Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TIểu luận vai trò hậu phương miền bắc XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.05 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Khi bàn về chiến tranh cách mạng, Lênin có một luận điểm nổi tiếng: “Muốn
tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh phải có một hậu phương tổ chức
vững chắc”. Hậu phương và tiền tuyến có mối quan hệ vơ cùng mật thiết. Hậu
phương mạnh thì tiền tuyến mạnh. Tiền tuyến đánh thắng sẽ bảo vệ được hậu
phương, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để hậu phương cũng cố và xây dựng.
Ngược lại, việc xây dựng hậu phương vững mạnh có tác dụng quyết định đến
thắng lợi ở tiền tuyến.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra
nhiều chủ trương, đường lối chiến lược để lãnh đạo cách mạng đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, giành được độc lập tự do cho dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đưa đất nước phát triển “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Trải qua hơn
90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, “Chưa bao giờ đất nước ta
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày hơm nay” như lời Tổng Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã phát
biểu. Đạt được những thành tựu đó, có rất nhiều ngun nhân, trong đó, vai trị của
hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có
ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình cách mạng Việt Nam.


2
NỘI DUNG
1. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược (1954 - 1975)
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1954), Đảng
ta chủ trương thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong
đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc khơng chỉ có mục tiêu xây dựng đời
sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ta ở miền Bắc mà còn nhằm xây dựng, củng
cố căn cứ địa hậu phương chung của cả nước để tiến hành giải phóng miền Nam.


Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa II (tháng 8-1955), Ðảng ta nhận
định: “Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng
phải được củng cố”. Phát biểu tại Ðại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc
(tháng 9-1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Miền Bắc là nền tảng, là gốc
rễ của lực lượng đấu tranh của nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có
mạnh, cây mới tốt”.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 khóa II (tháng 121957) đã xác định đường lối của Đảng về xây dựng hậu phương trong điều kiện
mới. Đảng ta đã nêu phương hướng kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với củng cố
quốc phịng để vừa có thể nhanh chóng phát triển kinh tế vừa củng cố quốc phòng
ngày càng mạnh mẽ, làm tròn được nhiệm vụ hậu phương đối với cuộc chiến
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Như vậy, từ đầu, vai trị và vị trí của miền bắc đã được Ðảng ta xác định rõ.
Ðể làm trịn vai trị đó, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hậu phương miền
bắc được xây dựng theo một đường lối đúng đắn, sáng tạo. Ðó là đường lối tiến
hành cách mạng XHCN ở miền bắc; gắn chặt nhiệm vụ xây dựng với nhiệm vụ bảo
vệ vững chắc hậu phương; gắn chặt nhiệm vụ của hậu phương với nhiệm vụ của
tiền tuyến. Chế độ xã hội ưu việt được thiết lập không những bảo đảm cho miền
bắc trở thành hậu phương vững mạnh toàn diện, được tổ chức chặt chẽ, mà còn
mang lại cho người thợ trong xưởng máy, dưới hầm lị, người nơng dân trên đồng
ruộng, người chiến sĩ trên chiến hào sức mạnh tập thể to lớn và niềm tin khơng gì
lay chuyển vào sự lãnh đạo của Ðảng, vào tương lai tốt đẹp. Ðó là nguồn gốc, là
nền tảng tạo nên sức mạnh bền vững của hậu phương miền bắc suốt những năm
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Nhờ thế, suốt những năm xây dựng, chiến đấu gian lao mà rất đỗi hào hùng,
miền bắc, tiền tuyến đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời
hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang là hậu phương lớn của sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Miền bắc, với thủ đô
Hà Nội, là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị, Trung ương Ðảng và Chính
phủ ta đề ra và chỉ đạo thực hiện đường lối kháng chiến; điều hành chỉ huy chiến
tranh trên cả hai miền. Về phương diện đó, sự ổn định, vững bền của miền bắc, sự

đồng tâm, nhất trí của người hậu phương là một trong những nhân tố nền tảng để
Ðảng ta đề ra và chỉ đạo toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta trên cả hai miền thực
hiện thắng lợi đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


3
2. Vai trò của hậu phương miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, đỉnh cao là Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975:
Một là, hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa là cơ sở lãnh đạo, tổ chức
điều hành Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
Để bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi,
nhân tố có ý nghĩa quyết định trước tiên là phải có đường lối chiến tranh, đường lối
quân sự đúng đắn, nghệ thuật chỉ đạo tác chiến linh hoạt, nhạy bén. Muốn vậy, phải
xây dựng bộ tham mưu, cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược; phải có chủ trương
đúng đắn, sáng tạo; có sự chỉ huy thống nhất, kịp thời từ hậu phương. Kinh nghiệm
lịch sử cho thấy, nếu sai lầm trong lãnh đạo, tổ chức của các cấp chỉ huy ở tiền
tuyến có thể làm cho chiến trường gặp khó khăn, tổn thất, thì sai lầm trong lãnh
đạo, chỉ đạo của cơ quan chiến lược tối cao ở hậu phương có thể làm cho chiến
tranh thất bại.
Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975 là đất nước
tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính trị xã hội khác nhau. Sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, về thực chất và trên thực tế, do một
Đảng lãnh đạo, một dân tộc, một nhân dân, một quân đội tiến hành, nhằm mục tiêu
chung là giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước. Thực tế lịch sử cho
thấy, từ đường lối chung đến các quyết định trọng đại liên quan đến vận mệnh dân
tộc, liên quan đến diễn tiến và tồn bộ q trình phát triển của cuộc kháng chiến,
đều được phát đi từ Hà Nội- Trái tim của cả nước, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ
Chính trị, Trung ương Đảng và các cơ quan chiến lược đề ra và chỉ đạo thực hiện
đường lối kháng chiến. Nếu Quyết định lịch sử của Bộ Chính trị tháng 10-1974 và
tháng 01-1975 về giải phóng hồn tồn miền Nam có ý nghĩa soi đường cho nhân

dân ta trong cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy giải phóng hồn tồn miền Nam, thì
Quyết tâm của Bộ Chính trị tại hội nghị vào ngày 31-3-1975 có giá trị chỉ đạo trực
tiếp đưa đến thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược của quân và dân ta trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tại Hội nghị này, Bộ Chính trị đánh giá: Cả về thế chiến lược và lực lượng
quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo qn địch, cịn địch đang đứng trước
nguy cơ sụp đổ và diệt vong… Thời cơ chiến lược để tiến hành cuộc tổng cơng
kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt cuối cùng của địch đã chín muồi. Từ giờ phút
này trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu. Bộ Chính
trị hạ quyết tâm: Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo: Thần
tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng cơng kích, tổng khởi nghĩa trong
thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 năm 1975, không thể để chậm. Những
quyết định sáng suốt, kịp thời của Bộ Chính trị trong hai năm 1974 và 1975 như
Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “không thể chậm hơn, mà cũng không thể
sớm hơn” đã tạo cơ sở nền tảng để các lực lượng phối hợp hành động một cách có
hiệu quả, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Hai là, hậu phương miền Bắc XHCN là nơi cung cấp sức người, sức của cho
Tổng tiến cơng và nổi dậy giải phóng hồn tồn miền Nam
Khơng thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
nếu hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa khơng có đủ tiềm lực và sức mạnh đáp


4
ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến. Ý thức được vấn đề đó, ngay từ đầu và trong
suốt q trình lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh, Đảng ta luôn quan tâm chăm lo xây
dựng hậu phương miền Bắc vững mạnh về mọi mặt. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa III xác định: miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể
trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải được củng cố. Đại hội lần thứ III của
Đảng, năm 1960, đã chủ trương phải tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc;
cách mạng XHCN ở miền Bắc gắn bó chặt chẽ với cách mạng dân tộc dân chủ

nhân dân ở miền Nam và giữ vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp phát triển
của toàn bộ sự nghiệp cách mạng cả nước và đối với cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà. Để làm tròn vai trị đó, cùng với việc chỉ đạo xây dựng miền Bắc vững
mạnh về chính trị, Đảng, Nhà nước cũng hết sức chăm lo xây dựng và phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, thơng qua việc đề ra và tổ chức thực hiện các kế hoạch
kinh tế ngắn và dài hạn nhằm từng bước biến đổi sâu rộng nền kinh tế miền Bắc,
làm cho miền Bắc vững mạnh về mọi mặt.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành tập trung thống nhất của
Nhà nước,khắp nơi trên miền Bắc đã nhanh chóng dấy lên phong trào tồn dân
chống Mỹ, cứu nước với nhiều hình thức và nội dung phong phú, sôi nổi, như “Ba
sẵn sàng” của thanh niên, “Ba đảm đang” của phụ nữ, “Ba quyết tâm” của trí thức,
“Tay cày, tay súng” của nơng dân, “Tay búa, tay súng” của công nhân, “Nhằm
thẳng quân thù mà bắn” của lực lượng vũ trang, “Xe chưa qua nhà không tiếc”,
“Thóc khơng thiếu một cân, qn khơng thiếu một người”, “Tiếng hát át tiếng
bom” của toàn dân. Nhờ xác định đúng vị trí vai trị, cùng với q trình chỉ đạo hết
sức linh hoạt và sáng tạo của Đảng và Chính phủ, cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc vẫn được tiến hành và đạt được những thành tựu đáng tự hào,
đời sống của nhân dân tuy chưa cao nhưng cơ bản được ổn định. Trên nền tảng của
chế độ xã hội mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hậu phương miền Bắc đã dốc sức
chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, nhất là vào giai đoạn
cuối của cuộc kháng chiến.
Về nhân lực, nếu như năm 1959, miền Bắc mới chỉ chi viện cho miền Nam
542 người thì đến năm 1975, năm cuối của cuộc kháng chiến, tổng số nhân lực
miền Bắc động viên theo nhu cầu quốc phòng chiếm tới 30% lực lượng lao động
xã hội ở miền Bắc; 60 - 65% trong số đó vào lực lượng vũ trang. Riêng 4 tháng
đầu của năm 1975, số lượng cán bộ, chiến sĩ được lệnh hành quân thần tốc vào
miền Nam đã lên tới 110.000 người. Giai đoạn 1973 - 1975, trong quân số chủ lực
Quân giải phóng miền Nam có 50% là từ hậu phương miền Bắc tăng cường vào.
Ngoài lực lượng trực tiếp chiến đấu, các lực lượng vận tải, bảo đảm giao thông, mở
đường và các lực lượng bảo đảm khác... bao gồm hàng triệu lượt người cũng đều

được động viên ở miền Bắc. Đại bộ phận lực lượng được động viên phục vụ nhu
cầu chiến tranh thời kỳ này là thanh niên. Đó là những người trưởng thành trong
chế độ xã hội mới, dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, có giác ngộ chính trị cao, có
trình độ văn hóa, phẩm chất đạo đức và sức khỏe tốt. Do vậy, đây là lớp người có
trình độ với niềm tin và ý thức giác ngộ chính trị cao, nắm vững và sử dụng thành
thạo, hiệu quả các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại lúc bấy giờ.


5
Về vật chất, phần lớn vũ khí, đạn, trang thiết bị quân sự, thuốc và dụng cụ y
tế, đến lương thực thực phẩm đáp ứng cho nhu cầu các chiến trường ở miền Nam
đều từ hậu phương miền Bắc chuyển vào (gồm cả những vũ khí, phương tiện kỹ
thuật do nước ngoài viện trợ cũng được hậu phương miền Bắc tiếp nhận, nghiên
cứu, khai thác sử dụng, cải tiến cho phù hợp với cách đánh của ta rồi chuyển vào
miền Nam) với khối lượng không ngừng tăng lên. Theo số liệu thống kê của tổng
kết 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc: 81% vũ khí đạn dược, 60%
tổng lượng xăng dầu, hơn 85% xe vận tải, 65% thuốc và dụng cụ y tế đáp ứng cho
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là được huy động từ miền Bắc. Điều đó
đã khẳng định vai trò quyết định của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc.
Như vậy, nhân lực và vật lực - hai nhân tố chiến lược quan trọng trong bất
kỳ cuộc chiến tranh nào, đã được hậu phương miền Bắc đáp ứng kịp thời, đầy đủ,
liên tục cho tiền tuyến lớn miền Nam. Đặt trong điều kiện hai lần phải đương đầu
với chiến tranh phá hoại rất khốc liệt, vừa phải sản xuất vừa chiến đấu để bảo vệ
hậu phương, thì những con số trên đây là một nỗ lực lớn lao của miền Bắc.
Ba là, hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa là nguồn sức mạnh tinh thần
của tiền tuyến
Thắng hay bại trong chiến tranh tất nhiên phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó
yếu tố chính trị tinh thần đóng vai trị đặc biệt quan trọng. V.I Lênin khẳng định:

“Trong mọi cuộc chiến tranh thì thắng lợi, nói cho cùng, là tuỳ thuộc vào tâm trạng
của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin tưởng rằng chiến tranh
mà họ tiến hành là chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh thân mình vì
hạnh phúc của anh em mình, làm cho tinh thần của binh sĩ lên cao và làm cho họ
chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy”. Chiến tranh là sự nguy hiểm,
khốc liệt, là đổ máu, hy sinh; ở đó, ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong
manh... Bởi vậy, đòi hỏi người chiến sĩ phải có ý chí và bản lĩnh rất vững vàng.
Yếu tố tinh thần sẽ tác động trực tiếp đến kỹ năng chiến đấu của người lính. Có
tinh thần chiến đấu cao, người lính mới có thể chịu đựng được gian khổ, sự hy sinh
khốc liệt của chiến tranh và ngược lại. Chính vì vậy, nhân tố chính trị tinh thần
đóng vai trị rất quan trọng, góp phần tạo nên sức mạnh cho quân đội, và nguồn sức
mạnh này được cung cấp bởi chính hậu phương - nơi sinh và lớn lên của người
lính.
Hậu phương đối với người lính là gia đình, là quê hương, là Tổ quốc của họ.
Chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, quê hương và gia đình là nghĩa vụ thiêng liêng, mục
đích cao cả của người lính, và cũng chính từ nơi đây đã tiếp thêm sức mạnh tinh
thần cho họ để “khi nhận lệnh thì quên nhà, khi xung trận thì quên thân”.
Thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đỉnh cao là cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 cho thấy, bên cạnh việc chi viện sức người,
sức của cho chiến trường, miền Bắc, với chế độ XHCN được xây dựng và tỏ rõ sức
sống mãnh liệt trong khói lửa chiến tranh, không chỉ phát huy sức mạnh như một
lực lượng vật chất mà còn là chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho đồng bào, cán bộ,
đảng viên, chiến sĩ miền Nam. Suốt 21 năm dòng kháng chiến, kể cả những năm


6
đen tối nhất dưới chế độ của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, đồng chí, đồng bào miền
Nam vẫn luôn luôn giữ vững niềm tin vào Trung ương Đảng và Bác Hồ kính yêu;
ngày đêm hướng về miền Bắc xã hội chủ nghĩa mà chiến đấu hy sinh. Bởi vì, miền
Bắc khơng chỉ có Hà Nội - Thủ đô của cả nước, là nơi Trung ương Đảng và Bác

Hồ lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng miền Nam, mà cịn là nơi có hàng chục vạn người
là ơng bà, cha mẹ, vợ con… của họ đã tập kết ra miền Bắc để công tác và học tập;
nơi đào tạo, cung cấp cho miền Nam những cán bộ lãnh đạo, những chiến sĩ nịng
cốt và vũ khí kỹ thuật từ những năm đầu sau Hiệp định Giơnevơ để miền Nam tích
lũy, xây dựng lực lượng. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa cịn là nơi chế độ xã hội cơng
bằng, tốt đẹp đang trở thành hiện thực, họ tìm thấy ở đó chỗ dựa vững chắc, giúp
họ giữ vững niềm tin, vượt qua gian khổ hy sinh, bền lòng chiến đấu.
Đối với những người lính xuất thân từ miền Bắc đang trực tiếp cầm súng
trên chiến trường miền Nam, họ cũng khơng sợ hy sinh, gian khổ, sẵn sàng nhận và
hồn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao khơng chỉ vì sự nghiệp cao cả là giải phóng
dân tộc, thống nhất Tổ quốc, mà ở họ cịn có những lý do riêng. Trong suốt 21 năm
kháng chiến chống Mỹ, có đến 70% số gia đình miền Bắc có người thân chiến đấu
ngồi mặt trận, nhiều gia đình hai thế hệ cha, con cùng chiến đấu ở miền Nam; trên
ruộng đồng, 63% là lao động nữ. Đằng đẵng những tháng năm rầm trời bom đạn
ấy, những người mẹ, người vợ, người chị, người em của họ đã kiên nhẫn chịu đựng
thiếu thốn, vất vả và gian lao, “ba đảm đang” cho người thân n lịng ra trận. Ở đó
cịn có cả những người phụ nữ đang ngày đêm ngóng chờ tin vui chiến thắng của
người yêu nơi tiền tuyến… Có lẽ, sẽ khơng thể tìm thấy ở đâu trên thế giới có được
mối quan hệ bền chặt, thủy chung giữa hậu phương và tiền tuyến như cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã kết thúc
bằng trận Đại thắng mùa Xuân 1975 với đỉnh cao chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Đó là cuộc chiến tranh u nước vĩ đại, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc
và bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu của dân tộc ta. Trải qua hai mươi mốt năm chiến đấu,
nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, quy mô lớn
nhất, dài ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Với
âm mưu đè bẹp lực lượng cách mạng Việt Nam và “đưa miền Bắc trở lại thời kì đồ
đá”, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã tung vào nước ta một đội quân viễn chinh hơn
60 vạn tên, gồm quân Mỹ và quân của năm nước đồng minh Mỹ làm nòng cốt cho
hơn một triệu quân ngụy Sài Gòn; riêng về quân đội Mỹ, chúng đã huy động lúc

cao nhất tới 68% bộ binh, 60% lính thủy đánh bộ, 32% lực lượng không quân
chiến thuật, 50% lực lượng không qn chiến lược. Nếu tính cả số qn đóng ở
nước ngồi tham chiến Việt Nam thì chúng đã sử dụng hơn 80 vạn quân Mỹ, và
trong cả cuộc chiến tranh, chúng đã động viên tới 6 triệu lượt binh sĩ Mỹ; ném
xuống đất nước ta 7.850.000 tấn bom, một khối lượng bom đạn lớn hơn trong bất
cứ cuộc chiến tranh nào của chúng và tiêu tốn 676 tỉ đô la (so với 314 tỉ trong
Chiến tranh thế giới thứ hai và 54 tỉ trong chiến tranh Triều Tiên), và nếu tính cả
chi phí gián tiếp thì lên tới 920 tỉ. Ngoài ta, Mỹ sử dụng những thành tựu khoa
hoc-kĩ thuật mới nhất vào mục đích hủy diệt và nơ dịch nhân dân ta.


7
Mặc dù vậy, Mỹ vẫn không thực hiện được mục đích “hủy diệt và nơ dịch”
nhân dân ta. Trái lại, trong cuộc đọ sức với chúng, tuy phải trải qua chiến đấu lâu
dài và hết sức gian khổ, phải hy sinh nhiều người, nhiều của, cuối cùng dân tộc ta
đã giành được chiến thắng, thực hiện trọn vẹn mục tiêu giải phóng hồn tồn miền
Nam, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước.
Ngày nay, nhìn lại tính chất và quy mơ của cuộc chiến tranh, thấy hết những
lực lượng mà địch đã tung ra, những ý đồ mà chúng thú nhận, nhớ lại những tình
huống cực kì phức tạp và éo le mà con thuyền cách mạng đã vượt qua, chúng ta
càng thấy vĩ đại biết bao tầm vóc và ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta. “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta
trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử
dân tộc ta như một trong những trang lịch sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời của sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi
vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm
quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Đối với nước ta, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi đã kết thúc
vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc bắt đầu
từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ

nghĩa đế quốc phương Tây kéo dài 117 năm, rửa sạch cái nhục và nỗi đau mất
nước, hoàn thành cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
bảo vệ phát triển những thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
xóa bỏ mọi chướng ngại trên con đường thực hiện thống nhất đất nước.
3. Ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi của cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa
Xuân năm 1975
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã mở ra một kỉ
nguyên mới của dân tộc Việt Nam – kỉ nguyên đất nước độc lập, thống nhất đi lên
chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong
lịch sử giữ nước và dựng nước của dân tộc ta. Cùng với Bạch Đằng, Chi Lăng,
Đống Đa, Điện Biên Phủ; Chiến dịch Hồ Chí Minh, trận kết thúc của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đã cắm một cái mốc vinh quang chói lọi trong q trình
phát triển đi lên của lịch sử nước ta.
Đối với Mỹ, thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam – một cuộc
chiến tranh hao người, tốn của nhất, là thất bại lớn và nặng nề chưa từng có trong
lịch sử 200 năm nước Mỹ. Sau thất bại này nước Mỹ bước vào thời kì “sau Việt
Nam” với bao hậu quả tiêu cực và khó khăn cả trong nước và trên thế giới.
Đối với thế giới, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta
thắng lợi đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của phe đế quốc do Mỹ cầm đầu chĩa
vào các lực lượng cách mạng thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phá vỡ
phòng tuyến quan trọng ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản của Mỹ ở Đông Nam Á,
làm đảo lộn chiến lược tồn cầu của chúng, góp phần làm suy yếu hệ thống đế
quốc chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công cùa các lực lượng cách
mạng, cỗ vũ mạnh mẽ sự nghiệp giải phóng dân tộc ở nhiều nước Á, Phi, Mĩ
Latinh, tăng cường liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc Đông Dương.


8
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi
là do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, “là thành quả tổng hợp của một

loạt các nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam”.
Trước hết, đó là thắng lợi của đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Đảng. Đó là đường lối tiến hành đồng thời cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Với đường lối đó,
cách mạng nước ta cùng một lúc đã kết hợp được sức mạnh chiến đấu của tiền
tuyến lớn với tiềm lực của hậu phương lớn; đã động viên đến mức cao nhất lực
lượng của toàn dân, toàn quân vào cuộc chiến đấu cứu nước; đã kết tinh, tổng hợp
và phát triển lên một trình độ mới những truyền thống cách mạng Việt Nam sức
tiến công cực kì to lớn. Đó là cơ sở nảy sinh những phương pháp cách mạng vừa
kiên quyết, triệt để, vừa uyển chuyển, linh hoạt, những hình thức đấu tranh mn
màu, muôn vẽ…
Hai là, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của
truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của dân tộc ta. Lịch sử dân tộc ta cho
thấy mỗi khi đất nước gặp họa ngoại xâm, truyền thống đó lại được phát huy.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước do Đảng lãnh đạo, truyền thống yêu
nước đã được phát huy cao độ. Tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng đã tạo nên sự đồn kết chiến đấu khơng biết mệt mỏi của quân và dân ta, của
các dân tộc anh em trên đất nước ta từ Nam chí Bắc, vì sự nghiệp giải phóng miền
Nam, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà. Nó là một trong những
nguồn gốc chủ yếu đưa đến chiến thắng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
Ba là, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của
chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, miền Bắc xã hội chủ nghĩa được xây dựng và
bảo vệ vững chắc, được củng cố và tăng lên khơng ngừng về tiềm lực kinh tế, quốc
phịng, đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hậu phương, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu
chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Nhất là từ năm 1965, khi
cả nước chiến tranh, miền Bắc đã tập trung sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa
vào cuộc chiến đấu cứu nước và giữ nước, làm tròn nghĩa vụ một cách xuất sắc
nghĩa vụ căn cứ đại cách mạng của cả nước và hậu phương lớn của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước.

Bốn là, thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước là thắng lợi của mối quan hệ gắn bó, của tinh thần đồn kết giữa nhân dân ba
nước Việt Nam – Lào – Campuchia trong sự nghiệp chống kẻ thù chung. Trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước, sự đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc
trong một chiến lược chung và trên một chiến trường thống nhất đã tạo sức mạnh
to lớn cho lực lượng cách mạng ba nước Đông Dương, góp phần vào thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân mỗi nước.
Năm là, thắng lợi của nhân dân ta giành được trong chống Mỹ cịn bắt nguồn
từ đặc điểm thời đại và khơng tách rời sự giúp đỡ to lớn có hiệu quả của Liên Xô,
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác; sự đồng tình, ủng hộ chí tình của
phong trào giải phóng dân tộc, của lực lượng cách mạng, dân chủ, hịa bình và của
lồi người tiến bộ trong đó có nhân dân Mỹ. Tình đồn kết vầ sự ủng hộ quốc tế đã


9
cổ vũ mạnh mẽ, tăng thêm sức mạnh cho nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống
Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hồn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước.
4. Giá trị lịch sử, bài học kinh nghiệm
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã để lại cho Đảng ta
nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị về lãnh đạo cách mạng.
Một là, đề ra và thực hiện đường lối giương cao ngọn cờ độc lập và chủ
nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, đánh cả nước Mỹ.
Đường lối đó thể hiện ý chí nguyện vọng thiết tha của nhân dân miền Bắc, nhân
dân miền Nam và cả dân tộc Việt Nam, phù hợp với các trào lưu của cách mạng
thế giới nên đã động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân tộc, kết hợp
sức mạnh của tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh của nhân dân
ta với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến đấu và chiến
thắng giặc Mỹ xâm lược.
Hai là, tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, kiên định tư tưởng chiến lược

tiến công, quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Tư tưởng đó là một
nhân tố hết sức quan trọng để hoạch định đúng đắn đường lối, chủ trương, biện
pháp đánh Mỹ, nhân tố đưa cuộc chiến đấu của dân tộc ta đi tới thắng lợi.
Ba là, thực hiện chiến tranh nhân dân, tìm ra biện pháp chiến đấu đúng đắn,
sáng tạo. Để chống lại kẻ địch xâm lược hùng mạnh, phải thực hiện chiến tranh
nhân dân. Đồng thời, phải chú trọng tổng kết thực tiển để tìm ra phương pháp đấu
tranh, phương pháp chiến đấu đúng đắn, linh hoạt sáng tạo.
Bốn là, trên cơ sở đường lối, chủ trương chiến lược chung đúng đắn phải có
cơng tác tổ chức thực hiện giỏi, năng động, sáng tạo của các cấp bộ đảng trong
quân đội, của các ngành, các địa phương, thực hiện phương châm ngành thắng lợi
từng bước để đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Năm là, phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng
cách mạng ở cả hậu phương và tiền tuyến; phải thực hiện liên minh ba nước Đông
Dương và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ ngày càng to lớn của các nước xã
hội chủ nghĩa, của nhân dân và chính phủ các nước u chuộng hịa bình và cơng
lý trên thế giới.
Sáu là, chiến tranh càng hiện đại, vai trò của nhân tố kinh tế, hậu phương đối
với quân đội, với tiền tuyến càng tăng lên. Chiến tranh trong tương lai thời gian
diễn ra ngắn, nhưng mực độ hao tổn lớn và nhanh, nhất là đối với nguồn nhân lực
kỹ thuật, vũ khí đắt tiền, nên quân đội, tiền tuyến càng lệ thuộc vào hậu phương,
song hậu phương lại bị đánh phá khó đáp ứng được. Do đó phải có sự kết hợp kinh
tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế từ thời bình, từ trước chiến tranh, trong
phạm vi toàn quốc cũng như mỗi khu vực, mỗi địa phương để quân đội không bị
động, hậu phương không rối loạn khi có chiến sự. Mặt khác phải kết hợp tốt giữa
quảng bá, tuyên truyền tiềm lực quốc phòng của hậu phương, của đất nước với che
dấu sức mạnh và cài bẫy về thế trận phòng thủ của Quân đội, tránh sự bộc lộ không
cần thiết về tiềm lực, về thế trận.
Bảy là, trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện tại, nhiều vấn đề tuy đã khác
trước, song nhân tố quyết định thường xuyên của hậu phương đối với sức mạnh



10
của quân đội, với thắng lợi của chiến tranh vẫn là tiềm lực của hậu phương, của đất
nước. Xây dựng hậu phương trong thời kỳ mới vẫn phải chú trọng cả về chính trị,
kinh tế, văn hố, qn sự, khoa học kỹ thuật; phải kết hợp kinh tế với quốc phòng
và ngoại giao. Việc nắm vững quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa sức
mạnh đất nước với sức mạnh quân đội, vai trò quyết định của hậu phương với
thắng lợi của tiền tuyến, những kinh nghiệm xây dựng và phát huy sức mạnh nhân
dân, sức mạnh quốc tế,… của thời kỳ 1954 - 1975 là rất cần thiết đối với các thế hệ
đương đại. Nó khơng chỉ giúp hiểu thấu đáo, sâu xa một nguyên nhân thắng lợi của
các cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã qua mà cịn có ý nghĩa thực tiễn
thiết thực đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và bảo
vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của Việt Nam hiện nay.


11
KẾT LUẬN
Nhìn lại lịch sử ta có thể khẳng định rằng: Miền Bắc là hậu phương lớn mà
không thể phân biệt đâu là tiền tuyến, đâu là hậu phương. Cả dân tộc đã kết thành
một khối vì khát vọng hịa bình và độc lập, tự do. Khơng giống như mọi hậu
phương của chiến tranh mà chúng ta đã thấy, hậu phương Miền Bắc vừa xây dựng,
vừa tích lũy, cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến, vừa chiến đấu bảo vệ hậu
phương vừa cùng miền Nam chiến đấu chống Mỹ xâm lược. Miền Bắc xã hội chủ
nghĩa luôn là chiếc cầu nối giữa cách mạng nước ta và cách mạng thế giới. Miền
Bắc là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Miền Nam, đặc biệt những thời kì cách
miền Nam bị tổn thất nặng nề.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc không ngừng tăng cường sức mạnh
cho miền Nam, quân và dân miền Bắc đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân hiếm có trong lịch sử các cuộc chiến
tranh, với một nền nghệ thuật quân sự rất sáng tạo và có hiệu lực lớn. Đánh bại các

bước leo thang chiến tranh của không quân, hải quân Mỹ, làm thất bại các mục tiêu
chiến lược chủ yếu của cuộc chiến tranh của Mỹ, quân và dân hậu phương Miền
Bắc đã góp phần rất quan trọng cùng tiền tuyến lớn miền Nam đập tan ý chí xâm
lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Vai trò của miền Bắc XHCN trong cuộc
chống Mỹ, cứu nước được Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tại Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976) khẳng định: “Khơng thể nào
có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nếu khơng có miền
Bắc XHCN suốt 16 năm qua luôn luôn cùng một lúc làm hai nhiệm vụ chiến
lược . Đặc biệt từ năm 1965, khi Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khẳng định chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của tồn Đảng, tồn
qn, tồn dân thì miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ
sức mạnh của chế độ XHCN, và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa
cách mạng của cả nước”.


12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Ðảng toàn tập, NXBCTQG, HN, tập 16.
2. Hồ Chí Minh tồn tập, NXBCTQG, HN 1996, tập 8.
3. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tởng kết c̣c
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995.
4. Về đại thắng mùa xuân năm 1975, Bộ nội vụ các cục văn thư và lưu trữ
nhà nước trung tâm lưu trữ quốc gia II, NXB Chính trị Quốc Gia, Năm 2009.



×