Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Trình bày tư duy của Đảng về kinh tế thị trường trong thời kỳ đổi mới. Liên hệ thực tiễn sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.92 KB, 15 trang )

Câu hỏi tiểu luận : “Trình bày tư duy của Đảng về kinh tế thị
trường trong thời kỳ đổi mới. Liên hệ thực tiễn sự phát triển của
thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay?”


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ,
mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mơ hình kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo
dài, đời sống nhân dân thấp. Muốn thốt khỏi tình trạng đó con đường duy
nhất là phải đổi mới kinh tế. Đường lối và chính sách đổi mới từ Đại hội VI
(1986) của Đảng đã đặt cơ sở, nền tảng ban đầu cho giai đoạn chuyển đổi
mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới tồn
diện, sâu sắc, trong đó có đổi mới tư duy về kinh tế, đây là bước đột phá cho
công cuộc đổi mới các lĩnh vực tiếp theo.
Bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Thành tựu nổi bật nhất trong bước khởi
đầu đổi mới tư duy kinh tế là Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Quan
điểm về mơ hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và đến
nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa khơng chỉ có hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà tồn tại
nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Và trong xu thế hội nhập kinh tế, Việt Nam đang trên đường phát triển
cơng nghiệp hố- hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh việc đặt nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước là tiêu chí hàng đầu thì một vấn đề


khơng kém phần quan trọng và cần thiết đó là phát triển nền kinh tế . Bởi vì
khi một đất nước nghèo nàn, lạc hậu thì cũng đồng nghĩa với đất nước đó sẽ
trở thnàh thuộc địa về kinh tế của những nuớc phát triển. Vì thế, để phát triển
kinh tế thì ngồi việc chúng ta cần phải phát huy và tận dụng rất nhiều nguồn
3


lực như: nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân lực, vốn đầu tư, khoa học... thì
Đảng ta cần có một đường lối tư duy đúng đắn để phát triển nền Kinh tế thị
trường ở nước ta. Sự thay đổi tư duy về kinh tế thị trường trong hơn thời kì
đổi mới ở nước ta- một sự thay đổi mang tính quyết định của cả nền kinh tế
và nó đã góp phần giúp chúng ta thốt khỏi tình trạng khủng hoảng, nghèo
nàn, lạc hậu, đưa nước ta trở thành một nước có nền kinh tế vững mạnh.
Với mong muốn học hỏi và chia sẻ những hiểu biết nhỏ bé của mình
về đường lối chính sách của Đảng về cơng cuộc đổi mới tư duy nền kinh tế
thị trường, em đã viết đề tài : “Tư duy của Đảng về Kinh tế thị trường trong
thời kì đổi mới”. Đề tài tiểu luận này sẽ khẳng định tính đúng đắn và cần
thiết của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt cho ta
thấy được tính khách quan của nền kinh tế thị trường, thấy được những gì đã
đạt và chưa đạt; mặt khác giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về nền kinh tế
nước nhà, thấy được vai trò to lớn của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường. Đồng thời trình bày sự phát triển thành phần kinh tế tư nhân của
nước ta hiện nay.

4


PHẦN 1
NỘI DUNG VỀ TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI

I. Cơ chế quản lý kinh tế Việt Nam thời kì trước đổi mới:
1. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp:
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, Việt Nam tiếp thu và thực thi cơ chế
quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung trên phạm vi miền Bắc. Khi cả nước
thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục được vận
hành theo cơ chế quản lý kinh tế này, với những đặc điểm như sau: Nhà nước
quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống
chỉ tiêu pháp lệnh từ trên xuống dưới; Các cơ quan hành chính can thiệp quá
sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng lại khơng chịu bất kỳ trách
nhiệm gì với các quyết định của mình; Quan hệ hàng hố - tiền tệ bị coi nhẹ,
chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu; Bộ máy quản lý cồng kềnh, đội
ngũ quản lý kém năng lực nhưng lại được hưởng nhiều quyền lợi cao hơn
người lao động.
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới 3 hình thức: Bao cấp qua giá là nhà
nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hoá thấp hơn giá trị thực
của chúng nhiều lần so với thị trường. Do đó, hạch tốn kinh tế chỉ là hình
thức. Bao cấp qua chế độ tem phiếu (đối với hàng tiêu dùng) là nhà nước qui
định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, cơng nhân viên theo
định mức qua hình thức tem phiếu. Và chế độ thứ 3 là bao cấp theo chế độ
cấp phát vốn, cấp phát vốn đối với các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng không có
chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn.
= > Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hoá và cơ chế thị
trường, xem kế hoạch hoá là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế XHCN.
5


Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần
trong thời kì quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn
nhanh chóng xố bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể tư nhân; xây dựng nền
kinh tế khép kín. Tất cả những điều đó đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng

khủng hoảng, trì trệ.
2. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế:
Đầu năm 1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị 100-CT/TƯ Khốn sản phẩm
trong nơng nghiệp, Chính phủ ra Nghị định 25-CP, 26-CP; (6/1985) Hội nghị
trung ương 8 khóa V ra Nghị quyết chuyên đề về giá - lương - tiền. Đề cập
sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định: "Việc bố
trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế”.
=> Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần
thiết và cấp bách.
II. Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kì đổi mới:
1. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII:
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế
thị trường. So với thời kì trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự
thay đổi căn bản và sâu sắc.
Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là
thành tựu phát triển chung của nhân loại. Lịch sử phát triển nền sản xuất xã
hội cho thấy sản xuất và trao đổi hàng hoá là tiền đề quan trọng cho sự ra đời
và phát triển của kinh tế thị trường. Chủ nghĩa Tư bản không sản sinh ra kinh
tế hàng hố. Do đó, kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hố ở trình
độ cao khơng phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa Tư bản mà là thành tựu
phát triển chung của nhân loại.

6


Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa Xã hội. Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế”
là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết nền
kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn nhân lực kinh
tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Bản thân kinh tế thị trường

không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã hội. Kinh
tế thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau.
Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ cơng hữu và phục vụ cho
chúng.
Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ sản
xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu. Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo
qui luật vốn có của kinh tế thị trường: qui luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh,
qui luật lưu thông tiền thị trường…….. Có hệ thống pháp quy kiện tồn và sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước.
= > Như vậy, trong thời kỳ đổi mới tư duy lý luận của Đảng đã nhận rõ: chủ
nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết kế thừa và
khai thác có hiệu quả các lợi thế của kinh tế thị trường để phát triển. Thực
tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng minh sự cần thiết và hiệu quả của việc sử
dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng CNXH.
2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội X:
Đại hội lần thứ IX (4/2001) khẳng định: "Nền KTTT định hướng
XHCN là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH” và “KTTT định hướng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân
theo quy luật của KTTT vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của CNXH”.
7


Đại hội X, XI làm sáng tỏ nội dung cơ bản của định hướng XHCN
trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí:
Về mục đích phát triển: Nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Về phương hướng phát triển: Phát triển các thành phần kinh tế với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế

trên đều được tự do sản xuất, kinh doanh theo theo pháp luật và quan hệ với
nhau thông qua cơ chế thị trường. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo,
giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Trong lĩnh vực phân phối: phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Đồng thời, để huy
động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta cịn thực hiện phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai
trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước phát quyền XHCN dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
= > Những tiêu chí nêu trên cho thấy sự khác biệt cơ bản giữa KTTT Tư bản
chủ nghĩa với KTTT định hướng XHCN ở nước ta.

8


PHẦN 2
LIÊN HỆ THỰC TIỄN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHẦN KINH
TẾ TƯ NHÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Chủ trương phát triển của thành phần kinh tế tư nhân hiện nay:
Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã giải đáp sâu sắc về nhiều vấn đề mấu chốt của việc xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong đó có việc
phát triển kinh tế tư nhân.

Trong 35 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, trung thành, kế thừa và vận
dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam thường xuyên đổi mới tư duy gắn với tổng kết thực tiễn và đưa ra
chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư
nhân. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng” (1) 1của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam; “Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế tư nhân.” (2) 2. Mặc dù vậy, các thế lực thù địch, cơ
hội chính trị đã liên tiếp đưa ra những luận điểm sai trái, xuyên tạc chủ
trương, đường lối này của Đảng. Vì vậy, việc làm rõ, cảnh giác và đấu tranh
phản bác lại quan điểm sai trái đó; khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của
chủ trương, đường lối phát triển kinh tế tư nhân của Đảng là nhiệm vụ cấp
thiết.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn

kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG

ST, Hà Nội, 2021, tr. 129.
2 Đảng

Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG
ST, Hà Nội, 2021, tr. 240.
9


Kế thừa các đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục làm rõ và
sâu sắc hơn nhiều vấn đề mới về phát triển kinh tế tư nhân. Khẳng định vai
trò, động lực quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân trong hội nhập quốc
tế. Kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã

hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động, nhất là các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh du lịch, khu đô thị, sản xuất ô
tô, nông nghiệp công nghệ cao, thương mại, dịch vụ. Hiệu quả nổi bật của
các tập đoàn kinh tế tư nhân gần đây thể hiện khá rõ điều này.
Phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng
trong phát triển kinh tế vẫn tuân thủ theo đúng nguyên lý, lý luận của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa, trong đó có coi trọng và phát huy kinh tế tư nhân. Song,
muốn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng quỹ đạo, đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa tất yếu phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực
và hiệu quả quản lý của Nhà nước, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, sự
vào cuộc cả hệ thống chính trị. Nhà nước vừa phải vận dụng các công cụ
kinh tế, pháp luật để quản lý, vừa phải có thực lực kinh tế. Trong đó, kinh tế
nhà nước khơng chỉ giữ vai trị chủ đạo, mà cịn là lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và
điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.
II. Khái quát sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta
hiện nay:
Thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh
tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ
kinh doanh cá thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập
đoàn tư bản... với các loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh
doanh cá thể (hộ nông dân, hộ tiểu - thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch
10


vụ...), chủ trang trại, hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư
nhân tư bản (tư bản trong nước và tư bản ngoài nước), tập đoàn tư bản.
Thống kê cho thấy, tính theo số doanh nghiệp (DN) đang hoạt động có
kết quả kinh doanh bình qn trong giai đoạn 2016-2018, thì nước ta có

558.703 DN, trong đó doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có 540.548 DN, chiếm
96,8%; khối FDI có 15.686 DN, chiếm 2,8%; và DN nhà nước (DNNN) có
2.469 DN, chiếm 0,4% tổng số DN hoạt động.
Kể từ khi triển khai NQ 10 (Đề án “Đổi mới toàn diện QLNN trong
lĩnh vực kinh tế” thực hiện Nghị quyết T.Ư số 10-NQ/TW (NQ 10) về phát
triển KTTN thành một động lực quan trọng), đến nay khu vực KTTN Việt
Nam đã có sự phát triển mạnh cả về chất và quy mơ, tiếp tục là động lực
chính trong tăng trưởng kinh tế. Nhiều doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có tỷ
trọng đóng góp vốn và tài sản cao hơn so các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) và đang dần chiếm
lĩnh vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Niên giám thống kê năm 2018 cũng
ghi rõ: đóng góp của khu vực DNTN trong nước vào tổng số vốn sản xuất
của khu vực DN tăng gấp ba lần từ 5.451,7 tỷ VND năm 2010 lên 16.115,7
tỷ VND năm 2017. Nói cách khác, khoảng 495 tỷ USD đã được các DN Việt
Nam huy động và đưa vào nền kinh tế chỉ trong vòng bảy năm, trung bình
tương đương hơn 70 tỷ USD mỗi năm. Con số này vượt xa số vốn FDI hằng
năm đăng ký và thực hiện và nguồn vốn ODA được giải ngân tại Việt Nam
trong cùng giai đoạn. Tỷ trọng doanh thu của các DNTN không ngừng tăng
lên, từ 27% năm 2016 lên 37,51% năm 2019, đứng trên cả khu vực DN FDI.
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW năm 2017 đến nay,
khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam có sự phát triển mạnh cả về chất, lượng và
quy mơ, tiếp tục là động lực chính trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
11


Theo tính tốn, nếu đầu tư tư nhân (chưa tính đến hộ kinh doanh cá
thể) tăng 1%, sẽ giúp GDP của Việt Nam năm 2020 tăng trưởng thêm khoảng
0,15 điểm %. Trong số đó, rất nhiều doanh nghiệp tư nhân đã trở thành
"những con sếu đầu đàn", dẫn dắt trong đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học
- công nghệ trong phát triển kinh tế của đất nước.

Khảo sát trong 5 năm trở lại đây, kinh tế Việt Nam được thế giới biết
đến qua những tên tuổi các tập đoàn tư nhân như: Vingroup, Sun Group,
T&T Group, Thaco, Vietjet, TH True Milk, Masan... Nhiều doanh nghiệp tư
nhân đạt kim ngạch xuất khẩu hàng triệu USD, đóng góp quan trọng vào tăng
trưởng, thu ngân sách và giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh, xã hội. Thống
kê cho thấy, 29 doanh nghiệp Việt Nam đã có giá trị vốn hóa trên thị trường
chứng khốn vượt con số 1 tỷ USD.
Có thể khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân là “tấm đệm giảm sốc”
cho nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế đang bị tác động bởi các
yếu tố bất định như dịch Covid-19; biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm
nhập mặn, mưa đá...
=> Như vậy có thể khẳng định thành phần kinh tế tư nhân ngày càng lớn
mạnh. Kinh tế tư nhân, đặc biệt lực lượng doanh nghiệp (DN) tư nhân đã góp
phần thực hiện mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay đổi “diện
mạo” đất nước, tạo dấu ấn, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế.
3. Những khó khăn, thách thức:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, khu vực kinh tế tư nhân cũng
phải đối mặt với những khó khăn, thách thức bởi các vấn đề hạn chế, bất cập
nội tại của nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng, cụ thể
như:
12


Một là, khả năng chống chịu của các doanh nghiệp trước những khó khăn do
Covid-19 gây ra ngày càng suy giảm. Báo cáo khảo sát doanh nghiệp của
Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (9/2020) cho thấy, ảnh hưởng bởi
dịch Covid-19, có 20% doanh nghiệp được khảo sát đã phải tạm dừng hoạt
động; 76% doanh nghiệp không cân đối được thu, chi; 2% doanh nghiệp đã
giải thể; chỉ có 2% doanh nghiệp tạm thời chưa bị ảnh hưởng bởi đại dịch.

Hai là, các chính sách hỗ trợ chưa thực sự có hiệu quả. Trên thực tế, các giải
pháp hỗ trợ của Chính phủ cho tới nay mới chỉ thực hiện được một phần nhỏ,
chưa tạo ra động lực giúp doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn.
Ba là, khu vực doanh nghiệp trong nước gia tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu
một số mặt hàng khơng có lợi thế cạnh tranh, điều này cần được đánh giá
chính xác để tránh các nhận định sai lầm.
Bốn là, giải ngân vốn đầu tư cơng cịn chậm so với kế hoạch, mặc dù Chính
phủ, Bộ Tài chính đã vào cuộc khá mạnh mẽ, quyết liệt ngay từ đầu năm
2020. Điều này làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, tăng chi phí quản lý vốn
vay, gây lãng phí và trong bối cảnh đại dịch Covid-19, không mang lại hiệu
ứng lan tỏa, cũng như thúc đẩy sự tăng trưởng của các nguồn vốn khác, trong
đó có vốn đầu tư tư nhân.
=> Cần triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp căn cơ như: cải thiện môi
trường kinh doanh, thúc đẩy tiêu dùng trong nước, cơ cấu lại các doanh
nghiệp nhà nước, khắc phục điểm nghẽn hạ tầng, chủ động thu hút các dự án
đầu tư nước ngoài trong xu hướng điều chỉnh chuỗi cung ứng toàn cầu. Các
doanh nghiệp cần đẩy mạnh kích cầu thị trường trong nước, nỗ lực xây dựng
thương hiệu; chủ động đẩy mạnh, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nâng cao
năng lực cạnh tranh của các ngành và sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở đầu tư
công nghệ, nguồn nhân lực…
13


KẾT LUẬN
Sau gần 35 năm đổi mới kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển
lớn trong thành phần cơ cấu cũng như hướng đi. Qua tìm hiểu và phân tích
đề bài tiểu luận “ Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường trong thời kì đổi
mới”, chúng ta càng khẳng định tính đúng đắn và cần thiết của nền kinh tế
thị trường cũng như là quyết định sáng suốt của Đảng và nhà nước giúp thay
đổi toàn diện và đưa đất nước đi lên phát triển. Đồng thời là liên hệ thực tiễn

về sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân hiện nay, cho thấy vai trị và
đóng góp quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân đối với nhà nước; cùng
với đó là khó khăn thách thức trong hiện tại và tương lai, trên cơ sở đó đưa ra
một số giải pháp cụ thể.
Nghiên cứu đề tài này góp phần bổ sung thêm kiến thức về kinh tế và
đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân vào tầm hiểu biết của chúng em. Đặc
biệt nó lại càng có ích cho một sinh viên khoa kinh tế như em. Em xin kết
thúc tiểu luận của mình tại đây. Vì đây là một vấn đề quan trọng và xuyên
suốt luôn được Đảng và nhà nước quan tâm hàng đầu nên khơng tránh khỏi
những thiếu sót nên rất mongg nhận được sự đóng góp ý kiến của cô Nguyễn
Thị Thu Hằng và các bạn để bài làm của em được hoàn chỉnh hơn. Một lần
nữa xin cảm ơn Cô Nguyễn Thị Thu Hằng đã hướng dẫn em thực hiện bài
tiểu luận này.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
2, />3, />4, />
15



×