê tài chính là một trong những nguồn cung cấp vốn
chủ yếu cho các máy móc thiết bị tại doanh nghiệp, được xem là một yếu tố thúc
đẩy công nghiệp phát triển. Paul Getty - tỷ phú dầu mỏ Mỹ đã từng nói “Cái gì
sẽ tăng giá thì hãy mua, cái gì sẽ mất giá thì hãy đi thuê”. Do đó, cho thuê tài
chính sẽ là giải pháp tối ưu cho doanh nghiệp nhằm tiết kiệm chi phí đầu tư,
nhanh chóng thay đổi, cập nhật công nghệ mới, đặc biệt là với tốc độ phát triển
của khoa học công nghệ ngày nay, giá cả các máy móc thiết bị có xu hướng tốt
và rẻ hơn.
1. Tên đề tài: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động CTTC của Công ty
TNHH một thành viên cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu nói riêng và thị
trường cho thuê tài chính Việt Nam nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu của Báo Cáo.
- Hệ thống và làm rõ hơn một số vấn đề cơ bản về cho thuê tài chính.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động cho thuê tài chính của Công ty
TNHH một thành viên cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu
- Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho
Công ty TNHH một thành viên cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu nói riêng
và thị trường cho thuê tài chính Việt Nam nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tài chính và những vấn đề liên
quan đến cho thuê tài chính.
- Phạm vi nghiên cứu: Lấy thực tế tại Công ty TNHH một thành viên cho
thuê tài chính Ngân hàng Á Châu năm 2009, 2010 và 2011 làm cơ sở minh
chứng.
Trang 1 / 57
PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH.
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của cho thuê tài chính.


Hình thức cho thuê tài chính đã có lịch sử khá lâu dài và diễn ra trong hầu
hết mọi lãnh vực hoạt động kinh doanh.
Từ khi xuất hiện hình thức cho thuê tài chính thì loại hình tài trợ này đã có
những bước phát triển về cả quy mô và phạm vi địa lý. Ngày nay nó đã trở thành
hình thức tài trợ vốn kinh doanh khá phổ biến từ Châu Mỹ qua Châu Âu, Châu Á
cho đến tận miền cực nam Châu Phi.
Tuy nhiên, các giao dịch thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê mua kiểu
truyền thống. Phương thức giao dịch của hình thức này cũng tương tự như
phương thức thuê vận hành ngày nay và trong suốt lịch sử hàng ngàn năm tồn tại
của nó, đã không có sự thay đổi lớn về tính chất giao dịch.
Hoạt động cho thuê tài sản đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử văn minh
nhân loại, đã xuất hiện từ 2000 năm trước công nguyên với việc cho thuê các
công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, quyền sử dụng nước, ruộng đất nhà
cửa.
Đầu thế kỷ XIX do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế hàng
hoá, số lượng và chủng loại tài sản cho thuê đã có sự gia tăng đáng kể.
Đến đầu thập kỷ 50 của thế kỷ này, giao dịch thuê mua đã có những bước
nhảy vọt. Nguyên nhân của sự phát triển này là do hoạt động thuê mua đã có
những thay đổi về tính chất của giao dịch. Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và
dài hạn, nghiệp vụ tín dụng thuê mua hay còn gọi là thuê tài chính được sáng tạo
ra trước tiên ở Mỹ vào năm 1952. Sau đó nghiệp vụ tín dụng thuê mua phát triển
sang Châu Âu và phát triển mạnh mẽ tại đó từ những năm của thập kỷ 60. Tín
dụng thuê mua cũng phát triển mạnh mẽ ở châu Á và nhiều khu vực khác từ đầu
thập kỷ 70. Ngành công nghiệp thuê mua có giá trị trao đổi chiếm khoảng 350 tỷ
USD vào năm 1994. Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ tổng số vốn thiết bị cho thuê năm
Trang 2 / 57
1987 ước tính lên đến 107,8 tỷ USD và có tốc độ giá tăng 7% mỗi năm. Hiện
nay ở Mỹ, ngành thuê mua thiết bị chiếm khoảng 25-30% tổng số tiền tài trợ cho
các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm. Ở Anh theo một công bố mới đây của
Hiệp Hội tín dụng thuê mua thiết bị, thuê vận hành chiếm khoảng 20% vốn tài

trợ cho các hoạt động thuê mua ở Anh và năm 1993, tổng giá trị ngành công
nghiệp thuê mua đạt 49 Tỷ Bảng.
Nguyên nhân chính thúc đẩy các hoạt động cho thuê tài chính phát triển
nhanh là do nó thể hiện hình thức tài trợ có tính chất an toàn cao tiện lợi, và hiệu
quả cho các bên giao dịch.
1.2. Những vấn đề cơ bản của Hoạt động cho thuê tài chính.
1.2.1. Khái niệm.
Theo Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 02/05/2001 của chính phủ thì khái niệm
cho thuê tài chính được hiểu như sau:
Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng và dài hạn, thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên
cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết
mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu
cầu của bên mua và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử
dụng tài sản thuê và thanh toán thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên
thoả thuận.
1.2.2. Đặc điểm của cho thuê tài chính.
- CTTC là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn giữa bên cho thuê tài
sản và bên đi thuê tài sản.
- Trong thời hạn cho thuê, các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp
đồng.
- Trong thời gian cho thuê, tài sản thuộc quyền sở hữu tài sản của công ty
cho thuê. Khi kết thúc thời hạn cho thuê, bên đi thuê có thể mua lại hoặc tiếp tục
thuê.
Trang 3 / 57
- CTTC là hoạt động tín dụng mà bên đi thuê không cần bỏ toàn bộ số tiền
cùng một lúc để thuê và cũng không cần tài sản thế chấp, không làm ảnh hưởng
đến hạn mức tín dụng của doanh nghiệp ở ngân hàng.
- Đối tượng CTTC chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty
chưa có đủ điều kiện vay vốn của ngân hàng.

- Thuê tài chính giúp các doanh nghiệp bắt kịp với công nghệ, tiếp cận
nhiều với các công nghệ tiên tiến, với thủ tục đơn giản, yêu cầu tín dụng thấp mà
không cần bảo lãnh, thế chấp, không cần tài sản đảm bảo có trước.
- Thuê tài chính là hoạt động không cần thủ tục giấy tờ phiền hà. Việc đi
thuê tài chính dễ dàng hơn so với việc đi vay ngân hàng.
- Công ty CTTC được thành lập dưới các hình thức sau: Công ty CTTC
Nhà nước, Công ty CTTC cổ phần, Công ty CTTC liên doanh, Công ty CTTC
100% vốn nước ngoài và Công ty CTTC trực thuộc tổ chức tín dụng.
1.2.3. Những đối tượng có liên quan trong quá trình giao dịch của
nghiệp vụ Cho Thuê Tài Chính.
Lãnh vực hoạt động cho thuê tài chính, thường có nhiều chủ thể tam gia,
thể hiện những mối quan hệ bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế với nhau.
a) Bên cho thuê
Là nhà tài trợ vốn cho bên thuê, là chủ thể sẽ thanh toán toàn bộ giá trị tài
sản theo thỏa thuận giữa bên thuê với nhà cung cấp và là chủ sở hữu tài sản về
mặt pháp lý. Trong trường hợp cho thuê tài sản của mình, bên cho thuê cũng
đồng thời là nhà cung cấp thiết bị.
b) Bên thuê
Là khách hàng thuê mua tài sản của người cho thuê hay là người nhận sự
tài trợ vốn của công ty cho thuê. Bên thuê có quyền sử dụng, hưởng dụng những
lợi ích do tài sản đem lại và có trách nhiệm trả phí thuê theo thỏa thuận.
c) Nhà chế tạo hay nhà cung ứng
Trang 4 / 57
Là nhà cung cấp tài sản, thiết bị hay phương tiện vận tải theo thỏa thuận với
người thuê và theo các điều khoản hợp đồng mua bán ký với người cho thuê.
d) Người cho vay
Là một định chế tài chính, một tổ chức tín dụng cho bên thuê vay vốn để
hoạt động.
e) Các cơ quan quản lý nhà nước
Như ngân hàng nhà nước, cơ quan công chứng tòa án, cục thuế có trách

nhiệm giám sát và kiểm soát việc tuận thủ các quy định của pháp luật, đồng thời
công nhận tính hợp pháp của giao dịch thuê mua, quyền sở hữu pháp lý đối với
tài sản và xét sử, giải quyết các tranh chấp.
f) Hệ thống các văn bản pháp luật
Là các văn bản luật, hoặc dưới luật, các văn bane quy phạm pháp luật “ chi
phối” các hoạt động cho thuê tài chính, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền
lợi của tất cả các bên có liện quan đến hoạt động thuê mua. Những văn bản này
tạo nên hành lang pháp lý để hoạt động cho thuê tài chính đạt hiệu quả kinh tế
cao.
g) Đối tượng giao dịch trong hoạt động thuê mua
Tất cả các loại tài sản, thiết bị, phương tiện vận tải thường được sử dụng
trong hoạt động cho thuê tài chính, rất đa dạng và phong phú nhưng các đối
tượng này thường chia thành 2 loại chính: động sản và bất động sản.
Tóm lại, tùy theo mỗi phương thức thuê tài chính mà các chủ thể liên quan
có sự liên đới tham gia với những mức độ nhất định hoặc không tham gia vào
những hình thức thuê mua nào đó.
Sơ đồ1.1: Mối liên hệ giữa các bên có liên quan trong một giao dịch
thuê mua tài sản điển hình
Trang 5 / 57
Trang 6 / 57
Người cho thuê
Hợp đồng mua
máy móc, thiết bị
Hợp đồng thuê máy
móc thiết bị
Thế chấp Khoản
tiền vay
Quyền sở hữu
thiết bị
Trả phần tiền thuê máy

móc, thiết bị còn lại
Trả tiền theo giá mua
máy móc thiết bị
Quyền sử dụng
thiết bị
Người cho vay
Ti
ền thuê được trả cho
khoản tiền người cho
thuê vay
Bảo trì phụ tùng thay thế
Trả tiền bảo trì và phụ
Chuyển giao thiết bị
Nhà chế tạo
hay nhà cung cấp
Người thuê
Môi trường kinh tế, pháp luật
Môi trường Luật pháp, Kinh tế
1.3. Các phương thức cho thuê tài chính:
1.3.1. Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên (hợp đồng cho
thuê trực tiếp).
Theo phương thức này, trước khi nghiệp vụ cho thuê xuất hiện, tài sản
được dùng để tài trợ đã thuộc quyền sở hữu của người cho thuê bằng cách mua
tài sản hoặc tự xây dựng.
Phương thức tài trợ này thường do các công ty kinh doanh bất động sản và
công ty sản xuất máy móc, thiết bị thực hiện, như các nhà đầu tư xây dựng cao
ốc văn phòng, các chung cư, sau đó ký các hợp đồng cho thuê với khách hàng.
Các tổ chức tài chính rất ít áp dụng phương thức tài trợ này.
Hình thức tài trợ này có những đặc điểm căn bản sau:
- Hàng hoá thường là những loại tài sản có giá trị không quá lớn và thuộc các

loại máy móc thiết bị.
- Chỉ có 2 bên tham gia trực tiếp vào giao dịch: Người cho thuê và người thuê.
- Vốn tài trợ hoàn toàn do người cho thuê đảm nhiệm.
- Người cho thuê có thể mua lại thiết bị khi chúng bị lạc hậu.
Phương thức tài trợ này có sự tham gia của 2 bên được thực hiện như sau:
Sơ đồ 1.2: Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên
(1) Người cho thuê và người đi thuê ký hợp đồng thuê.
Trang 7 / 57
Giao tài sản ( 2b )
Ký hợp đồng thuê ( 1 )
Thanh toán tiền thuê ( 3 )
BÊN CHO THUÊ BÊN THUÊ
Chuyển giao quyền sử dụng (2a )
(2a) Người cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho người đi thuê.
(2b) Người cho thuê giao tài sản cho người đi thuê.
(3) Theo định kỳ người đi thuê thanh toán tiền thuê cho người cho thuê.
Ngoài những đặc điểm chung của phương thức cho thuê, loại hợp đồng này
còn có những đặc điểm chính như sau:
Người cho thuê Người thuê
1. Sử dụng các loại máy móc, thiết bị
của chính họ để cho thuê
1. Thuê máy móc, thiết bị từ người có
tài sản đó
2. Đảm nhiệm toàn bộ vốn tài trợ 2. Ký kết với nhà cung cấp 1 phụ kiện
hợp đồng về cung cấp
3. Cung cấp các loại phụ tùng và dịch
vụ bảo tín cùng với thiết bị theo một
hợp đồng phô.
3. Trả tiền thuê theo định kỳ và trả tiền
phụ tùng và dịch vô

4. Nhận các khoảng tiền thuê những
khoản tiền dịch vụ thu hợp đồng phô
4. Bán lại thiết bị khu chúng bị lạc hậu
và nhận thuê thiết bị mới
5. Nhận lại tài sản đã lỗi thời và cung
cấp thiết bị thay thế.

1.3.2. Cho thuê tài chính có sự tham gia của ba bên:
Theo hình thức này, người thuê sẽ thoả thuận với nhà cung ứng về các điều
khoản mua tài sản mình có nhu cầu và sau đó người cho thuê sẽ tiến hành mua
tài sản để cho người cho thuê thuê. Rõ ràng, theo phương thức này, người cho
thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu của người đi thuê và đã được
hai bên thoả thuận theo hợp đồng thuê. Quy trình tài trợ có sự tham gia của ba
bên, bao gồm: Người cho thuê, người đi thuê và người cung cấp.

Trang 8 / 57
2b
1c
3
2c
1a
1b
2a2c
BÊN CHO THUÊ
NHÀ CUNG CẤP BÊN THUÊ
Sơ đồ 1.3: Tài trợ cho thuê tài chính có sự tham gia của ba bên.
1a: Người cho thuê và người đi thuê ký hợp đồng thuê tài sản.
1b: Người cho thuê và người cung cấp ký hợp đồng mua tài sản.
1c: Người cung cấp và người đi thuê ký hợp đồng bảo hành bảo dưỡng (có
thể người cho thuê ký với người cung cấp về việc bảo hành và bảo dưỡng cho

người đi thuê).
2a: Người cung cấp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho người cho thuê.
2b: Người cung cấp chuyển giao tài sản cho người đi thuê.
2c: Người cho thuê thanh toán tiền mua tài sản.
2d: Người cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho người đi thuê.
3: Phương thức cho thuê theo định kỳ người đi thuê thanh toán tiền thuê
cho người cho thuê.
Phương thức tài trợ có sự tham gia của ba bên còn được gọi là phương thức
thuê mua thuần (net lease) và là phương thức cho thuê tài chính được áp dụng
phổ biến nhất, vì có các ưu điểm sau:
- Người cho thuê không phải mua tài sản trước và như vậy sẽ làm cho vòng
quay của vốn nhanh hơn vì không phải dự trữ hàng tồn kho.
- Việc chuyển giao tài sản được thực hiện trực tiếp giữa người cung cấp và
người đi thuê và giữa họ cũng chịu trách nhiệm trực tiếp về tình trạng hoạt động
của tài sản, cũng như thực hiện việc bảo hành và bảo dưỡng tài sản. Như vậy
người cho thuê có thể trút bỏ gánh nặng về tình trạng hoạt động của tài sản.
- Người cho thuê không trực tiếp nhận tài sản rồi sau đó chuyển giao cho
người đi thuê và như vậy sẽ hạn chế được rủi ro liên quan đến việc từ chối nhận
hàng của người đi thuê, vì do có sự nhầm lẫn về mặt kỹ thuật.
Trang 9 / 57
Xuất phát từ các ưu điểm trên đây mà các ngân hàng và các tổ chức tài
chính đã áp dụng chủ yếu phương thức này để tài trợ cho các doanh nghiệp, đặc
biệt đối với cho thuê thiết bị. Trên thế giới 80% hợp đồng cho thuê tài chính áp
dụng theo phương thức này.
1.3.3. Tái cho thuê (lease back).
Tái cho thuê hay còn gọi là bán và thuê lại (Sale and lease back) là một
dạng đặc biệt của phương thức cho thuê có sự tham gia của hai bên. Trong hoạt
động kinh doanh có nhiều doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác tài sản
cố định hiện có, nhưng lại không đủ uy tín để vay vốn lưu động ở các ngân hàng.
Trong trường hợp đó họ buộc phải bán lại một phần tài sản cố định cho ngân

hàng hoặc công ty tài chính, sau đó thuê lại tài sản đó để sử dụng và như vậy sẽ
có thêm nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động.
Phương thức tái cho thuê áp dụng trong hai trường hợp trên đây là sự
chuyển hoá từ cho vay ngắn hạn sang tài trợ trung và dài hạn. Vì cho thuê tài
chính là kỹ thuật cấp tín dụng ít rủi ro, do đó ngân hàng có thể sử dụng tài trợ
trung và dài hạn để thay thế cho vay ngắn hạn khi mà không còn cách nào khác
để giúp cho xí nghiệp có thể giải quyết được khó khăn về tài chính. Nếu không
giải quyết bằng cách này doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng phá sản và trong
trường hợp đó ngân hàng có thể bị thiệt hại lớn hơn.
Sơ đồ 1.4: Hình thức tái cho thuê.
Trang 10 / 57
2a
2b
1a
1b
3
BÊN CHO THUÊ BÊN THUÊ
1a, Người cho thuê (ngân hàng hoặc công ty tài chính) ký hợp đồng mua tài
sản của doanh nghiệp).
1b, Người cho thuê và người đi thuê ký hợp đồng thuê.
2a, Doanh nghiệp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho ngân hàng.
2b, Ngân hàng lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho doanh nghiệp
được phép sử dụng tài sản.
2c, Ngân hàng trả tiền mua tài sản cho doanh nghiệp là biện pháp giải quyết
nợ quá hạn thì khoản thanh toán này được thu hồi khoản nợ quá hạn.
3, Theo định kỳ doanh nghiệp thanh toán tiền thuê cho ngân hàng.
1.3.4. Hợp đồng cho thuê thực hiện liên kết (Syndicate Leases).
Hợp đồng cho thuê liên kết là loại hợp đồng gồm nhiều bên tài trợ cho một
người thuê. Sự liên kết này có thể xảy ra theo chiều ngang hoặc theo chiều dọc
tuỳ theo tính chất của loại tài sản hay khả năng tài chính của các nhà tài trợ.

Trong trường hợp tài sản có giá trị lớn, nhiều định chế tài chính hay các nhà chế
tạo cùng nhau hợp tác để tài trợ cho người thuê tạo thành sự liên kết theo chiều
ngang. Còn đối với trường hợp các định chế tài chính hay các nhà chế tạo lớn
giao tài sản của họ cho chi nhánh của họ thực hiện giao dịch tài trợ cho khách
hàng thì hình thành sự liên kết theo chiều dọc. Các bước và đặc điểm trong giao
dịch với người thuê của loại hợp đồng này không có khác biệt lớn so với phương
thức cho thuê điển hình.
1.3.5. Hợp đồng cho thuê bắc cầu:
Đây là hình thức đặc biệt của phương thức cho thuê tài chính, chỉ mới được
phổ biến trong thời gian gần đây, xuất phát từ thực tế là các công ty Leasing có
những hạn chế về nguồn vốn không đủ khả năng tự tài trợ cho khách hàng. Theo
thể thức cho thuê này, người cho thuê đi vay để mua tài sản cho thuê từ một hay
nhiều người cho vay nào đó.
Hình thức cho thuê này thường được sử dụng trong những giao dịch cho
thuê đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn, chẳng hạn cho thuê một máy bay thương
mại hay một tàu chở hàng hoặc 1 tổ hợp chuyên ngành lớn v.v
Trang 11 / 57
Trong hình thức cho thuê này, vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng số tiền tài trợ, người cho thuê vẫn đóng vai trò chủ sở hữu tài sản cho thuê
và thông thường người cho thuê phải thế chấp chính tài sản mà họ đã cho thuê
cho người cho vay. Hình thức thế chấp tài sản cho thuê này sẽ làm giảm nhẹ rủi
ro cho người cho vay.
1.3.6. Cho thuê giáp lưng (Under lease):
Cho thuê giáp lưng là phương thức mà trong đó, thông qua sự đồng ý của
người cho thuê, người đi thuê thứ nhất cho người đi thuê thứ hai thuê lại tài sản
đó. Trên thực tế thực chất người đi thuê thứ nhất chỉ là người trung gian giữa
người cho thuê và người đi thuê thứ hai, nhưng về mặt pháp lý thì người đi thuê
thứ nhất phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng với người cho thuê.
Với phương thức cho thuê này, mặc dù doanh nghiệp không đủ điều kiện để trực
tiếp thuê mua với người cho thuê, vẫn có thể thuê được tài sản để sử dụng cho

sản xuất kinh doanh.
Sơ đồ 1.5: Hình thức cho thuê giáp lưng.
1a, Người cho thuê và người đi thuê thứ 1 ký hợp đồng thuê mua.
1b, Người đi thuê thứ 1 và người đi thuê thứ 2 ký hợp đồng thuê mua.
2, Người cho thuê chuyển giao tài sản cho người đi thuê thứ 2.
3a, Người đi thuê thứ 2 trả tiền thuê cho người thuê thứ 1
3b, Người đi thuê thứ 1 trả tiền thuê cho người thuê.
Trang 12 / 57
1a
1b
3a
2
3b
BÊN CHO THUÊ
BÊN THUÊ 1
BÊN THUÊ 2
Tiền thuê mà người đi thuê thứ hai phải trả thường cao hơn tiền
thuê mà người đi thuê thứ nhất trả cho người cho thuê. Phần chênh
lệch giữa hai khoản tiền thuê đó người đi thuê thứ 1 được hưởng, coi như là hoa
hồng trách nhiệm. Ngoài ra, thê giáp lưng cũng áp dụng trong trường hợp người
đi thuê thứ 1 đã thuê tài sản và sử dụng tài sản đó, nhưng sau đó không có nhu
cầu sử dụng thì tài sản đó, nhưng sau đó không có nhu cầu sử dụng thì có thể cho
người khác thuê lại với sự đồng ý của người cho thuê.
1.4. Lợi ích của Hoạt Động Cho Thuê Tài Chính.
a) Đối với nền kinh tế quốc dân
- Cho thuê tài chính có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường, đặc
biệt trong nền kinh tế Việt Nam, khi yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi
hỏi gia tăng mạnh vốn đầu tư.
- Cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế
Vốn đầu tư của quốc gia được tích luỹ từ 2 nguồn: Tích luỹ nội bộ và vốn

huy động từ nước ngoài. Huy động có hiệu quả vốn đầu tư đòi hỏi rất nhiều kênh
huy động khác nhau phối hợp đồng thời; bao gồm hệ thống tín dụng; ngân sách
nhà nước và thị trường chứng khoán. Không thể phủ nhận vai trò tối quan trọng
của hệ thống tín dụng trong việc huy động vốn nhàn rỗi và giải ngân vốn đầu tư
nước ngoài. Là loại hình tín dụng trung dài hạn có nhiều ưu điểm, thể hiện ở sự
giảm thiểu rủi ro và phạm vi tài trợ rộng rãi, cho thuê tài chính góp phần không
nhỏ vào việc huy động vốn đầu tư trong nước và tìm nguồn tài trợ từ nước ngoài.
Với việc quy định của IMF không tính khoản nợ từ tài sản cho thuê tài chính
quốc tế vào khoản nợ nước ngoài của 1 quốc gia, hoạt động này càng có khả
năng trở thành một kênh thu hút vốn đầu tư nước ngoài hấp dẫn.
- Cho thuê tài chính góp phần phát triển hệ thống tài chính
Một hệ thống tài chính hoàn thiện phải tồn tại các kênh dẫn vốn hoạt động
hiệu quả. Xét riêng về số lượng, cho thuê tài chính đã đóng góp vào thị trường
tài chính một kênh dẫn vốn trung dài hạn quan trọng. Hơn nữa, trong điều kiện
các quốc gia đang phát triển, khi thị trường chứng khoán còn ở dạng sơ khai, sự
thiếu hút nghiêm trọng nguồn cung cấp vốn trung dài hạn là không thể phủ nhận,
vì thế, cho thuê tài chính càng có vai trò lớn đối với những nền kinh tế này. Về
Trang 13 / 57
mặt chất, cho thuê tài chính là một kênh dẫn vốn hấp dẫn, nguyên nhân là ở
phạm vi tài trợ rộng lớn, cung ứng đến mọi khu vực, thành phần kinh tế rất có lợi
đối với khách hàng, đồng thời giảm bớt rủi ro của người cho thuê, áp dụng hình
thức cho thuê tài chính trong nền kinh tế và đặc biệt là việc hình thành các công
ty cho thuê tài chính chuyên doanh, tách khỏi hoạt động của các ngân hàng
thương mại càng tạo điều kiện phát triển hệ thống tài chính quốc gia. Cụ thể, các
công ty cho thuê tài chính chuyên doanh sẽ cung cấp dịch vụ hữu hiện hơn hẳn
những đơn vị trực thuộc, tạo sức cạnh tranh đáng kể trong thị trường tài chính,
thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực tiền tệ ngân hàng.
- Cho thuê tài chính góp phần nâng cao năng lực công nghệ đất nước
Đối với các quốc gia đang phát triển, việc lạc hậu về công nghệ luôn luôn là
vấn đề gây đau đầu các nhà quản lý; cho thuê tài chính quốc tế sẽ tạo ra cơ hội

lớn cho việc nâng cao năng lực công nghệ quốc gia ngay cả trong điều kiện kinh
tế quốc gia đó gặp khó khăn. Cho thuê tài chính cho phép các doanh nghiệp tăng
năng lực kinh doanh bằng việc thay đổi, nâng cấp dây chuyền sản xuất, cải tiến
kĩ thuật, mở rộng quy mô sản xuất. Điều này đem lại cho quốc gia đó khả năng
bắt kịp với trình độ công nghệ thế giới.
b) Về phía người thuê:
- Người thuê có thể được tài trợ toàn bộ giá trị tài sản cố định phục vụ cho
kinh doanh
Do việc tài trợ cho thuê được bảo đảm bằng chính tài sản thuê và người cho
thuê có thể chiếm hữu lại tài sản đó khi người thuê vi phạm hợp đồng nên
thường người thuê không cần đảm bảo khả năng thanh toán bằng việc đặt cọc
một khoản tiền. Tuy nhiên trong trường hợp mức độ rủi ro cao, khách hàng cũng
bị yêu cầu đặt cọc rủi ro lớn như vậy cũng không thể đáp ứng tiêu chuẩn tín
dụng của các ngân hàng. Hơn nữa, luật tín dụng không cho phép các ngân hàng
tài trợ toàn bộ trong khi các công ty cho thuê tài chính tài trợ 100% nhu cầu tài
sản doanh nghiệp.
- Người thuê không bị ràng buộc về hạn mức tín dụng vay ngân hàng
Trang 14 / 57
Hầu hết các quốc gia đều không hạn chế các doanh nghiệp vay ngân hàng
khi họ đã thuê tài chính, điều này mở rộng cơ hội huy động vốn vào hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Không đòi hỏi uy tín lớn
Để đáp ứng yêu cầu tại các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp phải trình
báo cáo tài chính thể hiện 3 năm kinh doanh liên tục có lãi và không có nợ quá
hạn. Các doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc thoả mãn các yêu cầu
này nhưng sẽ dễ dàng hơn trong trường hợp họ thuê tài chính. Hơn nữa, các
doanh nghiệp nhỏ không thể có mối quan hệ gần gũi sẵn có với các ngân hàng và
các ngân hàng không thể đáp ứng một khoản vay dài hạn đối với những khách
hàng chưa có một khoản vay dài hạn nào trong hồ sơ tín dụng. Riêng đối với
những công ty cho thuê tài chính, những khách hàng mới cũng có thể nhận được

những khoản tài trợ ngắn hạn.
- Cơ chế thanh toán tiền thuê linh hoạt
Không như các ngân hàng thương mại bị yêu cầu thanh khoản đòi hỏi sự
quản lý chặt chẽ đối với việc thanh toán tiền vay, cho thuê tài chính có thể đưa ra
một cơ cấu trả nợ linh hoạt đáp ứng những dòng tiền đặc thù của người thuê. Ví
dụ cho thuê trả tăng dần, giảm dần, niên kim cố định. Việc thanh toán diễn ra
theo mùa hoặc ngắt quãng; Thời hạn thanh toán cũng linh hoạt, có thể định kỳ
theo quý hoặc theo tháng.
- Không cần tài sản thế chấp
Đây là ưu điểm nổi bật của cho thuê tài chính - sử dụng ngay tài sản thuê
làm vật thế chấp. Nguyên tắc tài sản thế chấp trong tín dụng ngân hàng để tránh
sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Tài sản thuê trong cho thuê tài chính
không đủ tính lỏng để người thuê có thể sử dụng sai mục đích. Mặt khác, tài sản
luôn thuộc quyền sở hữu của người cho thuê nên rủi ro mất vốn không lớn.
- Người thuê có thể tiếp cận với công nghệ hiện đại
Các công ty cho thuê tài chính chuyên môn hoá trong lĩnh vực của họ nên
thường am hiểu kĩ về thị trường tài sản và thường được phép xuất nhập khẩu
trực tiếp. Nhờ đó người thuê có thể tiếp cận với nhà sản xuất và những sản phẩm
tiên tiến, hiện đại; tạo ra khả năng đổi mới công nghệ nhanh chóng với chi phí
Trang 15 / 57
thấp - đây là điều đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay
- cùng với những dịch vụ đào tạo, hướng dẫn, bảo trì… kèm theo của nhà cung
cấp. Mặt khác, mối quan hệ kinh doanh cùng với những kinh nghiệm về thị
trường tài sản của công ty cho thuê tài chính cho phép người thuê có thể bán tài
sản cũ, tài sản không sử dụng để đổi mới công nghệ.
c) Về phía người cho thuê
- Cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay
Trong suốt thời hạn thuê, người cho thuê vẫn nắm quyền sở hữu tài sản
thuê nên họ có thể nhanh chóng chiếm hữu lại tài sản nếu người thuê không tuân
thủ hợp đồng. Như vậy, có thể coi tất cả các hợp đồng cho thuê tài chính đều có

tài sản thế chấp. Mặt khác, khi cơ chế xử lý tài sản đảm bảo tiền vay của nước ta
còn chưa đồng bộ, hoạt động cho vay càng trở nên rủi ro hơn so với cho thuê tài
chính. Tuy nhiên, việc tịch thu tài sản không phải là biện pháp đảm bảo rủi ro mà
các công ty cho thuê tài chính mong muốn, hầu hết các công ty đều trông chờ
vào phẩm chất của người thuê. Khả năng giảm thiểu rủi ro đòi hỏi 2 yếu tố, về
pháp luật - là những văn bản quy phạm về quyền sở hữu - và về thị trường - yêu
cầu về sự tồn tại một thị trường thiết bị, máy móc cũ - để tài sản cho thuê có thể
dễ dàng được xử lý trong điều kiện rủi ro xảy ra.
- Tránh được rủi ro đạo đức và sự lựa chọn đối nghịch
Trong các quan hệ tín dụng, rủi ro đạo đức và sự lựa chọn đối nghịch rất dễ
xảy ra; người vay có thể sử dụng sai mục đích cam kết trong hợp đồng các khoản
tiền vay, vì thế tạo rủi ro lớn hơn đối với khoản vay đó, mặt khác chính những
người nay lại có nỗ lực lớn trong việc tìm kiếm nguồn tài trợ, điều này dẫn đến
nguy cơ mất khả năng thanh toán các khoản vay. Đây là điều nguy hiểm đối với
các tổ chức tín dụng. Hoạt động cho thuê tài chính tài trợ người thuê bằng tài sản
đồng thời không chuyển quyền sở hữu nên giảm được những rủi ro trên.
- Phát triển mối quan hệ với khách hàng và thúc đẩy bán hàng
Do sự chủ động tham gia vào các giao dịch mua bán giữa bên thuê và nhà
cung cấp, công ty cho thuê tài chính phát triển rộng hơn quan hệ của mình và vì
thế có điều kiện phát triển hoạt động của mình. Là định chế tài chính, các công
ty này thúc đẩy việc giao dịch hàng hoá thông qua việc giới thiệu, quảng bá…
Trang 16 / 57
dẫn người mua đến với người bán. Là người bán, hình thức thuê tài chính được
xem như một dạng khuyến mãi sản phẩm.
1.5. Kinh nghiệm phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở một số nước.
1. Trung Quốc
Hoạt động CTTC ở Trung Quốc được triển khai từ đầu thập niên 80 nhờ có
chính sách mở cửa, cải cách đầu tư mà sau 10 năm ngành CTTC ở Trung Quốc
phát triển nhanh chóng về số lượng cũng như loại hình công ty CTTC rất đa
dạng. Trong 60 công ty CTTC thì có 25 liên doanh với nước ngoài. Các công ty

tài chính đầu tư, công ty tài chính tư vấn vẫn được phép thực hiện hoạt động
CTTC như là một nghiệp vụ phụ bên cạnh hoạt động kinh doanh chính. Doanh
thu từ hoạt động CTTC tăng đáng kể qua các năm. cụ thể chỉ sau khi thành lập 1
năm thì doanh số CTTC là 13,2 triệu USD (năm 1981) thì đến năm năm 1987
con số này gần 1 tỷ USD. Như vậy chỉ sau 6 năm đưa vào vận hành hoạt động
CTTC doanh số CTTC đã đạt 3 tỷ USD.
Trong nghiệp vụ CTTC, các công ty CTTC ở Trung Quốc thực hiện tài trợ
toàn bộ giá trị của tài sản thuê trong đó bên thuê được quyền chọn những tài sản
cho thuê cho đến hết thời hạn hợp đồng và được trích khấu hao tài sản thuê.
Điều đặc biệt là hoạt động CTTC chịu sự chi phối bởi kế hoạch và chính
sách của Nhà nước. Ngay cả nguồn vốn đưa ra và lịch thanh toán nợ đều dựa
trên kế hoạch nhà nước. Và để tránh việc đầu tư vào những máy móc thiết bị lạc
hậu, lỗi thời và không phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, Chính
phủ quy định thiết bị cho thuê phải được đưa vào danh mục quản lý của Nhà
nước hoặc kế hoạch của địa phương và là đối tượng phải được sự chấp thuận của
Nhà nước hoặc các cơ quan quản lý. Đồng thời Chính phủ quy định tất cả các
công ty CTTC phải tìm một nhà cung cấp thích hợp, nắm được giá cả cung ứng
thiết bị cũng như chất lượng, công nghệ và các đặc tính kỹ thuật khác của các
máy móc thiết bị đó. Thậm chí, công ty CTTC còn phối hợp với bên cung ứng để
huấn luyện cho bên thuê cách sử dụng và vận hành tài sản.
Ngoài ra, Chính phủ thực hiện cải tổ, sắp xếp lại toàn diện nền kinh tế,
khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực tài chính dưới hình thức các công
Trang 17 / 57
ty CTTC liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài nhằm tận dụng nguồn vốn, kỹ
thuật và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Mặt khác, bằng việc tạo dựng được môi trường pháp lý thuận lợi và ban
hành chính sách khuyến khích sự phát triển của loại hình dịch vụ này thích hợp
như: Các công ty CTTC được miễn thuế thu nhập DN trong hai năm đầu và sau
năm thứ ba nếu có lợi nhuận mới phải nộp thuế, quy định thuế suất thuế lợi tức
ưu đãi đối với dịch vụ CTTC và một loạt các văn bản khác đã làm cho thị trường

CTTC phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng.
Để thúc đẩy hoạt động CTTC, ở Trung Quốc đã nhanh chóng hình thành
hiệp hội CTTC với mục đích bảo vệ lợi ích của hoạt động CTTC, đồng thời tăng
cường quan hệ hợp tác của các thành viên trong hiệp hội. Thông qua hiệp hội,
các thành viên sẽ nhận được sự hỗ trợ, hợp tác phát triển, học hỏi lẫn nhau và
đưa ra những vướng mắc chung kêu gọi chính phủ quan tâm giải quyết.
2. Hàn Quốc
Hoạt động CTTC được áp dụng ở Hàn Quốc vào những năm 1970 và được
coi là một trong những quốc gia đầu tiên tại châu Á áp dụng hoạt động này để tài
trợ vốn cho nền kinh tế. Ở Hàn Quốc những năm 1970, tình hình kinh tế ở trạng
thái nhu cầu đầu tư thiết bị vượt quá tiền vốn đòi hỏi cần bổ sung loại hình tài trợ
mới và hoạt động CTTC được đưa vào áp dụng dưới sự giám sát của Bộ Tài
chính, ngay sau khi đưa vào áp dụng CTTC đã trở thành công cụ để thúc đẩy đầu
tư trong nước cho tăng trưởng kinh tế. Năm 1995, có 25 công ty CTTC hoạt
động với quy mô thị trường là 18 tỷ USD, chiếm 30% so với toàn bộ thiết bị
trong nước và đứng thứ 4 thế giới về doanh số CTTC.
Điều chỉnh hoạt động CTTC tại Hàn Quốc bởi “Luật khuyến khích ngành
cho thuê” được ban hành vào năm 1973 và được sửa đổi liên tục do thị trường
CTTC được mở rộng và đến năm 1993 được đổi tên thành “Luật kinh doanh cho
thuê”. Điều này thể hiện tính tự do hoá của thị trường tài chính Hàn Quốc và đến
1998 cùng với sự cơ cấu lại thị trường tài chính Luật kinh doanh cho thuê được
thay thế bằng “Luật kinh doanh tài trợ tín dụng đặc biệt”.
Hỗ trợ một cách đáng kể cho các DNNVV đầu tư vào thiết bị với số tiền là
4,9 tỷ USD chiếm 52,7% tổng doanh số CTTC trong năm 1993. Theo Luật
Trang 18 / 57
khuyến khích cho thuê thì bên cho thuê được hướng dẫn duy trì mức tối thiểu
50% tổng cho thuê dành cho DNNVV.
Cũng trong Luật khuyến khích cho thuê hướng dẫn các công ty CTTC phải
duy trì mức tối thiểu 40% tổng cho thuê dành cho ngành sản xuất trong nước.
Cũng trong năm 1993, tổng số cho thuê máy móc thiết bị, ngành sản xuất máy

móc trong nước chiếm 59,1% với số tiền 5,4 tỷ USD. Điều này đã nói CTTC đã
đóng góp vào sự phát triển của ngành sản xuất máy móc trong nước.
Tiêu chuẩn xử lý kế toán trong CTTC được Chính phủ ban hành vào ngày
01/01/1985 và được sửa đổi vào tháng 3/1993, trường hợp giá trị hiện tại của phí
cho thuê áp dụng là trên 90% giá chính thức thì có khả năng khấu hao thiết bị
trong thời gian thuê. Một trong những nhân tố giúp hoạt động CTTC tại Hàn
Quốc thoát ra khó khăn quản lý bằng việc tăng cường tiêu chuẩn kế toán. Ngày
18/03/2005, Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán- Viện nghiên cứu kế toán Hàn Quốc công
bố và thông qua bản tiêu chuẩn kế toán doanh nghiệp và tiêu chuẩn này cũng áp
dụng đối với bản hợp đồng cho thuê. Như vậy, có thể khẳng định hoạt động
CTTC ở Hàn Quốc phát triển nhanh là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, có sự tham gia của Chính phủ trong việc có định hướng về cơ cấu
tài sản cho thuê, áp dụng chính sách tiền tệ chặt chẽ, hạn chế tín dụng ngân hàng
đối với các tập đoàn kinh tế lớn nên những quy định thông thoáng của CTTC
giúp ngành này trở nên hấp dẫn.
Thứ hai, thực hiện khuyến khích đầu tư và ưu đã thuế. Chính phủ chủ động
hỗ trợ ngành công nghiệp này phát triển bằng những chính sách thuế, hạch toán
khấu hao tài sản và quy định nhiều quyền có lợi cho bên cho thuê.
Thứ ba, có hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động CTTC và được cụ thể
hoá thành luật. Đồng thời quy định rõ ràng việc xử lý kế toán nghiệp vụ kế toán
CTTC.
Thứ tư, khuyến khích phát triển các DNNVV cùng với nền kinh tế phát
triển như vũ bão kéo theo nhu cầu lớn về vốn cho việc đầu tư, đổi mới máy móc
thiết bị, công nghệ sản xuất.
Thứ năm, khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư của người nước
ngoài.
Trang 19 / 57
3. Malaysia
Ở Malaysia, hoạt động CTTC cũng được thành lập năm 1974 và phát triển
nhanh chóng vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Tuy

nhiên, đến năm 1985-1986, với những kinh nghiệm còn yếu và sự sửa đổi các
biện pháp hành chính của Chính phủ nhằm xóa bỏ những lổ hỗng về thuế và thắt
chặt việc sử dụng thuật ngữ “Cho thuê” đã ảnh hưởng đến hoạt động CTTC. Và
đến năm 1989-1990, nền kinh tế của Malaysia phục hồi, phần lớn các khu vực
kinh tế được mở rộng, đặc biệt là khu vực công nghiệp, điều đó lại thúc đẩy hoạt
động CTTC phát triển. Ở Malaysia, công ty CTTC chủ yếu thực hiện các dịch vụ
cho thuê thiết bị và tiến hành cả hai hình thức CTTC và cho thuê vận hành. Cho
thuê vận hành có chiều hướng tăng lên: Năm 1989, CTTC chiếm 86%, cho thuê
vận hành chiếm 14% trong tổng số hợp đồng cho thuê thì đến năm 1990, tỉ lệ
này tương ứng là 79,3% và 20,7%. Như vậy, hoạt động CTTC ở Malaysia phát
triển là do có sự quan tâm của Chính phủ trong việc khuyến khích phát triển hoạt
động này thông qua các chính sách thuế và các quy định liên quan đến hoạt động
CTTC. Ngoài ra, các công ty CTTC đã đẩy mạnh các hoạt động của mình thông
qua việc đa dạng hoá các sản phẩm và loại hình cho thuê.
4. Nhật Bản.
Vào cuối những năm 80 hầu hết các Công ty cho thuê tài chính ở Nhật Bản
đều tập trung kinh doanh bất động sản, họ cho rằng giá trị về đất đai, công
xưởng sẽ không bao giờ giảm. Tuy nhiên đến năm 1990, Chính phủ Nhật đã ra
một loạt các chính sách hạn chế sự bùng nổ của thị trường bất động sản. Kết quả
là một loạt các Công ty cho thuê tài chính Nhật Bản bị phá sản. Đây là một bài
học lớn cho các công ty cho thuê tài chính khác: phải biết chọn lùa danh mục
cho thuê một cách thận trọng. Nền kinh tế phát triển thì hoạt động CTTC cũng
phát triển và ngược lại, do đó khi gặp thời kỳ kinh tế khủng hoảng thì nên chú ý
nhiều hơn đến vấn đề rủi ro trong hoạt động để có thể thu hồi được tài sản, tránh
gây những thua lỗ không đáng.
1.6. Rủi ro trong Hoạt Động Cho Thuê Tài Chính.
Trang 20 / 57
5. Rủi ro tín dụng và tác hại của nó đến hoạt động cho thuê tài chính
a) Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng vay vốn hay tổ chức phát hành

chứng khoán không thanh toán được tiền lãi hoặc vốn gốc hoặc cả hai. Tương tự,
rủi ro tín dụng trong hoạt động cho thuê tài chính là khả năng xảy ra tổn thất
( trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ việc bên thuê không thực hiện nghĩa vụ trả
nợ đúng như cam kết trong hợp đồng cho thuê tài chính hoặc mất khả năng thanh
toán.
b) Tác hại của rủi ro tín dụng
- Làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận, ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn.
- Làm tăng rủi ro thanh khoản.
- Làm giảm uy tín.
- Làm tăng rủi ro mất vốn.
c) Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động cho thuê
tài chính.
- Nguyên nhân từ phía khách hàng:
 Đối với khách hàng cá nhân:
 Khách hàng bị suy giảm năng lực hành vi dân sự.
 Khách hàng bị suy giảm năng lực tài chính.
 Do khách hàng kính doanh nhỏ lẻ.
 Do hoàn cảnh gia đình không thuận lợi.
 Đối với khách hàng doanh nghiệp:
 Do năng lực tài chính của doanh nghiệp yếu kém.
 Do giá trị của tài sản thuê suy giảm quá nhanh.
 Do biến động của thị trường đầu vào và đầu ra.
- Nguyên nhân từ phía Công ty cho thuê tài chính.
 Do Công ty CTTC định kỳ hạn nợ chưa chính xác.
 Do Công ty CTTC cho thuê vượt quá khả năng quản lý của khách hàng.
Do Công ty CTTC thu thập thông tin không đầy đủ và chính xác về khách hàng
thuê, dự án thuê và tình hình thị trường.
 Do Công ty CTTC thiếu kiểm tra, giám sát trước, trong và sau giải ngân.
Do có những hạn chế trong quy trình nghiệp vụ của Công ty CTTC.
 Do sự hạn chế về năng lực và đạo đức của cán bộ.

- Các rủi ro từ môi trường kinh doanh và môi trường pháp lý.
6. Rủi ro lãi suất
Nguồn vốn hoạt động của các Công ty CTTC thường được huy động từ các
nguồn sau:
- Được nhận tiền gởi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân.
Trang 21 / 57
- Được phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gởi và giấy tờ có giá khác có kỳ
hạn trên một năm để huy động vốn của tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài
nước…
- Được vay vốn của các tổ chức tài chính, , tín dụng trong và ngoài nước.
Rủi ro lãi suất chính là sự tổn thất về lãi của người cho vay, do lãi suất đi
vay tăng hoặc lãi suất cho vay giảm hoặc lãi suất cho vay và đi vay đều tăng
hoặc đều giảm, nhưng mức đố tăng giảm khác nhau làm ảnh hưởng đến thu nhập
ròng của người cho vay.
Trong cho thuê tài chính, rủi ro lãi suất thường xảy ra trong các trường hợp
sau:
- Đi vay và tài trợ vốn với lãi suất cố định nhưng khác nhau về thời hạn.
Thường là đi vay với thời gian ngắn, còn cho thuê tài chính với thời gian dài.
Trong trường hợp này với lãi suất thị trường tăng sẽ xuất hiện rủi ro lãi suất.
- Đi vay và cho thuê tài chính với lãi suất thả nổi nhưng khác nhau về thời
hạn hoặc định kỳ tính lãi.
- Tài trợ thuê tài chính với lĩa suất cố định nhưng đi vay với lãi suất thả nổi
hoặc ngược lại.
7. Rủi ro tỷ giá hối đoái
Loại rủi ro này được thể hiện trong mối quan hệ: vay ngoại tệ khách hàng
và nước ngoài để tài trợ các doanh nghiệp trong nước. Trong trường hợp nếu tỷ
giá đồng nội tệ so với ngoại tệ tăng (do đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ)
sẽ tất nhiên xuất hiện rủi ro về tỷ giá.
8. Rủi ro liên quan đến tài sản
Trong hoạt động cho thuê tài chính, các rủi ro liên quan đến tài sản thường

là:
- Sự mất mát và hư hỏng tài sản: Mặc dù hợp đồng thuê tài chính có điều
khoản quy định: Bên đi thuê có trách nhiệm bảo quản và chịu trách nhiệm về
những rủi ro liên quan đến mất mát và hư hỏng tài sản. Khi rủi ro này xảy ra sẽ
ảnh hưởng đến sản xuất và tất yếu làm giảm khả năng thanh toán của người đi
thuê.
Trang 22 / 57
- Tài sản thuê không có khả năng luân chuyển khi người đi thuê trả lại: Sau
khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính, bên đi thuê có thể trả lại tài sản và
người cho thuê có thể bán hoặc cho thuê tiếp. Tuy nhiên, nếu thị trường không
chấp nhận tài sản này hoặc chấp nhận với mức giá thấp hơn mức tối thiểu cần
phải thu hồi thì bên cho thuê phải gánh chịu rủi ro.
Trang 23 / 57
PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ
TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH
VIÊN CHO THUÊ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG Á
CHÂU.
2.1. Lịch sử hình thành của ACB Leasing.
Công ty TNHH một thành viên cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu
( dưới đây được gọi là Công ty) là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng trực thuộc
Ngân hàng Á Châu, do Ngân hàng Á Châu làm chủ sở hữu và chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của Công ty trong phạm vi số vốn
điều lệ của Công ty.
− Tên đầy đủ tiếng việt: Công ty TNHH một thành viên cho thuê tài
chính Ngân hàng Á Châu.
− Tên viết tắt bằng tiếng Việt: Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Á
Châu.
− Tên đầy đủ bằng tiếng Anh: Asia Commercial Bank Leasing Company
Limited.
− Tên viết tắt bằng tiếng Anh: ACBL.Co.,Ltd.

− Trụ sở chính: 131 Châu Văn Liêm, Phường 14, Quận 5, Thành phố Hồ
Chí Minh.
− Công ty có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
− Địa bàn hoạt động của Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu
là địa bàn hoạt động của Ngân hàng Á Châu được quy định trong điều lệ Ngân
hàng Á Châu.
− Công ty có tài khoản riêng mở tại Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng
trong nước, ngân hàng nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và
Ngân hàng Á Châu.
− Thời gian hoạt động: Thời gian hoạt động của công ty là 50 năm và phải
phù hợp với thời gian hoạt động của Ngân hàng Á Châu. Công ty có thể kéo dài
hoặc giải thể trước thời hạn hoạt động theo quyết định của Hội đồng quản trị
Ngân hàng Á Châu sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản,
mỗi lần gia hạn không quá 50 năm.
Trang 24 / 57
− Địa bàn hoạt động chủ yếu : TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình
Dương…
− Vốn hoạt động của công ty gồm các nguồn sau: Vốn điều lệ, Vốn huy
động, Vốn vay, Các quỹ theo quy định của pháp luật, Lợi nhuận chưa chia, Các
loại vốn khác.
− Vốn điều lệ, hình thức góp vốn, tăng giảm vốn điều lệ:
• Vốn điều lệ của Công ty là: 200.000.000.000 ( Hai trăm tỷ Đồng Việt
Nam)
• Toàn bộ vốn điều lệ của Công ty là do Ngân hàng Á Châu cấp.
• Vốn điều lệ có thể tăng hoặc giảm do Hội đồng quản trị Ngân hàng Á
Châu quyết định tùy theo tình hình hoạt động của Công ty và chỉ thực hiện sau
khi Ngân hàng Nhà nước chấp nhận và đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh.
2.2. Cơ cấu tổ chức và các đơn vị trực thuộc
Cơ cấu tổ chức:
− Hội đồng quản trị và bộ máy giúp việc;

− Ban kiểm soát;
− Tổng giám đốc và các Phó tổng giám đốc;
− Kế toán trưởng;
Cơ cấu tổ chức của các đơn vị trực thuộc do Tổng giám đốc tham mưu trình
Hội đồng quản trị Công ty quyết định phù hợp với nhu cầu thực tế và quy định
của pháp luật.
− Hội đồng quản trị Công ty gồm 3 thành viên, bao gồm Chủ tịch, Phó chủ
tịch và Ủy viên Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị công ty gồm 2 thành viên
chuyên trách và 1 thành viên kiêm nhiệm.
− Ban kiểm soát là cơ quan kiểm tra hoạt động tài chính của Công ty; giám
sát việc chấp hành chế độ hạch toán, hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm soát
nội bộ của Công ty. Số lượng thành viên Ban Kiểm Soát gồm 3 thành viên, bao
gồm 2 thành viên chuyên trách và một thành viên kiêm nhiệm.
Trang 25 / 57
HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ
BAN TỔNG
GIÁM ĐỐC
BAN KIỂM SOÁT
KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TRỢ LÝ
BAN TÍN DỤNG
KINH DOANH
HỖ TRỢ
VẬN HÀNH
Phòng
kinh
doanh 1
Phòng
kinh

doanh 2
Bộ phận
phân tích
tín dụng
Bộ phận
quan hệ
đối tác
Phòng dịch
vụ
khách
hàng
Bộ phận
pháp
chế và
tuân
thủ
Bộ phận
thẩm
định tài
sản
Phòng
kế toán
– hành
chánh
Các chi nhánh/Phòng giao dịch/Văn phòng đại diện

×