Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

giáo trình kế hoạch hóa trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 195 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Khoa Kế hoạch và Phát triển – Bộ môn Kinh tế Phát triển
Chủ biên: GS.TS NGƠ THẮNG LỢI

Giáo trình

KẾ HOẠCH HĨA PHÁT TRIỂN

Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân
Hà Nội - 2019


MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU ........................................................................................................... 1
PHẦN A: NGUYÊN LÝ KẾ HOẠCH HỐ PHÁT TRIỂN ........................................ 1
Chương 1: NHẬP MƠN KẾ HOẠCH HOÁ PHÁT TRIỂN ......................................... 7
CÁC KHÁI NIỆM ................................................................................................. 7
Kế hoạch.........................................................................................................7
Kế hoạch hoạt động và Kế hoạch phát triển ..................................................9
Kế hoạch hóa phát triển ...............................................................................10
Kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội ......................................................11
LỊCH SỬ KẾ HOẠCH HOÁ Ở CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ....................... 13
Các nước áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây .......................13
Kế hoạch hoá ở một số nước phát triển .......................................................19
Kế hoạch hoá ở các nước đang phát triển (trường hợp các nước NICS và
ASEAN) .......................................................................................................25
KẾ HOẠCH HOÁ Ở VIỆT NAM ....................................................................... 26
Lịch sử ra đời và thay đổi cơ quan Kế hoạch quốc gia ................................ 26
Lịch sử những chặng đường công tác kế hoạch ...........................................27
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC 33
Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................33


Nội dung nghiên cứu ....................................................................................34
Phương pháp nghiên cứu..............................................................................35
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KẾ HOẠCH HÓA PHÁT TRIỂN..................... 39
LÝ LUẬN VỀ SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KẾ HOẠCH HÓA PHÁT
TRIỂN ........................................................................................................................ 39
Kế hoạch là một công cụ can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường .
..........................................................................................................39
Kế hoạch là công cụ huy động và phân bổ nguồn lực khan hiếm nhằm thực
hiện các mục tiêu ưu tiên .............................................................................45
Kế hoạch là một công cụ để thu hút được các nguồn lực bên ngồi ...........45
Kế hoạch là cơng cụ để nhà nước công bố các mục tiêu phát triển của mình
và huy động nguồn lực xã hội cùng hướng tới mục tiêu ............................. 46
CÁC ĐIỀU KIỆN TIỀN ĐỀ CỦA KẾ HOẠCH HOÁ PHÁT TRIỂN............... 46
Các điều kiện tiền đề của kế hoạch hoá tập trung mệnh lệnh ......................46
i


Điều kiện tiền đề của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường ................47
NHỮNG THẤT BẠI CỦA KẾ HOẠCH HỐ VÀ NHỮNG U CẦU ĐẶT RA
ĐỐI VỚI CƠNG TÁC KẾ HOẠCH HỐ .................................................................. 48
Thất bại của kế hoạch hố ............................................................................48
Những nguyên nhân thất bại của kế hoạch hoá ...........................................49
Những yêu cầu đối với kế hoạch hoá ........................................................... 51
ĐỔI MỚI KẾ HOẠCH HOÁ Ở VIỆT NAM ...................................................... 55
Cơ chế kế hoạch hoá ở Việt Nam trước đổi mới .........................................55
Cơ chế kế hoạch hoá ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới ............................. 57
Chương 3: BẢN CHẤT - CHỨC NĂNG - NGUYÊN TẮC KẾ HOẠCH HOÁ PHÁT
TRIỂN .......................................................................................................................... 63
BẢN CHẤT CỦA KẾ HOẠCH HOÁ PHÁT TRIỂN ........................................ 63
Bản chất chung ............................................................................................. 63

Bản chất của kế hoạch hoá tập trung mệnh lệnh ..........................................64
Bản chất của kế hoạch hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường .............64
CÁC CHỨC NĂNG CỦA KẾ HOẠCH HÓA PHÁT TRIỂN ........................... 65
Chức năng định hướng phát triển .................................................................65
Chức năng quản lý điều hành vĩ mô các hoạt động kinh tế .........................67
Chức năng theo dõi, giám sát và đánh giá quá trình phát triển ....................68
CÁC NGUYÊN TẮC KẾ HOẠCH HỐ PHÁT TRIỂN ................................... 68
Kế hoạch hố mang tư duy chiến lược.........................................................68
Kế hoạch hoá gắn với nguồn lực..................................................................71
Kế hoạch hoá dựa trên cách tiếp cận quản lý theo kết quả ..........................73
Kế hoạch hố có sự tham gia .......................................................................75
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ THEO KẾT QUẢ TRONG KẾ HOẠCH
HOÁ PHÁT TRIỂN ..................................................................................................... 77
Các thành tố cơ bản của quản lý dựa trên kết quả .......................................77
Vận dụng nguyên tắc quản lý dựa trên kết quả trong công tác kế hoạch hố
phát triển.......................................................................................................84
Chương 4: HỆ THỐNG KẾ HOẠCH HỐ PHÁT TRIỂN THEO NỘI DUNG ..... 100
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI......................................... 100
Khái niệm và đặc trưng ..............................................................................100
ii


Sự cần thiết của chiến lược phát triển ........................................................102
Nội dung của chiến lược phát triển ............................................................104
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ......................................... 106
Khái niệm và đặc trưng của quy hoạch ......................................................106
Vai trò, chức năng và yêu cầu đặt ra cho quy hoạch .................................108
Nội dung tổng quát của quy hoạch phát triển ............................................109
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN............................................................................... 110
Tổng quan về kế hoạch phát triển ..............................................................110

Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội (kế hoạch 5 năm) ...................117
Kế hoạch hàng năm phát triển kinh tế - xã hội (kế hoạch hàng năm) .......120
CÁC CHƯƠNG TRÌNH VÀ DỰ ÁN PHÁT TRIỂN ....................................... 121
Khái niệm và vị trí .....................................................................................121
Nội dung quá trình xây dựng chương trình dự án phát triển .....................123
TỔ CHỨC BỘ MÁY KẾ HOẠCH Ở VIỆT NAM ........................................... 124
Sơ đồ tổ chức chung ...................................................................................124
Cơ quan kế hoạch hoá quốc gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) ........................125
Các cơ quan kế hoạch ngành (Bộ quản lý ngành)......................................127
Cơ quan kế hoạch các cấp địa phương .......................................................128
Chương 5: LẬP KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN ............................................................ 132
KẾT CẤU BẢN KẾ HOẠCH ........................................................................... 132
QUY TRÌNH KỸ THUẬT LẬP KẾ HOẠCH .................................................. 134
Đánh giá thực hiện kế hoạch kỳ gốc X ......................................................134
Dự báo các yếu tố tác động đến sự phát triển năm kế hoạch X+1 .............141
Xác định mục tiêu - chỉ tiêu - giải pháp kỳ kế hoạch (X+1)......................147
Kế hoạch theo dõi đánh giá ........................................................................154
Chương 6: TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ THEO DÕI ĐÁNH GIÁ KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN ........................................................................................................................ 165
TỔ CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH ............................................................. 165
Ý nghĩa và nhiệm vụ tổ chức thực hiện kế hoạch ......................................165
Lập kế hoạch hành động ............................................................................166
Tổ chức thực thi kế hoạch hành động ........................................................171
THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN ............................... 174
iii


Ý nghĩa và nhiệm vụ của theo dõi, đánh giá kế hoạch ..............................174
Các phương pháp theo dõi và đánh giá ......................................................177
Các phương thức thực hiện ........................................................................181

Quy trình kỹ thuật thực hiện theo dõi đánh giá .........................................181
PHẦN B: CÁC KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ... 190
Chương 7: KẾ HOẠCH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .............................................. 191
TỔNG QUAN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ KẾ HOẠCH TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ .................................................................................................. 191
Bản chất và các chỉ tiêu phản ánh của tăng trưởng kinh tế ........................191
Kế hoạch tăng trưởng kinh tế .....................................................................192
XÁC ĐỊNH CHỈ TIÊU KẾ HOẠCH TĂNG TRƯỞNG THEO MƠ HÌNH TĂNG
TRƯỞNG – ĐẦU TƯ ................................................................................................ 195
Kế hoạch tăng trưởng phù hợp và tối ưu ...................................................195
Phương pháp xác định chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng theo mô hình tăng trưởng
- đầu tư (Mơ hình Harrod - Domar) ...........................................................198
XÁC ĐỊNH CHỈ TIÊU TĂNG TRƯỞNG KỲ KẾ HOẠCH THEO PHƯƠNG
PHÁP HỒI QUY TUYẾN TÍNH (OLS) .................................................................... 205
Giới thiệu phương pháp .............................................................................205
Ứng dụng phương pháp hồi quy tuyến tính vào xác định mục tiêu tăng trưởng
GDP ........................................................................................................207
Chương 8: KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ ................ 216
TỔNG QUAN VỀ CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÀ KẾ HOẠCH CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ .......................................................................... 216
Cơ cấu ngành kinh tế..................................................................................216
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế .............................................217
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ..............................................218
XÁC ĐỊNH CÁC CHỈ TIÊU KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ THEO PHƯƠNG PHÁP CÂN ĐỐI I-O ................................................... 221
Giới thiệu mơ hình bảng đầu vào – đầu ra .................................................221
Xác định chỉ tiêu trong kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành theo mơ hình I –
O
........................................................................................................229
XÁC ĐỊNH CÁC CHỈ TIÊU KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH

KINH TẾ THEO PHƯƠNG PHÁP HỒI QUY TUYẾN TÍNH ................................ 235
iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CN-DV:

Công nghiệp - dịch vụ

DNNN:
GDP:

Doanh nghiệp nhà nước
Tổng sản phẩm quốc nội

GDĐT:
FDI:

Giáo dục đào tạo
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

I-O:
KTXH:
KH:

Bảng cân đối liên ngành
Kinh tế xã hội
Kế hoạch

KHH:

KHPT:

Kế hoạch hoá
Kế hoạch phát triển

KHHPTKTXH:
KHHĐ:
KH&ĐT:
KHHGĐ:
KHNS:
KHNSNN:
MTEF:
MPS:

Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội
Kế hoạch hành động
Kế hoạch và đầu tư
Kế hoạch hố gia đình
Kế hoạch ngân sách
Kế hoạch ngân sách nhà nước
Khung khổ chi tiêu trung hạn
Hệ thống sản phẩm vật chất

NN&PTNT:
NS:
NSNN:
NSLĐ:
NICs:
LĐTB&XH:
OECD:

OED:
PACL:

Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Ngân sách
Ngân sách nhà nước
Năng suất lao động
Các nước công nghiệp mới
Lao động thương bình và xã hội
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Từ điển Tiếng anh Oxford
Phương án chiến lược

PTKT:
RBM:
RF:
SWOT:
SNA:
TDĐG:
TNMT:

Phát triển kinh tế
Quản lý dựa trên kết quả
Khung kết quả
Mạnh, yếu,cơ hội, thách thức
Hệ thống sản phẩm quốc gia
Theo dõi đánh giá
Tài nguyên môi trường
vii



TCKH:

Tài chính kế hoạch

XĐGN:

Xố đói giảm nghèo

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

UBND:
UBKHNN:

Uỷ ban nhân dân
Uỷ ban kế hoạch nhà nước

UN:
UNDP:

Liên Hợp Quốc
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc

VN:
VL:
WB:

Việt Nam

Việc làm
Ngân hàng Thế giới

viii


LỜI GIỚI THIỆU
Thực tiễn phát triển của nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh,
trong đó công ty tư nhân chiếm ưu thế như Mỹ, Anh, Nhật Bản, v.v…, cũng như sự
thành công trong phát triển kinh tế trong nhiều chục năm liền (kể từ những năm 1960)
của các nước cơng nghiệp hóa mới (NIC) tiêu biểu như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,
đã cho thấy kế hoạch hóa (KHH) ln đóng vai trị sống cịn. Nhận thức được việc thả
lỏng hoàn toàn sự vận hành của nền kinh tế cho cơ chế thị trường có thể dẫn đến tình
trạng kinh tế mất ổn định cao độ, chính phủ của các nước này đã tích cực lập kế hoạch
để tạo điều kiện ổn định hóa nền kinh tế trong khi vẫn kích thích tăng trưởng nhanh. Ở
Việt Nam, kể từ khi chuyển đổi cơ chế tập trung mệnh lệnh sang cơ chế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, Kế hoạch (KH) vẫn được sử
dụng với tư cách là công cụ định hướng, điều tiết vĩ mô hoạt động kinh tế - xã hội và
vẫn khẳng định được tầm quan trọng của nó. Bước sang giai đoạn phát triển mới 20162020, Quốc Hội khóa 13 đã ban hành Nghị quyết số 77/2014/QH13 về kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội, theo đó, “giao Chính phủ rà sốt, tính tốn và xây dựng hệ thống
chỉ tiêu kinh tế, xã hội, mơi trường theo kế hoạch 5 năm, hàng năm có tính khoa học,
định lượng và phù hợp, báo cáo Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 10 và đưa vào áp dụng
từ kế hoạch năm 2016”. Thể hiện vai trò chủ động định hướng sự phát triển kinh tế - xã
hội của Chính phủ, Thủ tướng Nguyên Xuân Phúc đã ban hành Quyết định 622/QĐ –
TTg ngày 10 tháng 7 năm 2017, về “Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương
trình nghị sự 2030 về sự phát triển bền vững”. Theo đó, mục tiêu phát triển bền vững
nền kinh tế đã được xác định rõ ràng, đó là: Duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đối
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, quản lý và sử
dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm mọi người
dân được phát huy mọi tiềm năng, tham gia và thụ hưởng bình đẳng thành quả của phát

triển; xây dựng một xã hội Việt Nam hịa bình, thịnh vượng, bao trùm, dân chủ, cơng
bằng, văn minh và bền vững.
Vai trò của sự điều tiết nền kinh tế bằng KHH đã được khẳng định trên thực tiễn
phát triển của các nước và của Việt Nam. Tuy nhiên, lý luận về KHH trong nền kinh tế
thị trường vẫn cần phải hoàn thiện. Việt Nam vốn là một quốc gia có lịch sử áp dụng cơ
chế KHH tập trung mệnh lệnh trong nhiều năm trước đây thì việc hệ thống hóa, bổ sung,
lấp khoảng trống trong lý luận hiện tại về KHH phát triển (bao gồm cả tư duy, cách tiếp
cận, nguyên tắc, nội dung, phương pháp v.v…) là một nhiệm vụ quan trọng đối với
ngành KH nói chung và các cơ quan nghiên cứu, các trường Đại học giảng dạy về KH
nói riêng.
1


Sau 4 năm kể từ khi chuyên ngành Kế hoạch được đào tạo trở lại ở trường Đại học
Kinh tế Quốc dân (năm 1998), cuốn Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển lần đầu tiên do
Bộ môn Kinh tế Phát triển, Khoa Kế hoạch và Phát triển biên soạn, đã được xuất bản
năm 2002, NXB Thống kê. Sau 16 năm sử dụng, cuốn giáo trình đã được tái bản 2 lần
(năm 2006 và năm 2009). Mỗi lần tái bản, Giáo trình đều được bổ sung các ý tưởng, nội
dung và tư liệu mới để lấp dần khoảng trống về lý luận và thực tiễn KHH ở Việt Nam.
Đến nay, bối cảnh kinh tế xã hội của đất nước đã có nhiều thay đổi: Việt Nam đã ra khỏi
danh sách các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp; cơ chế kinh tế thị trường đang
từng bước được hoàn thiện, hội nhập quốc tế ngày càng phát triển; Việt Nam đang thực
hiện giai đoạn 2 của Chiến lược phát triển cơng nghiệp hóa đất nước giai đoạn 2011 2020, nhiều nội dung đổi mới, trong đó đổi mới thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN, tiếp tục được xem là một khâu đột phá quan trọng nhất, quản lý theo kết quả
đang trở thành một xu hướng chung không thể đảo ngược trong khu vực cơng trên tồn
thế giới. Với các động lực nói trên và mục tiêu nhằm hệ thống hoàn chỉnh, cập nhật lý
luận và thực tiễn về KHH ở Việt Nam, Bộ môn Kinh tế Phát triển tiến hành biên soạn
và xuất bản cuốn giáo trình lần thứ 4.
Về nội dung
Cuốn giáo trình xuất bản lần này đặt ra nhiều thay đổi. Cơ sở của sự thay đổi xuất

phát từ các quan điểm xuyên suốt của tập thể tác giả, đó là: (i) KHH là một phương thức
hữu hiệu để quản lý sự phát triển và tổ chức thực hiện các hoạt động phát triển, không
chỉ đối với toàn nền kinh tế, mà cả đối với các địa phương, các tổ chức kinh tế, xã hội,
thậm chí cả đối với từng cá nhân và gia đình; (ii) Yêu cầu thực hiện nhà nước kiến tạo
phát triển, nhất là trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, đòi hỏi phải nâng cao
năng lực của các cấp quản lý nhà nước trong công tác hoạch định sự phát triển, thông
qua việc nâng chất của các bản kế hoạch phát triển, với chức năng là một công cụ để
nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở các cấp khác nhau; (iii) Trong nền kinh
tế thị trường, trên góc độ quản lý điều hành tầm vĩ mơ, phương thức KHH chỉ có hiệu
quả khi tư duy chiến lược được quán xuyến trong tất cả các khâu của quy trình KHH;
(iv) Vận dụng các nguyên tắc và các công cụ của cách tiếp cận KH dựa trên kết quả
(chuỗi kết quả) là hướng đi có cơ sở khoa học, đảm bảo tính logic trong việc thực hiện
các khâu của quy trình KHH, nhất là trong xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của
kế hoạch cũng như lập KH theo dõi đánh giá và tổ chức thực hiện KH; (v) Những tư
tưởng mới của Chính phủ Việt Nam trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong thời gian tới.
Các quan điểm trên đã đặt ra các yêu cầu hoàn thiện cuốn Giáo trình KHH phát
triển theo hướng: một là, làm rõ hơn so với các lần xuất bản trước khía cạnh về nguyên
2


lý chung của KHH trong nền kinh tế thị trường, trong đó nhấn mạnh đến các điều kiện
tiền đề của KHH, chức năng của công cụ KH (trong sự phân định sân chơi với cơng cụ
thị trường), các khía cạnh về nguyên tắc KHH, những nguyên nhân thất bại của KH; Hai
là, bổ sung đầy đủ các bước, quan điểm tiếp cận và tính logic giữa các bước trong quy
trình KHH (bao gồm lập kế hoạch, tổ chức thực hiện KH, theo dõi và đánh giá KH), mỗi
khâu, làm rõ nội dung và phương pháp thực hiện để bảo đảm yêu cầu về tính nghiệp vụ
cụ thể trong việc lập kế hoạch (ở các cấp) cũng như tổ chức triển khai, theo dõi và đánh
giá KH; Ba là, đối với phần các KH phát triển kinh tế - xã hội, cần đảm bảo tính thống
nhất trong cách tiếp cận của lý thuyết phát triển và sắp xếp theo hai nhóm, đó là: nhóm

các KH phản ánh mục tiêu phát triển (tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế và tiến bộ xã hội cho con người) và nhóm các KH về nguồn lực cho phát triển
(vốn, lao động, ngân sách); Bốn là, Thực tiễn đổi mới KHH ở Việt Nam và thế giới đang
diễn ra khá mạnh mẽ, nhất là trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển ngày
càng nhanh, vì thế nội dung, phương pháp và các cơng cụ sử dụng trong kế hoạch hố
phát triển cần được cập nhật theo các xu hướng hiện đại, tuy nhiên vẫn mạng mầu sắc
của Việt Nam, phù hợp với tính chất phát triển của nền kinh tế và mục tiêu thực hiện vai
trò nhà nước kiến tạo phát triển đặt ra.
Để bảo đảm được các yêu cầu nói trên, nội dung cuốn sách có những sự thay đổi
so với cuốn giáo trình xuất bản năm 2009 như sau: Chương “KHH Phát triển trong nền
kinh tế thị trường” (của giáo trình cũ) được tách thành hai chương: Cơ sở lý luận của
KHH PT và Bản chất – chức năng – nguyên tắc của KHH phát triển, nhằm trang bị đầy
đủ và rõ ràng hơn các khía cạnh về nguyên lý KHH. Nguyên lý quản lý dựa trên kết quả
được sử dụng xem như là tư duy xuyên suốt trong nội dung về nguyên lý kế hoạch hoá
phát triển, nên giáo trình có bổ sung nội dung này một cách hệ thống trong phần các
nguyên tắc KHH phát triển. Ngồi chương Lập kế hoạch phát triển đã có ở trong cuốn
giáo trình 2009, cuốn giáo trình này có bổ sung thêm 2 nội dung là Tổ chức thực hiện
kế hoạch và Theo dõi – đánh giá kế hoạch để bảo đảm tính hệ thống, đầy đủ của quy
trình KHH PT. Để bảo đảm thống nhất cách tiếp cận theo lý thuyết phát triển, giáo trình
xuất bản lần này chỉ tập trung vào KH phản ánh 3 mục tiêu phát triển là tăng trưởng kinh
tế, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và tiến bộ xã hội cho con người, bỏ đi một số
chương viết về KHPT các ngành cụ thể, đó là: KHPT cơng nghiệp, KHPT nơng nghiệp,
KHPT thương mại quốc tế. Các KH mục tiêu phát triển và các KH về các yếu tố nguồn
lực được sắp xếp lại thành hai nhóm riêng để bảo đảm tính hệ thống của KHPT.
Về kết cấu: Giáo trình được chia thành hai phần:
Phần A (từ chương 1 đến chương 6): Nguyên lý KHH phát triển. Trong phần
này, sau chương Nhập môn KHH (chương 1) giới thiệu các khái niệm liên quan đến KH,
3



lịch sử KHH ở VN, kinh nghiệm KHH ở các nước và đối tượng, nội dung nghiên cứu,
giáo trình sẽ giới thiệu: (i) Cơ sở lý luận về sự cần thiết của KHHPT trong nền kinh tế;
(ii) Bản chất, chức năng, nguyên tắc KHHPT; (iii) Hệ thống KHHPT theo nội dung,
theo góc độ nguyên lý nhận diện các bộ phận khác nhau trong hệ thống KHH ở Việt
Nam; (iv): Quy trình KHH phát triển, bao gồm nội dung, phương pháp, công cụ để thực
hiện các khâu lập KH, Tổ chức thực hiện và theo dõi và đánh giá KH. Để cân đối về độ
dài của các chương, các khâu tổ chức thực hiện kế hoạch và theo dõi đánh giá kế hoạch
được ghép vào 1 chương (chương 6).
Phần B (từ chương 7 đến chương 12): Các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
trình bày sự vận dụng nguyên lý KHH phát triển đã giới thiệu trong phần A vào lập các
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Nội dung của phần B được kết cấu theo
thứ tự: các kế hoạch mang tính mục tiêu phát triển và các kế hoạch nguồn lực phát triển.
KH mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội (từ chương 7 đến chương 9): trình bày
nội dung, phương pháp lập các KH mang tính chất mục tiêu của phát triển, đó là: KH
tăng trưởng kinh tế, KH chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và KH tiến bộ xã hội.
KH các yếu tố nguồn lực (từ chương 10 đến chương 12) bao gồm: KH vốn đầu
tư, KH lao động – việc làm và KH ngân sách. Các chương này trình bày KH mang tính
biện pháp (về nguồn lực) vốn, lao động và ngân sách nhằm thực hiện các kế hoạch mục
tiêu PTKTXH.
Trong các chương của phần B, bên cạnh những kiến thức trình bày mang tính hệ
thống như khái niệm, vị trí, nhiệm vụ của từng kế hoạch, nội dung chính tập trung giới
thiệu phương pháp, kỹ năng tính tốn xác định các chỉ tiêu của kế hoạch đó.
Về tác giả
Điểm nổi bật trong lần xuất bản này là đã sử dụng sự góp sức của tồn thể các giáo
viên của Bộ môn Kinh tế phát triển, cùng với sự tham gia biên soạn của nhiều giáo viên,
nhà nghiên cứu ở trong và ngồi trường. GS.TS Ngơ Thắng Lợi là chủ biên giáo trình,
trực tiếp tham gia biên soạn các chương 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9; GS.TSKH Nguyễn Quang
Thái (chương 1, 2, 3); PGS.TS Trần Thị Vân Hoa (chương: 9, 10); PGS.TS Vũ Cương
(chương 3, 12); PGS.TS Bùi Đức Tuân (chương: 4, 6, 11); PGS.TS Vũ Thành Hưởng
(chương 10, 11, 12); TS Nguyễn Quỳnh Hoa (chương 8, 10); TS Phí Thị Hồng Linh

(chương 5); TS Lê Huỳnh Mai (chương 6); Th.s Bùi Thị Thanh Huyền (chương 9); Th.s
Ngô Quốc Dũng (chương 5, 7, 8); Ths. Nguyễn Quốc Thịnh (chương 1). Phần bài tập
của các chương trong giáo trình được biên soạn bởi: TS Phí Thị Hồng Linh, TS Lê
Huỳnh Mai, Ths Bùi Thị Thanh Huyền, Ths Ngô Quốc Dũng.
Chúng tôi xin gửi lời biết ơn đến: GS Trần Đình Bút, GS Tơn Tích Thạch, GS.TS
Vũ Thị Ngọc Phùng, GS.TSKH Nguyễn Quang Thái, GVC Lê Hữu Khi, là những người
4


có vai trị đặt nền móng cho cuốn sách kể từ những ngày đầu tiên hình thành, trực tiếp
tham gia biên soạn và nhiều tư tưởng, quan điểm của các thầy cô vẫn được tiếp tục kế
thừa trong cuốn giáo trình xuất bản lần này.
Trân trọng cám ơn Ban Giám Hiệu Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hội đồng
thẩm định, Phòng Quản lý đào tạo, Phòng Quản lý khoa học, Nhà xuất bản Đại học Kinh
tế Quốc dân và cuối cùng là toàn thể các đồng nghiệp, đã cho phép và tạo mọi điều kiện
cho sự ra đời kịp thời cuốn giáo trình Kế hoạch hóa phát triển.
BỘ MƠN KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

5


Chương 1
NHẬP MƠN KẾ HOẠCH HỐ PHÁT TRIỂN
“Kế hoạch hố là sự vận dụng trí thơng minh để
xem xét những sự việc và tình trạng như chúng
vốn có và tìm cách giải quyết được các vấn đề”
(Jawaharlal Nehru)

“Nếu Kế hoạch hố là tất cả thì có

thể nó khơng là cái gì” (Wildavsky,
1973).

Giới thiệu chương
Thuật ngữ Kế hoạch hóa (KHH), kế hoạch (KH) và những khái niệm cụ thể của
những thuật ngữ tương tự như trên hiện đang được sử dụng không nhất quán. Hơn nữa,
việc sử dụng thuật ngữ này quá rộng đã làm cho rất khó nhận biết được những yếu tố
cơ bản cấu thành nó và cũng khơng dễ dàng phân biệt nó với những hoạt động có liên
quan. Với cách lập luận logic nói trên, chương này trước hết làm rõ các khái niệm về
KH, KHH, KHH phát triển (KHHPT), KHHPT Kinh tế - xã hội (KHHPTKTXH), tiếp đó
là giới thiệu về KHHPT ở một số nước trên thế giới, sau đó quay trở lại tổng quan về
lịch sử KHH ở Việt Nam từ năm 1955 đến nay và cuối cùng đề cập đến đối tượng, nội
dung nghiên cứu mơn học KHHPT.
CÁC KHÁI NIỆM
Kế hoạch
Có nhiều định nghĩa khác nhau về kế hoạch. Mỗi định nghĩa đưa ra đều phục vụ
cho một mục tiêu nghiên cứu phản ánh từng góc độ khác nhau. Giáo trình đưa ra một
khái niệm mang tính tổng hợp nhất, theo đó: kế hoạch là sự thể hiện mục đích, kết quả
cần đạt tới đối với các hoạt động được lựa chọn trong tương lai cũng như cách thức,
giải pháp tổ chức thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu đó.
Theo cách hiểu tổng quát này, nếu xét về nội dung cốt lõi thì KH ln hàm chứa
hai yếu tố, đó là những mục tiêu cần đạt tới trong tương lai và những giải pháp tổ chức
thực hiện các mục tiêu đó. Tuy vậy, không nên chỉ hiểu đơn giản sản phẩm chung của
KH là bao hàm được 2 yếu tố cấu thành, mà cần phải hiểu rõ hơn thực chất của việc làm
thế nào để có được chúng trong KH. Điều này liên quan đến bản chất của KH là gì?
Nếu xét về bản chất, cần nhấn mạnh đến 2 điểm, đó là (i) KH phản ánh sự hướng
tới tương lai và (ii) KH là thể hiện sự lựa chọn
Thứ nhất, KH là phản ánh sự hướng tới tương lai

7



Có thể nói KH được xem như là nhịp cầu nối từ hiện tại đến chỗ mà chúng ta muốn
đến trong tương lai. Tính chất hướng tới tương lai trong KH thể hiện ở hai nội dung:
một là, kế hoạch dự đốn những gì sẽ xảy ra, đặt ra kết quả đạt được trong tương lai; hai
là, kế hoạch thực hiện việc sắp đặt các hoạt động của tương lai, các công việc cần làm
và thứ tự thực hiện các công việc để đạt được kết quả đã định. Kế hoạch xác định xem
một quá trình phải làm gì? làm thế nào? khi nào làm? ai sẽ làm? và sâu hơn nữa là làm
như thế để làm gì. Ví dụ như, một nhóm sinh viên có ý định đi dã ngoại từ trường đến
một địa điểm cách xa trường 50 km nhân dịp nghỉ lễ Quốc khánh 2/9, điều đó chính là
họ đang làm kế hoạch (nội dung thứ nhất của kế hoạch); Họ phải lựa chọn giữa các
đường đi và phương tiện giao thông, thời gian đi, địa điểm xuất phát, sắp xếp một loạt
các vấn đề cho chuyến đi phù hợp với nguồn lực hiện có của cả nhóm (nội dung thứ hai
của KH). Một ví dụ khác, người nông dân quyết định chuyển đổi giống cây trồng để
tăng thu nhập của gia đình, anh ta sẽ phải nghĩ tới việc trồng cây gì hàng năm, gieo trồng
bao nhiêu mỗi vụ, khi nào thì gieo trồng, khi đưa ra các quyết định này anh nông dân
cũng phải dựa trên sự sẵn có của các nguồn lực như đất đai, giống, lao động, tài chính,
cơng cụ kỹ thuật, kể cả thời tiết, khí hậu điều đó có nghĩa là người nông dân này đang
làm kế hoạch. Ở phạm vi lớn hơn, ví dụ: Bộ Tài chính là những người chịu trách nhiệm
tư vấn cho Chính phủ hàng năm về cân đối thu nhập với tiêu dùng, cũng phải có kế
hoạch. Với mục tiêu tăng thuế và giảm chi tiêu chẳng hạn, họ phải đưa ra các dự kiến
về các loại thuế cần thu, các khoản chi tiêu nào cần cắt giảm, làm thế nào để mở rộng
sản xuất cho xuất khẩu, giảm nhập khẩu mặt hàng gì.
Thứ hai, KH có nghĩa là sự lựa chọn.
Trên thực tế, chúng ta có rất nhiều mong muốn, những gì sẽ xảy ra trong tương lai
cũng rất phong phú, đa dạng mà có lẽ không thể một lúc làm ngay và đạt được ngay
những mong muốn đó. Vì thế, làm kế hoạch tức là thực hiện sự lựa chọn để xác định
trong khoảng thời gian nhất định (gọi là kỳ kế hoạch), chúng ta sẽ phấn đấu đạt được
nhưng mong muốn nào? sẽ thực hiện làm những gì? Cùng với sự lựa chọn các mong
muốn cần đạt được, tính chất lựa chọn trong kế hoạch còn thể hiện ở sự lựa chọn cách

thức, giải pháp tổ chức phối hợp, các nguồn lực cần có để thực hiện mong muốn đó. Để
thực hiện được các mục tiêu đặt ra, sẽ cần nhiều sự tiêu phí nguồn lực và cần có cách
thức tổ chức thực hiện. Tuy nhiên sẽ là rất kém thuyết phục nếu chúng ta chỉ đưa ra một
phương án tổ chức triển khai thực hiện mục tiêu và tương ứng chỉ có một phương án
huy động phân bổ và sử dụng nguồn lực thực hiện, vì trên thực tế sẽ có nhiều phương
án khác nhau. Vì thế KH chính là đưa ra những phương án tổ chức thực hiện khác nhau

8


và thực hiện sự lựa chọn một trong số những phương án sao cho có tính khả thi và đạt
hiệu quả cao nhất.
Để có kế hoạch, cần phải tiến hành q trình soạn lập. Tùy theo quy mơ, mức độ
và tính chất của hoạt động để tổ chức q trình soạn lập với các mức độ khác nhau.
Nhiều khi quá trình soạn lập kế hoạch chỉ được hình thành trong đầu óc, suy nghĩ của
chủ thể (đó là các kế hoạch hoạt động của cá nhân), cũng có thể là một cuộc trao đổi tập
thể nhanh gọn và người đứng đầu quyết định xem như là sự thỏa thuận bằng miệng hoặc
văn bản (một hoạt động tập thể nhỏ duy trì trong một thời gian ngắn, như là kế hoạch
cho một cuộc đi chơi dã ngoại, một buổi liên hoan, một buổi thảo luận v.v...), các kế
hoạch kinh tế, xã hội có liên quan đến cộng đồng, kế hoạch của một doanh nghiệp, một
địa phương, một ngành hay rộng hơn là tầm quốc gia thì thơng thường q trình soạn
lập phải được thể chế hóa bao gồm các bước khác nhau với tiến độ thời gian quy định
khá chính xác. Kết quả của quá trình soạn lập kế hoạch là một “kế hoạch” được hình
thành. Một “kế hoạch” ở bất kỳ quy mơ hay hình thức nào thì nó cũng phải hàm chứa
hai nội dung cơ bản là mục tiêu và cách thức, giải pháp thực hiện. Tuy vậy, sản phẩm
của việc lập KH cũng khá phong phú, rõ ràng nhất nó thể hiện ở một văn bản cụ thể
cung cấp kế hoạch chi tiết cho hoạt động trong tương lai, nhưng có thể nó thể hiện dưới
dạng một sơ đồ tổ chức, ngân sách hàng năm, hoặc một bản ghi nhớ hướng dẫn mọi
người đảm nhận những nhiệm vụ cụ thể. Để cho kế hoạch thực sự trở thành cơng cụ
điều hành hoạt động, tốt nhất nó phải được thực hiện theo cơ chế nhiều bên tham gia (kể

cả kế hoạch hành động cá nhân) và được quyết định trên cơ sở lựa chọn từ nhiều phương
án, quá trình soạn lập KH được xem như là công nghệ của sự lựa chọn tối ưu.
Kế hoạch hoạt động và Kế hoạch phát triển
Khái niệm và bản chất nêu ở mục (1.1.1) đúng cho các loại kế hoạch, có thể là KH
cho một hoạt động sẽ làm nhưng cũng có thể là một KH cho tương lai. KH hoạt động
(hành động) là kế hoạch thực hiện một công việc, một dự án cụ thể sắp sửa làm (ví dụ
như: kế hoạch cho buổi khai giảng năm học, kế hoạch cho buổi đi thực tế ở công ty, kế
hoạch xây dựng một con đường v.v...); kế hoạch cho sự phát triển trong tương lai của
một cá nhân, gia đình, hay của một tổ chức kinh tế, xã hội được gọi là kế hoạch phát
triển. Đối tượng xử lý của giáo trình chính là KH phát triển. Các kế hoạch phát triển cho
một đơn vị với các mức độ quy mô khác nhau đều mang tính chất và nội dung đầy đủ
hơn so với kế hoạch hoạt động. Gắn với nội dung của quy trình quản lý, thì kế hoạch
phát triển thuộc chức năng đầu tiên và quan trọng nhất của quy trình quản lý, đó là sự
thể hiện ý đồ của chủ thể về sự phát triển trong tương lai của đối tượng quản lý và các
giải pháp để thực thi.
9


Về mặt nội dung, KH (kể cả KH hoạt động hay KH phát triển) đều hàm chứa hai
nội dung là hướng tới tương lai và giải pháp tổ chức thực hiện nhưng mức độ thể hiện
hai nội dung thì khác nhau. KH hành động là kế hoạch thực hiện một hoạt động đã xác
định trước (đã có) vì thế nội dung hướng tới tương lai mang tính chất nhẹ nhàng hơn,
nó chỉ là mục tiêu hồn thành được cơng việc đã đặt ra. Trong khi đó, đối với KH hành
động thì hệ thống giải pháp lại được quan tâm một cách chi tiết, cụ thể và mang tính tác
nghiệp tiến độ rõ ràng. Đối với KH phát triển thì điều quan tâm nhất lại phải là những
mục tiêu, đích cần đạt tới trong kỳ KH như thế nào. Thời kỳ KH càng dài thì KH phát
triển lại càng phải đặt vấn đề trả lời câu hỏi hướng tới bức tranh tương lai một cách chu
đáo hơn. Từ việc xác định rõ bức tranh tương lai thì hệ thống giải pháp trong KH phát
triển cũng mang tính chất tổng hợp hơn và được hình thành theo các nhóm giải pháp đối
với việc thực hiện từng mục tiêu của bức tranh tương lai (có thể gọi là các định hướng

giải pháp).
Như vậy, đối tượng lập KH bao gồm nhiều loại hình khác nhau, có thể là hoạt động
của một cá nhân, một gia đình, một tập thể, hay hoạt động kinh tế, xã hội với các mức
độ quy mô khác nhau như một doanh nghiệp, ngành kinh tế - kỹ thuật, địa phương, vùng
và phạm vi lớn nhất là toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tất cả các hoạt động trên, muốn
thực hiện một cách tốt đẹp đều cần phải có kế hoạch. Giáo trình chỉ đề cập đến kế hoạch
ở tầm vĩ mô, tức là kế hoạch trên phạm vi nền kinh tế quốc dân, có thể vận dụng ở phạm
vi một địa phương hay một ngành.
Kế hoạch hóa phát triển
Trên thực tế thường hay có sự nhầm lẫn giữa KH phát triển (KHPT) và kế hoạch
hóa phát triển (KHHPT), thậm chí có người cịn đồng nhất hai khái niệm này và cho
rằng kế hoạch hóa là q trình soạn lập kế hoạch, kết quả của quá trình KHH là tạo ra
các văn bản dự thảo về những dự định và giải pháp thực hiện trong tương lai. Chính vì
sự nhầm lẫn ấy mà công tác kế hoạch thường được kết thúc bằng sự ra đời của bản kế
hoạch. Kết quả là một hoạt động mặc dù có kế hoạch nhưng lại không được triển khai
thực hiện theo kế hoạch và rút cuộc là kế hoạch vẫn chỉ là trên giấy, cịn các mục tiêu
của kế hoạch thì khơng thực hiện được, gọi là “KH vạch ra để đấy”. Thực chất, KH và
KHH là hai khái niệm khác nhau. KH hàm chứa những dự định về kết quả và giải pháp
thực hiện trong tương lai, nhưng việc tạo ra kế hoạch khơng thể được coi là mục đích
của KHH, nó chỉ là bước đầu tiên của quy trình KHH. Mục đích của KHH phải là làm
thế nào để thực hiện được các mục tiêu đặt ra trong kế hoạch, biến những giải pháp,
chương trình hành động đặt ra trong KH thành thực tế. Điều đó có nghĩa là, KHH cịn

10


nhấn mạnh đến các q trình khác nữa, đó là quá trình tổ chức, triển khai các hoạt động
trên thực tế theo KH.
Với ý nghĩa tổng quát nhất và cho mọi hoạt động, Diana Conyers (Đại học
Nottingham) và Peter Hills (Đại học Hồng Kông) trong cuốn “Giới thiệu về kế hoạch

phát triển trong thế giới thứ ba” cho rằng: Kế hoạch hóa là một q trình liên tục bao
gồm việc đưa ra các mục tiêu cần đạt tới trong tương lai; lựa chọn và quyết định các
phương pháp khác nhau trong tổ chức, sử dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có nhằm hướng
tới việc thực hiện mục tiêu đặt ra cho tương lai. Quan điểm của OECD là: “KHH được
hiểu là các hoạt động nhằm tạo ra và thực thi kế hoạch, bao gồm thiết kế ra, vạch ra từ
trước một kế hoạch để xây dựng và thực thi” (OECD, 1971). PGS.TS Ngơ Dỗn Vịnh,
Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ KH&ĐT) cho rằng: “nói một cách đơn giản,
KHH chính là làm cho cơng việc diễn ra một cách có KH. Cụ thể hơn, nói KHH tức là
nói đến lập KH và biến KH thành thực tế cuộc sống đối với một công việc cụ thể hay
đối với một hệ thống nhất định. Tất cả các quan điểm nói trên đều đã nhấn mạnh đến
KHH là một phương thức quản lý dựa trên mục tiêu, đó là q trình thực hiện sự can
thiệp có ý thức, có chủ định của chủ thể vào đối tượng quản lý dựa trên cơ sở kế hoạch
(mục tiêu) được xác định trước.
Với các quan niệm mang tính bản chất trên, KHHPT được hiểu là q trình soạn
lập để có một bản KH tốt và sử dụng nó với chức năng là cơng cụ điều tiết các hoạt
động diễn tra trên thực tế. KHHPT, nếu hiểu là một quy trình, một phương thức thì bao
gồm các giai đoạn: (1) Soạn lập kế hoạch (mở rộng hơn là soạn lập các văn bản mang
tính kế hoạch), nhiệm vụ chính của bước này là soạn lập kế hoạch, trong đó nội dung
chính là xác định mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu phát triển và hệ thống giải pháp chính
sách áp dụng trong thời kỳ kế hoạch; (2) Tổ chức thực hiện kế hoạch, bao gồm quá trình
tổ chức phối hợp hoạt động của các bên, sử dụng các chính sách, giải pháp nhằm khai
thác, huy động và sử dụng nguồn lực trong quá trình thực hiện mục tiêu kế hoạch; (3)
Theo dõi, kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh kế hoạch với những yếu tố mới phát sinh
trong mơi trường kinh tế, bao gồm q trình theo dõi thường xuyên hoạt động của hệ
thống kinh tế quốc dân; đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu kế hoạch và tác động của
kế hoạch đến phát triển kinh tế, xã hội; bổ sung và điều chỉnh kế hoạch trong kỳ hoặc
kỳ kế hoạch sau.
Kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội
Trên phạm vi nền kinh tế quốc dân, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, khái niệm
về kế hoạch hóa kinh tế quốc dân được nêu ra trong Từ điển Bách khoa toàn thư của

Liên Xơ như sau: Kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân là một hoạt động tự giác của Nhà
11


nước chun chính vơ sản để quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu kinh
tế, xã hội thống nhất xác định trước, nhằm xác định quy mô, cơ cấu và các quan hệ cân
đối hợp lý, tạo ra bước đi và cơ cấu có lợi nhất với hiệu quả kinh tế cao bằng cách khai
thác mọi tiềm năng để không ngừng mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
Giáo trình Kế hoạch hóa kinh tế quốc dân của Khoa Kế hoạch kinh tế quốc dân, xuất
bản năm 1972 đã đưa ra định nghĩa: “KHH kinh tế quốc dân về bản chất là một phương
pháp quản lý kinh tế quốc dân của nhà nước chun chính vơ sản, theo phương thức
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, nhằm xác định những tốc độ và quan hệ cân đối hợp lý
nhất, tạo ra những bước đi và cơ cấu có lợi nhất, dự kiến từ trước với hiệu quả kinh tế
cao nhất trong thời kỳ kế hoạch”. Các khái niệm này phản ánh: (1) KHH chính là một
phương thức quản lý nền kinh tế quốc dân bằng mục tiêu; (2) KHH kinh tế quốc dân
bao gồm bao gồm ba mặt công tác: công tác xây dựng kế hoạch; công tác lãnh đạo và tổ
chức thực hiện kế hoạch và công tác theo dõi kiểm tra và đánh giá thực hiện kế hoạch.
Thực tế hiện nay cho thấy, sử dụng kế hoạch với tư cách là công cụ để điều tiết
hoạt động kinh tế vĩ mô không chỉ tồn tại duy nhất ở trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa;
hơn nữa, kế hoạch cũng không phải là một công cụ duy nhất quản lý nền kinh tế quốc
dân. Tuy vậy, khái niệm kế hoạch hóa như trên cũng vẫn giữ được cái cốt lõi chính.
Theo TS Lê Đăng Doanh “Kế hoạch hóa được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ
hành vi can thiệp một cách có chủ định của nhà nước vào nền kinh tế vĩ mô để đạt được
những mục tiêu đã được đề ra”; theo quan điểm TS Cao Viết Sinh thì “Kế hoạch hóa là
sự thiết lập mối quan hệ giữa khả năng và mục đích nhằm đạt được mục tiêu sử dụng có
hiệu quả nhất tiềm năng hiện có”. TS Đặng Đức Đạm cho rằng “Kế hoạch hóa vĩ mơ là
hoạt động của Chính phủ nhằm lựa chọn phương án sử dụng hợp lý các nguồn lực và
quyết định các giải pháp tác động đến biến số kinh tế vĩ mô chủ yếu theo hướng các mục
tiêu đã xác định trước.” v.v...
Tất cả những quan niệm về KHHPT nói trên, cơ bản vẫn thống nhất với bản chất

của công tác này được xác định trong cơ chế trước, sự khác biệt chỉ là nhấn mạnh tính
“mềm”, tính linh hoạt” hơn của việc sử dụng công cụ kế hoạch với tư cách là một trong
những cơng cụ khác nhau được Chính phủ sử dụng điều tiết nền kinh tế thị trường. Giáo
trình thống nhất sử dụng khái niệm về kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội được xác
định trong Từ điển bách khoa Việt Nam như sau: “Kế hoạch hóa là phương thức quản
lý vĩ mơ nền kinh tế quốc dân của nhà nước theo mục tiêu, là hoạt động của con người
trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội và tự nhiên, đặc biệt là quy luật
kinh tế để tổ chức quản lý các đơn vị kinh tế, các ngành, các lĩnh vực và toàn bộ nền
kinh tế Quốc dân theo những mục tiêu thống nhất; dự kiến trước phương hướng, cơ cấu,
12


tốc độ phát triển và có những biện pháp tương ứng bảo đảm thực hiện, nhằm đạt hiệu
quả kinh tế - xã hội cao” (tr.469, Từ điểm Bách khoa Việt Nam 2 - NXB Từ điển Bách
khoa, Hà Nội, 2002).
Như vậy nếu theo góc độ quy trình, phương thức thì KHHPT kinh tế - xã hội cũng
bao gồm 3 bước chính: lập KH - tổ chức triển khai thực hiện KH - theo dõi đánh giá
KH.
KHHPT kinh tế - xã hội nếu hiểu theo nội dung, bao gồm một hệ thống đầy đủ các
văn bản hoạch định của nhà nước. Tùy theo từng nước, hệ thống các văn bản hoạch định
có thể khác nhau. Ở Việt Nam, hệ thống này bao gồm: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển, kế hoạch phát triển và các chương trình dự án phát triển
kinh tế - xã hội. Tất cả các văn bản trên có mối quan hệ với nhau, nhằm hướng và tổ
chức hoạt động của nền kinh tế theo mục tiêu tổng thể, dài hạn của đất nước (địa phương,
ngành). Như vậy, kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội, nếu hiểu theo nội dung bao
gồm: (1) Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; (2) Xây dựng quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, nhằm cụ thể hóa quan điểm và nội dung chiến lược; (3) Xây dựng
kế hoạch trung hạn, kế hoạch hàng năm nhằm đưa chiến lược và quy hoạch vào thực
hiện từng bước.
LỊCH SỬ KẾ HOẠCH HOÁ Ở CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Các nước áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây

a.

Kế hoạch hố ở Liên Xơ cũ
Cuộc cách mạng của những người cộng sản năm 1917 ở nước Nga đã đưa ra một

con đường lựa chọn cho sự phát triển kinh tế. Sau khi thực hiện một số chính sách như:
chính sách cộng sản thời chiến, chính sách kinh tế mới, từ năm 1928, Liên Xơ bắt đầu
áp dụng hình thức kế hoạch tập trung nền kinh tế quốc dân bằng kế hoạch 5 năm đầu
tiên 1928-1932.
Đặc điểm của nền kinh tế kế hoạch hóa ở Liên Xơ là tập trung cao độ. Mơ hình hệ
thống kinh tế Liên Xơ cơ bản là kinh tế nhà nước, là nền kinh tế phi cạnh tranh, không
định hướng theo thị trường chịu sự lãnh đạo của Đảng và tập trung hóa, kế hoạch hóa
cao độ cả ở cấp vi mô và vĩ mô. Đây cũng là mơ hình kinh tế chung của các nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa trước đây. Có thể nêu lên các đặc trưng của nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung là:
- Đảng lãnh đạo trực tiếp và tồn diện nền kinh tế xã hội, trong nước khơng có thị
trường “tự do”: Các định hướng dài hạn của nền kinh tế đất nước và địa phương đều
được thông qua tại Đại hội Đảng các cấp và các cấp ủy Đảng chỉ đạo trực tiếp việc thi
hành chính sách kinh tế và giải quyết các khúc mắc trong quá trình phát triển kinh tế.
13


Trong nền kinh tế về cơ bản việc định giá nằm trong tay Nhà nước, theo các chính sách
kinh tế từng thời kỳ, không gắn với thị trường. Hoạt động ngoại thương cũng hoàn toàn
do Nhà nước nắm giữ theo đường lối của Đảng Cộng sản.
- Kế hoạch hóa tập trung cao độ với việc chuẩn bị, thông qua và điều hành kế hoạch
chi tiết từ Trung ương: Đại hội Đảng xác định các nhiệm vụ ưu tiên của nền kinh tế và
xác định các chỉ tiêu kinh tế quan trọng cho một thời kỳ dài 5-7 năm và định hướng dài
10 năm, đặt cơ sở cho công tác kế hoạch hóa. Sau đó Ủy ban kế hoạch nhà nước Liên
Xô (Gosplan) lập ra kế hoạch cụ thể cho các kế hoạch 5 năm, đơi khi có kế hoạch 7 năm

với các chỉ số kinh tế cụ thể cho thời hạn 5 năm và từng năm cụ thể. Các kế hoạch của
Gosplan sau khi được các cơ quan Đảng và Nhà nước thông qua sẽ được chuyển giao
cho các Bộ kinh tế và các nước Cộng hòa. Bộ quản lý ngành và các chính quyền địa
phương sẽ lập kế hoạch chi tiết cho ngành và địa phương, tiến hành giao các chỉ tiêu
kinh tế cụ thể, chi tiết cho từng doanh nghiệp dưới sự chủ quản của bộ. Các doanh nghiệp
trên cơ sở kế hoạch được giao sẽ tính tốn các nguồn lực và dự kiến có thể, đệ trình dự
thảo kế hoạch sản xuất lên các cơ quan chủ quản để đề nghị hiệu chỉnh và thông qua
như kế hoạch pháp lệnh. Để đảm bảo tài chính cho các kế hoạch sản xuất, các doanh
nghiệp sẽ nhận được tiền theo kế hoạch từ Gosbank (Ngân hàng nhà nước) và nhận
nhiên, nguyên vật liệu và các sản phẩm trung gian theo kế hoạch từ Gossnab (Cung ứng
nhà nước). Việc lập kế hoạch được thực hiện rất chi tiết: thậm chí Gosplan quy định đến
cả giá bán buôn và bán lẻ của các loại sản phẩm. Gosplan của Liên Xô thực sự là một
cơ quan “siêu bộ” với chức năng đặc biệt của chính phủ Liên Xơ thường do một Uỷ viên
Bộ Chính trị - Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách kinh tế chỉ đạo với đội ngũ
đông đảo các chuyên gia kinh tế, các nhà quản lý kế hoạch. Một khi nền kinh tế trong
nước và thế giới càng phức tạp thì việc lập kế hoạch chi tiết như vậy không thể nào sát
được với thực tế cuộc sống kinh tế của đất nước, khơng tính được các yếu tố thị trường.
Vì những lý do trên nền kinh tế của Liên Xô là nền kinh tế phi cạnh tranh và không định
hướng đến thị trường, ngày càng bộc lộ thiếu hiệu quả.
-Nền kinh tế nhà nước tập trung, với khu vực kinh tế Nhà nước có vị trí thống trị
(sau này gọi là “chủ đạo”), chủ yếu chỉ quan tâm kế hoạch hóa khu vực sản xuất vật
chất, coi nhẹ khu vực “dịch vụ”: Trong nền kinh tế Xơ Viết cịn có thành phần kinh tế
tập thể như các nông trang tập thể (Kolkhoz) và một số nhỏ sản xuất riêng lẻ trong nông
nghiệp, nhưng tỷ trọng áp đảo trong kinh tế là thành phần nhà nước với các nhà máy, xí
nghiệp trong cơng nghiệp và nơng trường quốc doanh (Sovkhoz) trong nông nghiệp.
Đây là nền kinh tế tập trung điển hình nhất. Khu vực sản xuất nhỏ và tiêu thụ dưới hình
thức chợ nơng trường có vị trí rất nhỏ bé trong nền kinh tế. Trong điều kiện “đơn thành
14



phần”, các chỉ tiêu đối với khu vực kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước được giao
chỉ tiêu chi tiết mà các đơn vị này không thể tự chủ xử lý các tình huống phát sinh (về
tăng giảm, đổi địa chỉ nơi cung cấp nguyên liệu, lao động đầu vào và tiêu thụ sản phẩm
dịch vụ).
- Nền kinh tế hoạt động “khép kín” với thế giới bên ngồi: Quan hệ giao thương
và đầu tư chủ yếu với các nước XHCN trong Hội đồng tương trợ kinh tế CONMECON.
Phần liên hệ với các nước thuộc hệ thống “tư bản” rất hạn chế vì liên quan đến giao dịch
ngoại tệ, với hệ thống tỷ giá được định “theo kế hoạch” mà khơng cơng nhận giá trị
thực…
Những đặc điểm tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng
như vậy tuy có tác dụng dễ dàng tập trung nhanh nguồn lực quốc gia cho các mục tiêu
trọng điểm, những ưu tiên của đất nước trong một số điều kiện nhất định. Ví dụ điển
hình như q trình Cơng nghiệp hóa những năm 1930 đã thành cơng bất kể các căng
thẳng của nền kinh tế, cũng như các dự án chạy đua vũ trang và các dự án lớn khác của
Liên Xơ sau này. Nhưng đồng thời nó khơng gắn liền với hiệu quả kinh tế, gây lãng phí
rất lớn các tài nguyên và nguồn lực. Kinh tế phát triển nhanh nhờ khai thác theo chiều
rộng các nguồn tài nguyên thiên nhiên với hiệu quả thấp và năng suất lao động tăng
không tương xứng. Các chỉ tiêu phát triển được duy trì cao trong thời gian dài, nhưng
mức sống của nhân dân khơng tăng tương ứng, do cịn dành cho tích lũy quy mơ lớn và
chi viện quốc tế, làm cho cuộc sống người dân trong nước ngày càng kém so với các
nước Phương Tây.
Một vấn đề đã gây ngộ nhận thời gian dài, gây tranh cãi gay gắt khi đánh giá kế
hoạch hóa tập trung kiểu Xơ Viết: Đó là luận điểm cho rằng nhờ kế hoạch hóa tập trung
có thể dồn sức vào xây dựng hay thực hiện tốt các nhiệm vụ nêu ra từ một trung tâm.
Cũng nhờ kế hoạch hóa tập trung, Liên Xơ có thể giúp đỡ các nước nhược tiểu như ở
Trung Á và Châu Á tiến thẳng lên cơng nghiệp hóa XHCN, mà đã không đánh giá đúng
mức các điều kiện tiền đề về sức mạnh nội tại của các nước nhận viện trợ, nhất là khả
năng tích luỹ nội bộ khá để có thể hấp thu được sự trợ giúp đó. Vai trị của kế hoạch hóa
có thể đúng trong một giai đoạn ban đầu khi nền kinh tế có độ phức tạp thấp, đang cần
dồn sức cho chiến tranh vệ quốc. Nhưng khi đất nước đã vượt qua chiến tranh, nền kinh

tế càng phát triển, cạnh tranh quốc tế càng gay gắt, thì các nhược điểm “quan liêu” do
quyết định cứng nhắc, xa thực tế từ một trung tâm duy nhất ngày càng bộc lộ rõ. Dần
dà, sự bao cấp trong kế hoạch hóa tập trung của Liên Xơ dành viện trợ cho các nước
nhược tiểu trong cuộc “chiến tranh lạnh” đã trở thành “gánh nặng”, cản trở bước tiến
nhanh của Liên Xô trong phát triển ở giai đoạn mới. Một thời xa xưa, người ta còn nghĩ
15


rằng, trong nền kinh tế có kế hoạch và tách xa thị trường, dường như kinh tế Liên Xô sẽ
tránh được lạm phát, tránh được các khủng hoảng và các rủi ro của thị trường như trong
các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có hiện tượng phổ biến là giá cả nhiều mặt hàng được
duy trì cố định trong vài chục năm, bấp chấp các thay đổi trên thị trường quốc tế (như
giá năng lượng, máy móc cấp cho các nước XHCN khác). Nhưng một nền kinh tế “bao
cấp” như vậy là sẽ rất nặng nề, thiếu linh hoạt. Ở trong nước, khi một doanh nghiệp
khơng hồn thành kế hoạch sẽ ảnh hưởng lây lan, do nhiều xí nghiệp khác không nhân
được “đầu vào” đầy đủ và đúng tiến độ, do kế hoạch được coi như pháp lệnh nhà nước
và có tính bắt buộc rất cao. Ở ngồi nước, khi các nước “anh em” khó khăn, Liên Xơ lại
phải mở “hầu bao” trợ giúp, làm mất cân đối nền kinh tế trong cạnh tranh gay gắt với
Phương Tây.
Kế hoạch hóa mang tính mệnh lệnh quan liêu và khơng sát thị trường đã là một
ngun nhân chính làm hàng hóa Liên Xơ có chất lượng yếu và tính cạnh tranh ngày
càng kém so với nước ngoài. Giá cả cố định trong một thời gian khá dài cộng với tiền
lương và thu nhập tăng đều đặn theo kế hoạch, dường như có thể có lợi cho tầng lớp dân
cư thu nhập thấp, kém năng động, thích được sống bao cấp, nhưng lại kém khuyến khích
với người làm việc có năng suất cao. Một khi thu nhập tăng lên, sức mua của người dân
tăng cao, nhưng hàng hóa kém chất lượng khơng theo kịp yêu cầu của xã hội, đã gây
nên gây nên tình trạng khan hiếm triền miên, nhất là nạn khan hiếm hàng hóa có giá trị,
sử dụng lâu bền, ảnh hưởng đến đời sống của người dân và hiệu quả kinh doanh, ngày
càng gây bất bình trong nhân dân.
Lợi ích doanh nghiệp và người lao động phụ thuộc vào việc hoàn thành và vượt

chỉ tiêu kế hoạch được giao mà khơng có. Từ những năm 1960 khi thu nhập và thị hiếu
của người dân nâng cao, việc tăng vượt nhiều chỉ tiêu kế hoạch do Gosplan định ra
thường chưa sát nhu cầu, trong khi sản xuất lại không đều giữa các loại hàng hóa và
vùng miền, đã tạo nên một số lượng hàng hóa dư thừa (thường là chất lượng khơng cao)
trong xã hội, nhưng những hàng hóa khác đã trở nên khan hiếm, nhất là hàng hóa có
chất lượng cao, đáp ứng thị yếu của nhiều tầng lớp cư dân nay đã có thu nhập cao. Đã
dẫn tới tình trạng mất cân đối ngày càng nghiêm trọng giữa “cung - cầu” trong nền kinh
tế. Việc khơng có cạnh tranh và sản xuất theo kế hoạch cũng làm cho người lao động
mất dần động lực lợi ích kinh tế, dẫn đến sự sa sút kỷ luật và lòng hăng hái, yêu lao động
và nảy sinh sự bàng quan, vô trách nhiệm trong một bộ phận công nhân viên chức. Vào
những năm chiến tranh, người lao động làm việc trong tinh thần yêu nước và kỷ luật sắt
nên sự sa sút này chưa thể hiện rõ. Về sau vì kém động lực kinh tế nên chiều hướng này
ngày càng phổ biến trong tâm lý người lao động. Đồng thời cách trả lương lao động
16


mang tính bình qn đã khơng khuyến khích tính năng động và làm bất mãn những
người muốn làm tốt để có thu nhập cao.
Nhằm khuyến khích người lao động, từ những năm cuối thập kỷ 1970 Liên Xô cho
áp dụng khốn sản phẩm trong các xí nghiệp cơng nghiệp ở phạm vi tổ đội lao động
nhưng kết quả chỉ thành công hạn chế và không gây được động lực lớn, do các cải tiến
cịn nhỏ và khơng đồng bộ trong nền kinh tế không thị trường. Nguyên nhân của các yếu
kém này bắt nguồn từ việc không công nhận yếu tố có tính quy luật thị trường trong điều
kiện mở rộng giao lưu quốc tế, không coi trọng đúng mức quyền và lợi ích kinh tế của
người lao động.
Tất cả những điểm yếu kém của nền kinh tế và công nghiệp Xô Viết cũng dội trực
tiếp vào nông nghiệp Xô Viết làm nền nông nghiệp Liên Xô ngày càng yếu kém, nông
nghiệp và nông thôn không được tái đầu tư, khoảng cách thành thị - nông thôn ngày
càng lớn, thanh niên nông thôn đổ dồn vào thành phố, nông thôn suy thối, sản xuất
nơng nghiệp sa sút nghiêm trọng. Đất nước rộng nhất thế giới, đất đai phì nhiêu mà

khơng đảm bảo nhu cầu nông sản cho xã hội. Đến giữa những năm 1980 vấn đề phát
triển nông nghiệp và hiện đại hóa nơng thơn đã là một vấn đề rất trầm trọng của xã hội
Xơ Viết. Đảng và Chính phủ Liên Xơ đã có những cố gắng đầu tư cho nông nghiệp trong
những năm 1970 - 1980 bằng các dự án thành lập các tổ hợp Nông – công nghiệp (APK),
nhưng vì chưa đánh giá hết những nguyên nhân gốc rễ và cách tiếp cận cũng mang tính
quan liêu mệnh lệnh nên chương trình nhiều tham vọng này cũng không thành công.
Đến giữa những năm 1980 nền kinh tế Xô Viết đã bộc lộ những điểm yếu rất to
lớn, làm Liên Xô lạc hậu hơn nữa với các nước “địch thủ” tư bản chủ nghĩa, trong nền
kinh tế tích tụ rất nhiều mâu thuẫn, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Đó
là nguyên nhân để Ông Gorbachov tiến hành cải cách cải tổ (perestroika). Tuy nhiên cải
cách chỉ tập trung vào một số vấn đề liên quan chính trị nội bộ trong khi khơng quan
tâm đúng mức đến cải cách mơ hình kinh tế nên đã không mang lại kết quả mong muốn
và Liên Xô sụp đổ, kéo theo cả hệ thống XHCN cũng sụp đổ cùng cơ chế kế hoạch hóa
tập trung bao cấp.
Bên cạnh các khuyết điểm như đã nêu, kế hoạch hóa Xơ Viết đã có những tác động
tích cực, nhất là trong giai đoạn cần tập trung nguồn lực cho cuộc chiến tranh vệ quốc
và khôi phục kinh tế. Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế Xô Viết, một trong những
nguyên nhân của khả năng tập trung nguồn lực có hiệu quả là nhờ kế hoạch hóa tập
trung trong thời gian hiểm nghèo, đất nước có thể dồn sức cho chiến tranh vệ quốc và
xây dựng kinh tế, với vai trò điều phối tập trung của cơ quan Ủy ban kế hoạch Nhà nước

17


(GOSPLAN). Cơ quan này vạch kế hoạch 5 năm và chỉ đạo việc thực hiện một cách
nghiêm ngặt kế hoạch hàng năm trong toàn bộ nền kinh tế đến các đơn vị cấp thấp nhất.
Hình mẫu cơng tác kế hoạch của Liên Xô đã được cả các nước Phương Tây và
Đông Á du nhập trong nhiều năm và đã đạt được nhiều thành quả, nhất là khi cần tập
trung lực lượng để khôi phục sau chiến tranh. Ngay nước Pháp ở Tây Âu và Hàn Quốc
ở Đông Á cũng đã đạt nhiều thành công với các kế hoạch 5 năm, 10 năm. Nhưng khi

quá trình kinh tế các nước đã phát triển đến độ phức tạp cao hơn, đòi hỏi có những cơ
chế quản lý phù hợp hơn thì cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã bộc lộ nhiều khuyết tật,
đòi hỏi được điều chỉnh mạnh mẽ. Những kinh nghiệm lập kế hoạch, tuy vậy vẫn được
duy trì với các biến dạng khác nhau ở quy mô nhỏ hơn như các Tập đồn và Tổng cơng
ty, các vùng kinh tế trọng điểm…
b.

Kế hoạch hoá ở Trung Quốc

Trung Quốc là một nước có đường lối phát triển kinh tế - xã hội theo mơ hình chủ
nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Từ ngày thành lập nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa, kể cả trong thời kỳ cải cách kinh tế từ 1980 đến nay, Trung Quốc luôn luôn
đề cao vai trị của cơng tác kế hoạch hố.
Uỷ ban Kế hoạch nhà nước Trung Quốc thành lập năm 1950 và từ năm 1953 1980, Trung Quốc áp dụng cơ chế kế hoạch hoá trực tiếp, bao trùm mọi lĩnh vực của
nền kinh tế quốc dân theo mơ hình của Liên Xơ. Cơ chế kế hoạch hố tập trung ở Trung
Quốc kéo dài tới 9 kế hoạch 5 năm. Kế hoạch 5 năm 1976-1980 với nội dung bao trùm
"kế hoạch bốn hiện đại hoá" đã kết thúc giai đoạn kế hoạch hoá tập trung.
Từ năm 1980 đến nay, Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế theo hướng mở rộng
nhân tố thị trường, khi các thành phần kinh tế phát triển, cơ cấu hoạt động kinh tế thay
đổi. Những thay đổi trong cơ cấu kinh tế gồm:
• Thứ nhất, đã xuất hiện ngày càng nhiều các hình thức sở hữu khác ngồi nhà
nước.
• Thứ hai, các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước được trao nhiều quyền tự chủ
hơn.
• Thứ ba, cơ chế thị trường có tác động rất mạnh mẽ đến các hoạt động kinh tế.
Cùng với quá trình chuyển đổi kinh tế, cơng tác kế hoạch hố của Trung Quốc có
những hồn thiện đáng kể. Nó được chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế kế hoạch hóa phát triển, kế hoạch hố gián tiếp với những đổi mới cơ bản:
• Thứ nhất, phạm vi của kế hoạch pháp lệnh được thu hẹp, kế hoạch hố mang
tính định hướng và hướng dẫn nhiều hơn.

18


• Thứ hai, trong công tác kế hoạch, các chỉ tiêu giá trị ngày càng được sử dụng
rộng rãi thay thế cho các chỉ tiêu hiện vật trước đây.
• Thứ ba, phương pháp xây dựng kế hoạch thay đổi: việc giao chỉ tiêu cho các
đơn vị giảm dần, các cơ sở sản xuất kinh doanh của nhà nước và tư nhân được tự chủ
hơn trong sản xuất kinh doanh, công tác kế hoạch hoá chuyển dần sang cân đối các chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô bằng việc áp dụng ngày càng phổ biến các mơ hình kinh tế để dự báo
và hoạch định chính sách.
Kế hoạch hố ở một số nước phát triển
a.

Kế hoạch hóa ở Pháp

Cộng hồ Pháp là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển, đồng thời nước
Pháp từ lâu đã có một nhà nước vững mạnh giữ vai trò quan trọng trong hoạt động và
đời sống kinh tế - xã hội. Từ sau đại chiến thế giới lần thứ II, chính phủ Pháp đã có kế
hoạch kinh tế quốc dân. Cơ quan kế hoạch của Pháp ra đời vào năm 1946 với 3 chức
năng cơ bản là: dự thảo kế hoạch, tư vấn các chính sách kinh tế và nghiên cứu dự tốn
dài hạn. Cho đến nay, nước Pháp đã trải qua 12 kế hoạch 5 năm. Các nhà nghiên cứu
của Pháp đã chia ra 2 thời kỳ lớn của kế hoạch hoá ở Pháp là:
• Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ vàng son của kế hoạch hoá Pháp, kéo dài trong 30
năm từ 1945-1975.
• Thời kỳ thứ hai là thời kỳ khủng hoảng của kế hoạch hoá, đặc biệt là cuộc cải
cách kế hoạch hoá năm 1982 và cuộc đổi mới kế hoạch hoá năm 1994.
Thời kỳ khủng hoảng kế hoạch hoá ở Pháp xuất phát từ những nhân tố khách quan
đó là sự lan tràn và ảnh hưởng của thuyết tân tự do về kinh tế (sùng bái hoá thị trường),
xu thế hội nhập và tồn cầu hố nền kinh tế thế giới, cũng như những nhân tố chủ quan
đó là tính chất ngày càng đa dạng, phức tạp trong đời sống kinh tế, xã hội, khoa học kỹ

thuật... của đất nước. Ngày nay các nhà cải cách kế hoạch hoá đã đưa ra những vấn đề
đổi mới về nhiệm vụ, nội dung, phương pháp kế hoạch hoá của Pháp với điểm nổi bật
là:
- Kế hoạch hoá phát triển ngày càng mềm mại, cơ động, ngày càng mở rộng phạm
vi cho sự vận hành của thị trường.
- Kế hoạch 5 năm (hình thức duy nhất ở Pháp) giảm phần định lượng, tăng phần
định tính, giảm đến mức gần như xố bỏ các tính tốn và chỉ tiêu hướng dẫn về sản
lượng, nâng chất lượng các tính tốn và hướng dẫn vĩ mơ về kinh tế xã hội, giảm các
tính tốn về chiều dọc theo ngành, tăng các tính tốn chiều ngang có tính liên quan và
tổng hợp.
19


×