Lời mở đầu
C.M ác và Ph.Ănghen cùng với việc phân tích phương thức sản xuất TBCN, ngoài
việc rút ra sự tiến bộ của CNTB trong việc phát triển sức sản xuất và xã hội hoá sức lao
động, hai ông cũng đã phân tích rõ những mâu thuẫn ngay trong lòng XH t ư bản, t ừđó
dẫn đến khẳng định sự ra đời củ a CNCS. Song con đường tiến lên CXCS không thể
diễn ra ngay được, mà phải trải qua qua một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ
sang xã hội kia , đó chính là thời kỳ quá độ. V ì vậy trong thời kỳ này ngoài những yếu
tố mới của xã hội mới, n ó còn tồn tại những yếu tố của xã hội cũ, đó chính là s ự tồn tại
của thành phần kinh t ế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH . Và Việt Nam đang
trong thời kỳ quá độ cũng không năm ngoài quy luật chung đó, nhưng sự tồn tại của th
ành phần kinh tế tư nhân ở VN cũng có đặc điểm riêngnh ất là trong thời kỳ đổi mới h
ướng đi riêng, và có những đóng góp nhất định cho nền kinh tê VN. Việt Nam chính
thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có
nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa
các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới
đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền
kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công
bằng tương đối trong xã hội. Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển
dịch theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển không
hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không
cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi
cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền
kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có
hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Theo đó, nếu không có kinh tế nhà nước sẽ không có định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhưng nếu không có kinh tế tư nhân, cũng sẽ không có kinh tế thị trường. Chính
vì thế mà phát triển kinh tế nhiều thành phần nói chung và phát triển kinh tế tư nhân nói
riêng là một trong những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế của Đảng
ta. Dưới chế độ tư bản, nó chịu ảnh hưởng của thượng tầng kiến trúc tư bản nên những
nhà doanh nghiệp mang tính chất tư bản. Còn ở Việt Nam, kinh tế tư nhân được sinh ra
từ trong lòng của chế độ này, do chủ trương của Đảng, chịu sự quản lý của Nhà nước
XHCN. Nếu nói đơn giản, trong nền kinh tế của ta hiện nay có doanh nghiệp nhà nước
và doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp đều chịu sự điều chỉnh của một luật chung
(ví dụ như vấn đề lương ). Một trong những thành tựu lớn của công cuộc đổi mới hơn
20 năm qua ở nước ta là đã hình thành một nền kinh tế đa thành phần, với các khu vực
kinh tế khác nhau ngày càng phát triển năng động. Trong số đó, khu vực trẻ trung và
năng động là khu vực kinh tế tư nhân trong nước.
Nội dung
A/Tầm quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân
I/ Khái niệm kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là sản phẩm của công cuộc đổi mới . Kinh tế tư nhân là khái niệm
bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân .
+Kinh tế cá thể : là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và
khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình
Kinh tế tiểu chủ : cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về TLSX nhưng
có thuê mướn lao động tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của
bản thân và gia đình
Kinh tế cá thể ,tiểu chủ đang có vị trí quan trọng , tồn tại ở phạm vi tương đối lớn ,
được phát triển trong mọ ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn . Nó có thể tồn tại độc
lập hoặc có thể tham gia vào các loại hình hợp tác xã , hoặc liên kết với các doanh
nghiệp lớn dưới nhiều hình thức
+Kinh tế tư bản tư nhân :là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ
sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm
thuê. Kinh tế TBTN bao gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn , doanh nghiệp tư nhân
và công ty cổ phần được thành lập theo luật doanh nghiêp tư nhân , luật công ty.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, thành phần kinh tế này còn có
vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất , xã hội hoá sản xuất
cũng như phương diện giải quyết các vấn đề xã hội . Hiện nay thành phần kinh tế tư bản
tư nhân đang phát triển mạnh mẽ, và đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
II/Tính tất yếu tồn tại kinh tế tư nhân ở nước ta trong TKQĐ lên
CNXH :
Lênin đã khẳng định :trong TKQĐ lên CNXH , nền kinh tế bao gồm nhiều đặc
điểm và đặc tính của kết cấu kinh tế xã hội cũ, đồng thời lại xuất hiện những đặc điểm
và đặc tính của kết cấu kinh tế của xã hội mới , chúng tồn tại xoắn xuýt lẫn nhau . Từ đó
, Lênin rút ra đặc điểm kinh tế mang tính phổ biến trong TKQĐ lên CNXH là nền kinh
tế nhiều thành phần , mặc dù ở mỗi nước , mỗi thời kỳ khác nhau số lượng TPKT có thể
nhiều ít khác nhau
Nền kinh tế mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Theo đó, nếu không có kinh tế nhà nước sẽ không có định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhưng nếu không có kinh tế tư nhân, cũng sẽ không có kinh tế thị trường. Chính
vì thế mà phát triển kinh tế nhiều thành phần nói chung và phát triển kinh tế tư nhân nói
riêng là một trong những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế của Đảng
ta.
Để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhằm xây dựng cơ sở vật
chất cho CNXH là mục tiêu , nhiệm vụ trọng yếu của TKQĐ ở nước ta. Song , nước ta
xuất phát điểm là nước phong kiến lạc hậu, lại phải trải qua hai cuộc kháng chiến trường
kỳ, thiệt hại sức người, sức của lại bỏ qua CNTB , chính là bỏ qua giai đoạn xây dựng
cơ sở vật chất cho thời kỳ CNXH. Vì vậy TKQĐ ở nước ta gặp phải nhiều khó khăn,
nhất là về vốn. Trong điều kiện thu nhập quôc dân còn thấpvà ngân sách Nhà nước rất
hạn hẹp , nếu chỉ trông chờ vào Nhà nước không thì TKQĐ ở nước ta sẽ không hoặc
chậm thực hiện nhiêm vụ nói trên. Để thực hiện hiệu quả và với tốc độ nhanh các nhiệm
vụ nói trên , phải giải phóng mọi tiềm lực bị kìm hãm trước đây, khai thác và sử dụng
hiệu quả mọi tiềm lực về vốn , công nghệ , kinh nghiệm quản lý , sức lao động và nhất
là nguồn lao động trí tuệ …Mục đích đó chỉ có thể thực hiện được khi sử dụng được sức
mạnh tổng hợp của các TPKT, đặc biệt đó là sức mạnh của kinh tế tư nhân, vì tận dụng
được nguồn vốn ngay trong dân, và chính thành phần kinh tế này đóng góp không nhỏ
vào ngân sách nhà nước , phù hợp với hoàn cảnh của TKQĐ
Nước ta thuộc loại dân số trẻ, có nguồn lao động dồi dào , càn cù , thông minh.
Song số người lao động chưa có việc làm còn nhiều, tạo sức ép lên nền kinh tế cũng như
xã hội. Khả năng kinh tế nhà nước thu hút lao động không nhiều . Trong khi đó , khai
thác , tận dụng tiềm năng của các TPKT khác là một trong những cách tốt nhất để tạo
công ăn việc làm cũng như ổn định đời sống cho người lao động. Đặc biệt, TPKT tư
nhân là thành phần có khả năng tạo nhiều việc làm cho người lao động, sử dụng ngay
nguồn lao động tại chỗ, ở nhiều trình độ khác nhau nên tận dụng được mọi đối tượng
lao động .
III/ Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân :
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thời gian qua đã khơi dạy một bộ phận
tiềm năng của đất nước cho phát triển kinh tế xã hội . Nguồn tiềm lực này là trí tuệ ,
kinh nghiệm , khả năng kinh doanh , quan hệ xã hội , tiền vốn , sức lao động của con
người , tài nguyên , thông tin và các nguồn lực khác . Những nguồn lực này chủ yếu là
trong nước , nhưng cũng có một số không ít cá nhân sử dụng vốn của gia đình ở nước
ngoài gửi về. Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp vào:
a-Đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư nhân theo giá trị thực tế
Đơn vị tính : %
Năm 1995 2000 2001 2002 2003 2005
Tỷ
trọng
39,14 35,69 35,57 35,35 38,96 38,5
Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư nhân trong tổng GDP của các năm sau có
giảm chút ít so với năm 1995 là do có sự tham gia và đóng góp của khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài (FDI)
Tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung tăng ổn định trong nhưng
năm gần đây. Khu vực kinh tế tư nhân năm 2005 đã chiếm 38,5% GDP, cao gấp 5,4 lần
tỷ trọng 7,11% của khu vực kinh tế tập thể, cao gấp hơn 2,5 lần tỷ trọng 15,17% của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đạt xấp xỉ với tỷ trọng 39,22% của khu vực kinh
tế nhà nước. Riêng tỷ trọng trong GDP của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân nhìn chung đã tăng lên qua các năm: nếu năm 2000 mới chiếm 7,31%, thì năm
2005 là 8,91%. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng GDP do các doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế tư nhân luôn luôn cao hơn gấp rưỡi, gấp đôi tốc độ tăng chung cũng như cao
hơn tốc độ tăng của các khu vực khác.
b- Đóng góp và huy động các nguồn vốn trong xã hội , nộp ngân sách cho Nhà
nước
Trong những năm sau cải cách mở cửa, vốn đầu tư của khu vực tư nhân tăng
nhanh và chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội:
Năm Vốn (tỷ đồng) Chiếm(%)
1999 31.542 24,05
2000 35.894 24,31
Năm 2000, vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể đạt 29.267 tỷ đồng chiếm 19,82%
tổng số vốn toàn xã hội . Vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp tư nhân đạt 6.627
tỷ đồng chiếm 4,49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội .
Tổng vốn sử dụng thực tế của khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, nhất là các
doanh nghiệp tư nhân: năm1999 : 79.493 tỷ đồng
năm 2000 : 110.071 tỷ đồng , tăng 38,5%
Các địa phương tăng mạnh vốn sử dụng thực tế cho doanh nghiệp là:
Hà Nội : 10.164 tỷ đồng (1999) lên 16.573 tỷ đồng (2000), tăng 63,05%
TPHCM: 36.954 tỷ đồng (1999) lên 52.353 tỷ đồng (2000), tăng 41,67%
Chính Phủ thu được những khoản thu ngân sách lớn từ khu vực kinh tế tư nhân do
các do khu vực kinh tế này hoạt động có hiệu quả hơn các doanh nghiệp nhà nước nhất
là trong các ngành có tính cạnh tranh cao, thâm hụt ngân sách giảm .Đóng góp vào
ngân sách của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển:
Năm 2000, nộp ngân sách nhà nước được 5.900 tỷ đồng ( chiếm 7,3% ngân sách,
tăng 12,5% so với năm 1999)
c- Khu vực kinh tế tư nhân thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu, tạo việc làm,
góp phần xoá đói giảm nghèo .
Trước đây, quan hệ sở hữu nước ta chỉ bao gồm sở hữu toàn dân và tập thể. Khái
niệm "kinh tế tư nhân" được chính thức sử dụng từ Hôi nghị lần thứ 6 của Trung ương
Khóa VI (tháng 3-1989). Nghị quyết chỉ rõ: "trong điều kiện của nước ta, các hình thức
kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và
nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội", được mở rộng ra :
còn có sở hữu tư nhân về TLSX và sở hữu hàng hoá . Sự chuyển biến về quan hệ sở hữu
nói trên kéo theo sự chuyển biến trong quan hệ quản lý : hình thành tầng lớp chủ doanh
nghiệp TBTN bên cạnh đội ngũ các giám đốc của doanh nghiệp nhà nước , hình thành
đội ngũ những người lao động làm thuê trong các doanh nghiệp TBTN bên cạnh những
người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp nhà nước…, xuất hiện quan hệ chủ
thợ , quan hệ thuê mướn lao động bắt đầu hình thành và ngày càng mở rộng , tạo cơ hội
tìm kiếm việc làm cho mọi người , nhất là số người trẻ tuổi hàng năm đến tuổi lao động
chưa có việc làm , giải quyết số dôi dư từ các cơ quan , doanh nghiệp nhà nước do tinh
giảm biên chế…Các nhà tài trợ quốc tế đã gọi kinh tế tư nhân Việt Nam là “cỗ máy tạo
việc làm”. Báo cáo phát triển Việt Nam 2006, Báo cáo chung của các Nhà tài trợ khẳng
định khu vực kinh tế tư nhân trong nước có hiệu quả lớn nhất trong việc tạo việc làm
với chi phí thấp. Có thể thấy dễ dàng là tính số vốn trung bình cho một công nhân trong
các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và
khu vực kinh tế tư nhân trong nước sẽ thấy hàm lượng vốn là cao nhất trong các doanh
nghiệp FDI, và thấp nhất trong khu vực tư nhân trong nước.
Nhìn lại 9 năm thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (Viện Nghiên cứu
quản lý kinh tế trung ương-CIEM), nhận xét nổi bật là khu vực kinh tế dân doanh
ngày càng chiếm ưu thế trong nền kinh tế thông qua cơ cấu vốn đầu tư và tạo việc
làm. Cơ cấu vốn đầu tư trung bình một dự án giai đoạn 1996-2003 tăng từ 4,5 tỷ đồng
lên 8,5 tỷ đồng, lao động bình quân của một dự án tăng từ 87 lên 123 lao động.Đến
nay, tổng số doanh nghiệp đăng ký của khu vực tư nhân trên 120.000. Số doanh
nghiệp đăng ký thành lập trung bình hàng năm hiện gấp 3,75 lần so với trung bình của
thời kỳ 1991-1999. Ước tính trong 4 năm trở lại đây, các doanh nghiệp đã tạo ra
khoảng 1,6 triệu việc làm mới. Ước tính ban đầu cho thấy các hộ kinh doanh khu vực
kinh tế tư nhân đã đóng góp tới 90% tổng số 7,5 triệu việc làm được tạo ra trong giai
đoạn 5 năm cho tới năm 2005. Phần lớn trong tổng số 1,6 triệu việc làm mới mỗi năm
mà VN cần có trong giai đoạn 2006-2010 hy vọng sẽ có do khu vực kinh tế tư nhân
tạo ra.
Quan hệ phân phối giờ đây trở nên linh hoạt , đa dạng , ngoài phân phối chủ yếu
dựa trên lao động , còn sử dụng hình thức phân phối theo vốn góp , tài sản , cổ phần
và các hình thức khác …. Vì vậy QHSX trở nên mềm dẻo , linh hoạt , dễ được chấp
nhận và phù hợp với thực trạng của nền kinh tế và tâm lý xã hội của nước ta hiện
nay . Chuyển biến QHSX khơi dạy , phát huy tiềm năng vốn , TLSX , tài nguyên
thiên nhiên , đặc biệt là nguồn lao động dồi dào và tiềm lực của hàng triệu hộ dân,
góp phần xoá đói giảm nghèo( từ 16,5% hộ đói nghèo năm 1995, đến năm 2000 chỉ
còn 11%). Không những vậy còn cải thiện đáng kể đời sống dân cư ỏ cả thành thị và
nông thôn . Theo thực tế khảo sát , thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế
tư nhân thường có mức thu nhập tương đương hoặc cao hơn thu nhập của lao động
trồng lúa ở nông thôn ở cùng địa bàn , góp phần đưa đất nước vượt qua khủng hoảng ,
và là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhiều năm liền trong khu
vực và trên thế giới
d- Thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo định
hướng thị trường , tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế
Trước đây , hầu hết các lĩnh vực kinh tế , các ngành sản xuất kinh doanh v.v đều do
kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể đảm nhiệm . Hiện nay trừ một số lĩnh vực , ngành
nghề mà Nhà nước độc quyền , kinh tế tư nhân không được kinh doanh , còn lại hàu hết
các ngành nghề , lĩnh vực sản xuất , kinh doanh khác , khu vực kinh tế tư nhân đều tham
gia . Trong đó nhiều lĩnh vực , ngành nghề , kinh tế tư nhân chiếm tỷ lệ cao :sản xuất
lương thực , thực phẩm , nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản , dệt may, da giày…
TPKT tư nhân đã mang về hàng tỷ đôla ngoại tệ cho đất nước .
Chính sự phát triển phong phú , đa dạng các cơ sỏ sản xuất , ngành nghề , loại sản
phẩm dịch vụ , các hình thức kinh doanh v.v của các khu vực kinh tế tư nhân mang lại
đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp nhà nước , buộc khu vực kinh tế nhà nước phải
cải tổ , sắp xếp lại , đầu tư đổi mới cơ chế, bộ máy cũng như phương pháp kinh doanh ,
dịch vụ… để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường . Qua đó , khu vực kinh tế tư
nhân đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế , làm cho nền kinh tế trở nên
năng động , đồng thời cũng tạo sức ép lớn , buộc cơ chế quản lý hành chính của nhà
nước phải đổi mới , đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và
nền kinh tế thị trường nói chung .
Sự phát triển của nền kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng trong việc hình thành
và xác lập vai trò vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị
trường , phát triển nền kinh tế nhiều thành phần , thúc đẩy cải cách doanh nghiệp Nhà
nước cải cách cơ chế quản lý theo hướng thị trường , mở cửa hợp tác với bên ngoài
e-Thúc đẩy nền kinh tế bước vào giai đoạn CNH-HĐH , xây dựng QHSX phù hợp
với LLSX , mở cửa hợp tác với nước ngoài
Công cuộc cải tạo XHCN và cả những doanh nghiệp tư nhân , chỉ còn lại các nhà
doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quốc doanh và hợp tác xã . Đội ngũ các nhà doanh
nghiệp trong khu vực kinh tế quôc doanh được đào tạo theo cơ chế cũ , mặc dù được
đào tạo , đổi mới trong nền kinh tế thị trường trong những năm gần đây và đạt được
những thành tựu đáng kể trong sản xuất kinh doanh , nhưng nhìn chung vẫn có những
yếu kém , bất cập trước những yêu cầu của thời kỳ CNH-HĐH đất nước thời mở cửa
nền kinh tế
Nhờ đổi mới và phát triển khu vực kinh tế tư nhân , chúng ta đã từng bước hình
thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, ngành
nghề của nền kinh tế quốc dân với số lượng ngày một lớn
→Số lượng các nhà doanh nghiệp tư nhân và các chủ trang trại hình thành trong
thời kỳ đổi mới > hơn nhiều lần. Đây thực sự là một thành quả có ý nghĩa lớn trong việc
xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp và phát huy nguồn lực con người cho đất nước
thời kỳ mở cửa của khu vực kinh tế tư nhân .
Mặc dù được hình thành một cách tự phát nhưng nhờ được đào luyện trong cơ chế
thị trường , đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư nhân đã chứng tỏ bản lĩnh , tài năng , thích
ứng khá kịp thời với sự chuyển biến của nền kinh tế . Họ đã vươn lên tham gia hầu hết
các lĩnh vực , ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm , trong đó bao
gồm cả các ngành kỹ thuật cao (điện tử , phần mềm …) và làm chủ nhiều lĩnh vực
( nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản, công nghiệp chế biến …) , nhiều ngành
hàng( thương mại , dịch vụ , bán lẻ hàng hoá , ăn uống, gia công giày dép , dệt may , thủ
công mỹ nghệ xuất khẩu…)
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng số lượng các nhà doanh nghiệp tư nhân , chủ trang
trại cùng giám đốc các doanh nghiêp nhà nước là thành quả trọng mà công cuộc đổi mới
đã tạo nên . Nhưng nếu so với yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế( dân) và đặc biệt
trước yêu cầu mở cửa , hội nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và Thế Giới _ đòi hỏi
phải có đội ngũ các nhà doanh nghiệp đủ mạnh , ngang sức ngang tài , là đối tác với các
doanh nghiệp nước ngoài . Với những đòi hỏi đó, thì số lượng chủ doanh nghiệp ở nước
ta nói trên còn quá nhỏ bé . Đa số các doanh nghiệp ở nước ta còn ở dạng vừa và nhỏ .
Phần lớn các chủ doanh nghiệp ở độ tuổi trung niên , có trình độ văn hoá , trưởng thành
trong giai đoạn đổi mới , con đường lập nghiệp của họ cũng khác nhau . Phần đông là
cán bộ , công nhân viên Nhà nước vì nhiều lý do nên thành lập doanh nghiệp . Một số là
cán bộ về hưu , phục viên, xuất ngũ , số khác là học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp có
cơ hội bước vào con đường lập nghiệp v.v Phần lớn họ đều xuất thân từ gia đình lao
động , bản thân họ cũng là người lao động lớn lên trong chế độ mới – trong đó không ít
người là cán bộ , đảng viên được đào tạo ngành nghề , có trình độ , bằng cấp , đã tham
gia cách mạng và sự nghiệp xây dựng CNXH , có hoài bão , ước mơ v.v muốn thử sức
trong thương trường để làm giàu cho mình và cho xã hội và là người làm ăn chân chính
Mặc dù có không ít các chủ doanh nghiêp, trang trại có biểu hiện tiêu cực, chạy
theo đồng tiền bất chấp luật pháp , đạo lý xã hội , làm ăn phi pháp , hàng giả … gây
thiệt hại cho xã hội , cần giáo dục …Nhìn chung cầm có hệ thống luật pháp đồng bộ ,
chặt chẽ , rõ ràng đối với khu vực kinh tế tư nhân , nhưng đồng thời cũng cần có chính
sách biện pháp khuyến khích họ để họ thực sự đứng trong đội ngũ các nhà doanh nghiệp
Việt Nam, thúc đẩy con tàu kinh tế đất nước , thực hiện thành cồn CNH-HĐH đất nước
B/ Thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện
nay
I/Sự phát triển về số lượng của khu vực kinh tế tư nhân
Trước đổi mới(1986), khu vực kinh tế tý nhân là đối tượng cải tạo XHCN,
không được luật pháp bảo vệ và khuyến khích phát triển. Nhýng vì khu vực kinh tế
quốc doanh và tập thể không thoả mãn nhu cầu mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội của
đất nýớc , kinh tế tư nhân còn cần thiết cho nền kinh tế , vẫn âm thầm tồn tại dưới dạng
kinh tế hộ gia đình ( của các hộ cán bộ công nhân viên nhà nýớc và hộ xã viên hợp tác
xã), các tổ hợp tác, tổ hợp tác sản xuất núp bóng doanh nghiêp nha nước hoặc hợp tác
xã(thực chất là loại hình kinh tế tý nhân khác nhau) , kinh tế tư nhân chủ yếu giới hạn
trong khu vực hộ kinh doanh cá thể, hoạt động chủ yếu ở thị trường tự do, tức là ở khu
vực không chính thức. Cho đến năm 1990, nếu số hộ công, thương nghiệp kinh doanh
cá thể mới có khoảng 840 nghìn; thì đến nay đã có trên 3 triệu hộ. Đó là chưa kể có
khoảng 130 nghìn trang trại và khoảng 11 triệu hộ sản xuất nông nghiệp theo mô hình
kinh tế hộ tự chủ. Doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trước năm 1991 hầu như
không có, nếu có thì chủ yếu hoạt động ở thị trường ngầm, không được chấp nhận chính
thức.
Tuy số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đăng ký mới khá nhiều,
nhưng số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều. Bên
cạnh đó, còn có những khác biệt về số doanh nghiệp hoạt động với số đăng ký kinh
doanh, bởi số doanh nghiệp đang hoạt động, không bao gồm các doanh nghiệp đã được
cấp phép, mã số thuế, nhưng chưa đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh
nghiệp đăng ký thành lập nhưng đã giải thể, sáp nhập, chuyển đổi loại hình, các doanh
nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không có tại địa phương, các đơn vị
không phải là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, như các chi nhánh, đơn vị phụ
thuộc, các đơn vị sự nghiệp. Tuy mật độ và phạm vi hoạt động còn hạn chế những hình
thức kinh tế tư nhân cũng đã cải thiện đời sống cho bộ phận lớn cán bộ , công nhân viên
và xã viên các hợp tác xã , giảm bớt căng thẳng cho nên kinh tế thời bấy giờ .
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (12/1986) nhất là từ khi ban hành Luật
doanh nghiệp tý nhân (1990) và nghị định số 221/ HĐBT (27/3/1991) về '' Cá nhân &
nhóm kinh doanh '' cùng nhiều chỉ thị ,nghị quyết, chính sách khuyến khích khác của
Đảng và Nhà nýớc , khu vực kinh tế tý nhân đă có bước ngoặt trong sự hồi sinh và phát
triển .Từ sau khi có Luật Công ty (năm 1990), số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân mới chính thức ra đời và chỉ thực sự tăng lên nhanh chóng từ sau khi có Luật
Doanh nghiệp, sau 5 năm thi hành, số doanh nghiệp đăng ký mới đã đạt gần 110 nghìn,
cao gấp hơn 2,4 lần so với thời kỳ 1991 - 1999.
Số cơ sở kinh doanh tư nhân giai đoạn 1991 – 1998
Loại hình 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
DNTBTN 414 5198 6808 10881 15276 18894 25002 26021
DNTN 270 3676 5812 7794 10916 12464 17500 18750
CTTNHH 122 1444 1607 2968 424 6303 7350 7100
CTCP 22 78 19 119 118 127 152 171
Số cơ sở
kd cá thể
1498600 153310
0
2050200 2215000
+kinh tế cá thể bình quân giai đoạn 1990 - 1996 : mỗi năm tăng 553.775 cơsở (tốc
độ tăng hàng năm lớn hơn 20%).
+Từ năm 1992 đến năm 1994 số đơn vị kinh tế cá thể tăng 34500 đơn vị
+Từ năm 1994 đến năm 1995 số đơn vị kinh tế cá thể tăng 517100 đơn vị , tức là chỉ
trong 1 năm, riêng số đõn vị cá thể đã tăng nhiều hơn hẳn so với năm trc ,vì do có sự
mở cửa thông thoáng, nhiều ngýời nhận thức được vai trò cũng nhý lợi ích của hình
thức kinh doanh này
+Từ năm1995 đến năm1996 số đõn vị kinh tế cá thể tăng 164800đơn vị , có sự giảm
sút này do có nhiều đõn vị cá thể, có nguồn vốn bắt đầu khá, chuyển sang hình thức
khác nhý thành lập doanh nghiêp
Các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có những bước phát
triển vượt bậc về số lượng.
Số l ượng TBTN giai đoạn 1991_1998
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Số
lượng
414 5.198 6.808 10.881 15.276 18.894 25.002 26.001
Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới,
tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm 2004, đã có 150.000 doanh
nghiệp tư nhân đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với tổng số vốn điều lệ là
182.000 tỷ đồng
Bình quân giai đoạn này mỗi năm tăng thêm 3252 doanh nghiệp (khoảng 32 %), gấp
1,5 lần mức tăng củ kinh tế cá thể tiểu chủ cùng thời gian .Luật Doanh nghiệp năm 1999
đánh dấu một mốc quan trọng trong những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho
khối kinh tế tư nhân phát triển. Với tinh thần chủ đạo là "doanh nghiệp được tự do kinh
doanh những gì mà pháp luật không cấm", chuyển từ "cấp phép kinh doanh" sang "đăng
ký kinh doanh", Luật Doanh nghiệp 1999 đã giúp giảm đáng kể thời gian và chi phí
đăng ký thành lập doanh nghiệp. Nhờ đó, mỗi năm có thêm hàng chục ngàn doanh
nghiệp được chính thức thành lập. Theo số liệu của Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp
(TTTTDN) của Bộ , và cả nýớc có khoảng 40.000 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế
tý nhân. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới cho đến cuối năm 2003 nhiều
gấp hơn hai lần số lượng doanh nghiệp thành lập trong vòng 10 năm trước đó, nâng
tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam lên khoảng 128.000.
Số lượng doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tăng, nhưng vẫn còn ít (bình
quân 820 người mới có 1 doanh nghiệp); mục tiêu phấn đấu đưa lên 500 nghìn doanh
nghiệp thực hiện cũng không dễ dàng nếu không có chính sách và giải pháp khuyến
khích tạo lực đẩy cho kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên, trên thực tế, số doanh nghiệp đang hoạt động không nhiều như đăng
ký.Tuy số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đăng ký mới khá nhiều, nhưng
số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều. Bên cạnh đó,
còn có những khác biệt về số doanh nghiệp hoạt động với số đăng ký kinh doanh, bởi số
doanh nghiệp đang hoạt động, không bao gồm các doanh nghiệp đã được cấp phép, c p
mã số thuế, nhưng chưa đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đăng
ký thành lập nhưng đã giải thể, sáp nhập, chuyển đổi loại hình, các doanh nghiệp đã
được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không có tại địa phương, các đơn vị không phải là
doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, như các chi nhánh, đơn vị phụ thuộc, các đơn vị
sự nghiệp.Theo điều tra của Tổng cục thống kê (TCTK), số doanh nghiệp đang hoạt
động tính đến thời điểm cuối năm 2002 là 62.908, cuối năm 2003 là 72.012, tức là
khoảng 55% so với số doanh nghiệp đã đăng ký. Trong một nền kinh tế thị trường tự do
cạnh tranh, việc dừng kinh doanh cũng như việc đăng ký kinh doanh mới là hiện tượng
bình thường của quá trình phát triển khi mà các doanh nghiệp phản ứng với những thay
đổi liên tục của môi trường bên ngoài, ví dụ như cơ hội thị trường mới, các khó khăn
mới xuất hiện v.v. Vì vậy, hiện tượng số lượng doanh nghiệp còn hoạt động ít hơn số
lượng doanh nghiệp đã đăng ký thành lập là một điều dễ hiểu và ở một mức độ nào đó
phản ánh sự năng động của khối doanh nghiệp tư nhân. ở các nước phát triển thuộc tổ
chức OECD, tỷ lệ doanh nghiệp còn hoạt động sau 2 năm vào khoảng 60-70% và sau 7
năm thì chỉ còn là 40-50%. Tuy nhiên, hệ thống đăng ký doanh nghiệp hiện nay của
Việt Nam chưa cung cấp được thông tin đầy đủ về những doanh nghiệp đã dừng hoạt
động hay thay đổi và lý do thay đổi. Theo kết quả nghiên cứu gần đây của MPDF,
nguyên nhân giải thích sự chênh lệch giữa số liệu của cơ quan phụ trách đăng ký doanh
nghiệp và TCTK là doanh nghiệp giải thể và ngừng hoạt động thì hầu như không được
ghi nhận trong hệ thống đăng ký doanh nghiệp của TTTTDN; nhiều doanh nghiệp đăng
ký thành lập không phải là doanh nghiệp thành lập mới mà là chi nhánh hoặc công ty
con của một doanh nghiệp khác và một số doanh nghiệp có thể đăng ký nhằm phục vụ
những mục đích cá nhân hay mục đích đặc biệt của riêng doanh nghiệp (ví dụ như được
mua quyển "hóa đơn đỏ" VAT). Hiểu rõ hơn những nguyên nhân này sẽ giúp Nhà nước
có được các chính sách quản lý và hỗ trợ doanh nghiệp thiết thực hơn.
II/Sự phát triển theo ngành nghề sản xuất kinh doanh
Đứng trên khía cạnh ngành thì khu vực kinh tế tư nhân đang phát triển mạnh. Kinh
tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm Theo điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
TW, số lượng doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong các lĩnh vực trên cả nước
Các ngành 1996 2000
Sản xuất công nghiệp 27% 20,8%
Lĩnh vực vận tải , kho bãi ,
thông tin liên lạc
9% 8,3%
Thương mại dịch vụ 38,8% 51,9%
Lĩnh vực khác 26%
+)Cơ cấu ngành nghề của khối kinh tế tư nhân cũng có sự thay đổi. Tỷ lệ sản xuất
ngành công nghiệp giảm vì ngành này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, mà hầu hết các doanh
nghiệp của ta đều ở dạng vừa và nhỏ nên khả năng vốn không lớn .Không những vậy ,
khả năng thu hồi vốn và quay vòng vốn thấp( vì lượng vốn bỏ vào nhà xưởng, máy moc
nhiều). Các doanh nghiệp này lại gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ các tập đoàn sản
xuất của nước ngoài , của các đơn vị nhà nước và các doanh nghiệp liên doanh nước
ngoài có khả năng hùng hậu về vốn, công nghệ và kinh nghiệm,
Năm 1988, cả nước có381 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp , đến năm 1990, số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này là 770 doanh
nghiệp , tức là chỉ ngay sau khi đổi mới, mở cửa, số doanh nghiêp săn xuất công nghiệp
đã tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt tăng nhanh trong giai đoạn 1991-2003, đây là giai
đoạn Việt Nam đổi mới sâu sắc nên nhu cầu của ngành công nghiệp là rõ ràng( nhất là
khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực năm 2000). Năm 2000 cả nước có 4193 doanh
nghiệp tư nhân, tính cả cá thể tiểu chủ còn lớn hơn nhiều .
Số doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong ngành sản xuất công nghiệp không
những tăng về số lượng, mà còn đóng góp đáng kể vào giá trị sản xuất Công nghiệp cả
nước
Tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân về giá trị sản xuất CN
Năm 1986 1990 1995 2002
Tỷ trọng 15,6% 29,1% 27,4% 34,3%
Cơ cấu công nghiệp theo TPKT
đơn vị :%
Năm 1999 2000
Tỷ trọng 100 100
1-Khu vực kinh tế trong
nước
74,9 66
+KT Nhà nước 50,3 44,9
+KT ngoài quốc doanh 24,6 21,1
2- Khu vực có vốn FDI 25,1 34
+)Tương tự như đối với ngành sản xuất công nghiệp, lĩnh vực vận tải, kho bãi ,
thông tin liên lạc cũng giảm một lượng nhỏ về cơ cấu ( từ 9% xuống 8,3%) . Ngoài
những lý do trên, cơ cấu ngành này còn giảm do giá dầu thế giới leo thang , khiến cho
tất cả các ngành đều gặp khó khăn, đặc biệt là ngành vận tải chịu ảnh hưởng trực tiếp và
nặng nề nhất. Việt Nam, một nước có nền kinh tế không phải là phát triển nhưng lại là
nơi có giá đất đắt đỏ vào loại nhất TG, mà diện tích đất dành cho doanh nghiệp thuê lại
không nhiều vì vậy việc thuê kho bãi là rất khó khăn . Trong lĩnh vực thông tin liên lạc ,
các doanh nghiệp tiến dần đến phát triển về mặt quy mô, dẫn đến các doanh nghiệp
không có khả năng, không đủ sức cạnh tranh sẽ bị loại .Tuy nhiên về số lượng các
doanh nghiệp này cũng tăng nhanh chóng, và đóng góp vào ngân sách Nhà nước.Chiếm
64% tổng lượng vận chuyển hàng hóa cả nước
+)Trong số các ngành nghề chỉ có khu vực thương mại dịch vụ là tăng về cơ cấu so
với các ngành khác ( 38,8% năm 1996 lên 51,9% năm 2000), chiếm hơn nửa cơ cấu
ngành của khu vực kinh tế tư nhân và chiếm vị thế chủ yếu. Sự gia tăng về mặt số lượng
của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này cũng là điều dễ hiểu vì khu vực thương mại
dịch vụ này không cần lượng vốn quá lớn , với số vốn tuỳ theo khả năng các doanh
nghiệp đều có thể hoạt động , có thể từ vài chục triệu , vài trăm triệu hay vài tỷ đồng ,
doanh nghiệp có thể hoạt động trên những lĩnh vực khác nhau. Ngoài ra, ngành thương
mại dịch vụ là ngành thu hồi vốn nhanh, khả năng quay vòng vốn cao, khả năng sinh lời
cao so với số vốn bỏ ra, phù hợp với đặc điểm của các doanh nghiệp Việt Nam đó là
vừa và nhỏ . Ngoài ra, lĩnh vực này có thể sử dụng lao động địa phương không yêu cầu
cao về mặt trình độ vì vậy ngoài việc tạo công ăn việc làm cải thiện đời sống cho nhân
dân địa phương, doanh nghiệp còn tiết kiệm được thời gian tìm nhân công, tiết kiệm
được khoản phí thuê chỗ ở cho nhân công…. Đây chính là lý do cơ cấu ngành thương
mại dịch vụ trong khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh và chiếm tỷ trọng lớn. Số
lượng các doanh nghiệp tư nhân tăng lên rõ rệt : Năm 1986 cả nước mới có
568000 doanh nghiệp
Năm 1990, cả nước có 835000 doanh nghiệp
Năm 2002, cả nước có 26.421 doanh nghiệp mới thành
lập, nâng số doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong thương mại dịch vụ lên 2.381.421.
Tức là chỉ trong vòng 12 năm kể từ khi đổi mới mở cửa , số doanh nghiêp tư nhân
hoạt động trong khu vực dịch vụ đã tăng 285,2%.
Số lượng doanh nghiệp trong các lĩnh vực của kinh tế tư nhân
(đơn vị: doanh nghiêp)
1995 2000
Thương
mại
7.645 18.000
CN chế biến 5.006 6.617
Lĩnh vực
khác
2.625 6.902
Tổng 15.276 31.519
Lĩnh vực thương mại luôn là lĩnh vực thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia nhất
(chiếm khoảng 50% tổng số doanh nghiệp tư nhân), và tăng trưởng nhanh chóng , chỉ
trong vòng 5 năm (1995-2000) đã có10355 doanh nghiệp mới trong lĩnh vực này, làm
cho số doanh nghiệp tư nhân trong ngành thương mại dich vụ năm 2000 gấp 2,3 lần
năm 1995
Số lượng của các hinhg thức kinh tế tư nhân trong 1995-2000
(đơn vị : doanh nghiệp )
1995 2000
Hộ kinh doanh gia đình 10.916 23.850
Công ty trách nhiệm
hữu hạn
4.242 7.200
Công ty cổ phần 118 469
Tổng 15.276 32.519
Các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực này không chỉ gia tăng về mặt số lượng ,
mà còn có doanh thu cao . Năm 2000, khu vực kinh tế tư nhân chiếm 80% doanh thu
khu vực thương mại bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong nước , không những làm giàu cho
bản thân doanh nghiệp mà còn đóng góp ngân sách, tạo công ăn việc làm cho người lao
động, nhất là thành phần hộ kinh doanh gia đình tăng mạnh trong lĩnh vực này( từ
10.916 dn năm1995, lên 23.850 dn năm 2000), luôn chiếm số lượng lớn trong khu vực
kinh tế tư nhân ( khoảng 72%)
+) Trong ngành nông lâm ngư nghiệp, thành phần tư nhân hoạt động dưới hình thức
kinh tế trang trại và hộ nông dân , sản xuất trên quy mô lớn , chiếm tỷ lệ khá cao trong
cơ cấu ngành nghề của khu vực kinh tế tư nhân( năm 2000 là 12,4%).
Năm 2002, cả nước có 2525 doanh nghiệp tư nhân
69 công ty TNHH
13 triệu hộ gia đình
Trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp . Trong đó 77% hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp vì đây là ngành chính của nước ta( nước ta có nghề truyền thống là trồng lúa
nước , trải qua nhiều năm có kinh nghiệm). Hiện nay có tới 95% là sản xuất nông
nghiệp trong cơ cấu ngành nông lâm ngư nghiệp , trên 80% sản xuất nông nghiệp là do
khu vực kinh tế tư nhân đảm nhiệm . Nền kinh tế trang trại và sản xuất quy mô lớn do
khu vực tư nhân sở hữu mang lại hiệu quả lớn cho nền kinh tế, giúo nước ta khai thác
hiệu quả nguồn lực hiện nay hơn rất nhiều so với cơ chế cũ khi nền kinh tế tập thể, hợp
tác xã đóng vai trò chủ đạo trong lĩnh vực nông nghiệp . Còn trong lâm nghiệp , nhà
nước cũng có chính sach giao đất giao rừng cho tư nhân, nâng cao nhận thức của tư
nhân về quyền lợi và nghĩa vụ bảo vệ rừng, vùa mang lại lợi ích cho bản thân doanh
nghiệp, cá nhân, vừa mang lại lợi ích cho đất nước . Khu vực kinh tế tư nhân cũng đã
nhân thức được khả năng mang lại lợi nhuận từ ngành lâm ngư nghiệp, vì vậy diện tích
rừng được phủ xanh hàng năm tăng, diện tích mặt nước thả cá, tôm , cua tăng nhanh
chóng, mang lại công ăn việc làm và thu nhập đáng kể cho các doanh nghiệp và hộ dân.
Đã xuất hiện nhiều doanh nghiêp lớn , cá nhân xuất sắc , tỷ phú trong những lĩnh vực
này.
Trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản, tỷ trọng kinh tế hộ tự chủ và
kinh tế trang trại tăng lên rõ rệt, tương ứng là sự sút giảm tỷ trọng của kinh tế tập thể và
quốc doanh. Đây là yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu để tạo nên sự chuyển biến thần
kỳ của sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản, vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa có
khối lượng lương thực xuất khẩu lớn (từ 1989 đến nay đã xuất khẩu gần 50 triệu tấn
gạo, thu được trên 11 tỉ USD); vừa phát triển nông nghiệp toàn diện, góp phần đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng, chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
III/ Sự phát triển theo lãnh thổ
Do đặc điểm địa hình kéo dài từ Bắc tới Nam nên nước ta có các vùng địa lý rất
khác nhau về điều kiện tự nhiên: đất đai, thời tiết, khí hậu cũng như tài nguyên thiên
nhiên và địa hình. Dựa trên các cơ sở điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, có thể phân
định ra những vùng khác nhau và hợp lý như thế nào đó để có thể vừa khai thác tốt nhất
tiềm năng của từng vùng, vừa giúp tăng cường sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các
vùng kinh tế. Các doanh nghiệp thương mại hiện chủ yếu tập trung ở thành phố lớn, kết
cấu hạ tầng phát triển, điều kiện giao thông thuận lợi, người tiêu dùng có thu nhập cao,
sức cầu lớn. Do tập trung quá nhiều doanh nghiệp trên cùng một địa bàn, nên tính cạnh
tranh thường rấtgay gắt.
- Trên địa bàn nông thôn, DN tư nhân chiếm 14%, với số lượng 40.500 doanh nghiệp,
tập trung hầu hết ở 1631 làng nghề, trong đó DNNN chiếm 14,16%, HTX 5,76%, doanh
nghiệp tư nhân 80%. Nếu phân theo lĩnh vực hoạt động có khoảng 18,62% doanh
nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, 32,5% doanh nghiệp sản xuất tiểu thủ công
nghiệp và xây dựng, 49,78% doanh nghiệp dịch vụ. Hiện 100% sản lượng của một số
sản phẩm truyền thống như cói, đan lát, thủ công mỹ nghệ do các DN tư nhân ở nông
thôn sản xuất. Vốn bình quân một doanh nghiệp rất thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự
có. DN tư nhân ở nông thôn tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp, thu hút khoảng 25-
26% lực lượng lao động cả nước. Nhưng, nhìn chung, lao động trong các DN tư nhân ở
nông thôn chủ yếu dựa vào lao động bản thân và gia đình là chính (lao động làm thuê
chỉ chiếm khoảng 32% trong các hộ sản xuất ngành nghề), khả năng giải quyết lao động
thừa ở nông thôn chưa cao, bình quân 1 DN tư nhân ở nông thôn sử dụng khoảng 30 lao
động; trình độ, tay nghề của người lao động cũng rất thấp: trung học phổ thông 35%,
nghệ nhân 0,06%, trung cấp trở lên 9,8%; tình trạng nợ đọng, chiếm dụng vốn còn khá
phổ biến; phương thức sản xuất còn rất lạc hậu, tình trạng ngưng trệ sản xuất, thua lỗ,
phá sản rất phổ biến.
Nhìn chung, ở nước ta, quy mô DN tư nhân còn hạn chế, công nghệ lạc hậu, khả
năng cạnh tranh rất thấp, sản xuất kinh doanh mang tính chất tự phát, thiếu định hướng,
mất cân đối, phân bổ không đều, chủ yếu ở ph ía Nam( 73%, riêng TPHCM chiếm 25%)
, khu vực phía Bắc chiếm 18%, miền Trung chiếm9% ,(DN tư nhân tập trung ở Đông -
Nam Bộ 35,8%, đồng bằng sông Hồng 24,3%, đồng bằng sông Cửu Long 16,6%)
IV/ Cơ hội và thách thức của khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn
hiện nay
a-Cơ hội lớn
Từ năm 2000 trở lại đây, KVKTTN nói chung, DNTN nói riêng, đang phát triển
mạnh, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và
đang ngày càng khẳng định vai trò động lực của mình.
Với việc thi hành Luật Doanh nghiệp và hàng loạt các biện pháp cải cách khác, môi
trường kinh doanh ở nước ta trong mấy năm gần đây đã có những cải thiện quan trọng
theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh của người dân trên nguyên tắc doanh
nghiệp và người dân được tự do kinh doanh tất cả những lĩnh vực mà luật pháp không
cấm, khuyến khích người dân làm ăn, kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước,
khuyến khích mọi doanh nghiệp tham gia các ngành xuất khẩu, chú trọng hỗ trợ các
doanh nghiệp nhỏ và vừa Chính trong môi trường đó, KVKTTN và đặc biệt là DNTN
đã nhanh chóng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước trên các mặt: tạo công ăn việc làm, tăng
vốn đầu tư phát triển, mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng các ngành kinh tế công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy phát triển các thị trường, đổi mới kinh tế và
hành chính
KVKTTN phát triển nhanh chóng trong thời gian qua còn do tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của đất nước, khởi đầu từ khi chúng ta đổi mới, và đặc biệt phát triển từ
giữa thập kỷ 1990, khi nước ta lần lượt tham gia ASEAN, ASEM, APEC và không
ngừng mở rộng quan hệ song phương với các nước khác trên thế giới. Thị trường các
nước mở rộng dần cho các sản phẩm của Việt Nam đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp
Việt Nam , trong đó có KVKTTN phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm của
mình trên các thị trường khu vực và quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối
cảnh thị trường trong nước còn hạn hẹp do tình trạng nước nghèo, mức thu nhập và khả
năng tiêu dùng còn thấp, các DNVN rất thiếu "đầu ra". Các quan hệ thương mại và đầu
tư rộng mở cũng tạo cho DNVN cơ hội có các đối tác làm ăn, cơ hội học hỏi kinh
nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ của họ, đào tạo nguồn nhân lực cho mình và trưởng
thành dần qua hợp tác và cạnh tranh.
Khi nước ta tham gia WTO, các cơ hội này lại càng mở rộng, những rào cản sẽ được
dỡ bỏ, các DNVN sẽ có vị trí bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trên thị trường các
nước. Họ sẽ có quyền không chỉ xuất nhập khẩu, tiếp nhận đầu tư, mà còn mở rộng
nhiều phương thức hợp tác khác và đầu tư ra các thị trường nước ngoài, khai thác tối đa
những lợi thế cạnh tranh của mình và tận dụng sự phân công lao động quốc tế, tham gia
mạng lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu theo cách có lợi nhất cho mình. Tham
gia WTO cũng thúc đẩy nước ta cải thiện mạnh mẽ môi trường pháp lý, chính sách cho
kinh doanh, tạo thuận lợi cho cạnh tranh và phát triển của mọi doanh nghiệp.
b-Thách thức không nhỏ
Tuy nhiên, trong bước đường phát triển vừa qua cũng như trong thời gian tới, khu
vực kinh tế này còn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, trở ngại:
Một là, bản thân KVKTTN của nước ta nhìn chung còn nhỏ, yếu, mới hình thành,
rất thiếu các nguồn lực cần thiết cũng như thiếu sự liên kết để nâng cao năng lực cạnh
tranh và phát triển.
Trong DNTN của chúng ta có tới 95% thuộc quy mô nhỏ và vừa (theo tiêu chí của
nước ta là có dưới 300 lao động và/hoặc dưới 10 tỉ đồng vốn), trong đó khoảng 50%
thuộc quy mô nhỏ hoặc cực nhỏ (dưới 100 lao động và/hoặc dưới 5 tỉ đồng vốn). Cái
yếu của DNTN ở nước ta thể hiện rõ nhất ở năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh và
năng lực cạnh tranh nhìn chung còn thấp so với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
(FDI) và doanh nghiệp các nước xung quanh. Họ cũng yếu hơn phần lớn các DNNN
trong cùng lĩnh vực về quy mô, về khả năng tiếp cận các nguồn lực và kinh nghiệm
thương trường. Do nhỏ, yếu, DNTN nước ta vừa rất khó đương đầu với cạnh tranh ngày
càng khốc liệt trên thị trường trong nước và quốc tế, vừa dễ bị tổn thương trước những
biến động thị trường. Hơn 80% DNTN ở nước ta mới ra đời sau khi Luật Doanh nghiệp
1999 được thi hành nên họ còn rất thiếu kinh nghiệm thương trường, chưa đủ thời gian
để trưởng thành, trong khi đã phải đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh.
Hầu hết các DNTN ở nước ta đều thiếu những nguồn lực cơ bản cần thiết cho họ:
nguồn vốn, đất đai, công nghệ, kỹ năng quản lý, nhân lực có chất lượng, thị trường,
thông tin và cả mối quan hệ với các đối tác quan trọng. Bản thân họ không thể có đủ
nguồn lực, lại gặp khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận với các nguồn lực có sẵn ở bên
ngoài doanh nghiệp, kể cả những nguồn đã được Nhà nước cam kết hỗ trợ, ưu đãi hoặc
giành quyền bình đẳng khi tiếp cận. Tình trạng thiếu nguồn lực của DNTN bị kéo dài đã
hạn chế rất lớn sự phát triển của họ. Tuy trong thời gian qua, DNTN đạt tốc độ phát
triển nhanh trên một số lĩnh vực, nhưng điều đó cũng do điểm xuất phát của họ rất thấp.
Nếu tính tới hàm lượng tăng trưởng, DNTN khó sánh được với DNNN, còn tính cả về
hàm lượng và chất lượng, họ khó sánh được với FDI, nhất là trong phát triển công
nghiệp và các lĩnh vực đòi hỏi nguồn vốn lớn. Do vậy, DNTN vừa khó cạnh tranh, vừa
khó là đối tác bình đẳng với DNNN, FDI và doanh nghiệp các nước khác. Cho tới nay,
số DNTN trưởng thành, đạt quy mô kinh tế hiệu quả còn chiếm tỷ lệ rất thấp trong
DNTN ở nước ta. Ngay trong số DNTN đã trưởng thành cũng không ít doanh nghiệp
đang lúng túng về chiến lược và nguồn lực để tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
DNTN cũng chưa thiết lập được sự liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế với nhau trong từng ngành, giữa các ngành liên quan, hoặc trong từng vùng
để tạo thế mạnh của tính hệ thống và hiệu quả của sự phối hợp. Từng DNTN mới chỉ
dựa vào sức mình là chính, chưa khai thác, sử dụng được sức mạnh của sự liên kết vốn
rất cần thiết, nhất là đối với các doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa. Thực tế đây cũng là vấn
đề chung của các doanh nghiệp Việt Nam, với những mạng lưới kinh doanh chưa được
hình thành đầy đủ, thiếu những doanh nghiệp thật mạnh có khả năng làm trụ cột, đầu
đàn tạo sự liên kết, hợp tác vững chắc để nhân thêm sức mạnh trong cạnh tranh quốc tế.
Hai là, môi trường kinh doanh trong nước còn nhiều khó khăn và thiếu bình đẳng.
Tình trạng này kéo dài đã lâu nhưng chậm được khắc phục, khiến cho môi trường kinh
doanh luôn là thách thức lớn nằm ngoài khả năng kiểm soát của DN. Trong môi trường
kinh doanh ở nước ta hiện nay, trở ngại lớn nhất của KVKTTN là ở 5 mặt sau:
+ Việc gia nhập thị trường tuy đã được cải thiện nhiều do Luật Doanh nghiệp nhưng
vẫn còn đòi hỏi chi phí cao về tiền của và thời gian. Do vậy, vẫn còn có khó khăn cho
nhiều người, nhiều vùng khi muốn lập thêm DN mới. Hiện nay, ngoài khâu đăng ký
kinh doanh là nhanh chóng và ít tốn kém nhất, các DN mới ra đời còn phải qua 3 khâu
(khắc dấu, đăng ký mã số thuế, mua hóa đơn) trước khi có thể bắt đầu hoạt động, với
tổng thời gian 50 - 60 ngày và chi phí khoảng 3 - 5 triệu đồng, tương đương với 49%
thu nhập bình quân đầu người trong 1 năm ở nước ta. Ngoài ra, quyền kinh doanh của
DNTN trong một số lĩnh vực cũng còn bị hạn chế, hoặc do các quy định về điều kiện
kinh doanh hoặc do quy hoạch ngành, vùng ở một số nơi, hoặc do các rào cản thực tế
khác.
+ Còn những rào cản lớn về pháp lý và hành chính trong quá trình hoạt động của
DN. Hệ thống luật pháp và chính sách của nước ta còn những nhược điểm: thiếu minh
bạch, thiếu nhất quán, thiếu ổn định, khó tiên liệu; tổ chức thực thi lại kém. Hệ thống
hành chính của ta kém hiệu quả, với tình trạng can thiệp hành chính vào hoạt động của
DN phổ biến và kéo dài. Sự yếu kém, nhũng nhiễu của không ít công chức đã làm vô
hiệu hóa những chính sách tốt và cam kết cải cách của Nhà nước. Nhiều vướng mắc của
DN trong lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, thuế, phí, hải quan, đất đai kéo dài đã lâu nhưng
rất chậm được giải quyết. Đó là những vấn đề chung của mọi loại hình DN ở nước ta,
nhưng đối với DNTN, những vấn đề này còn nặng nề hơn do sự phân biệt đối xử vẫn
tồn tại trên thực tế.
+ Tiếp cận các nguồn lực rất khó khăn và tốn kém. Như đã nêu trên, DNTN rất khó
tiếp cận với các nguồn lực cần thiết, và họ phải trả giá rất cao để tiếp cận với các nguồn
lực đó. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài lại được tiếp cận dễ dàng hơn, với những điều kiện ưu đãi và chi phí thấp hơn
nhiều. Thực tế này gây nên sự bất bình đẳng lớn cho DNTN, làm cho họ mất đi nhiều
cơ hội thị trường, tăng rủi ro và giảm đáng kể khả năng đầu tư của họ.
+ Chi phí kinh doanh ở nước ta khá cao so với các nước trong khu vực, khiến cho
DNTN của ta khó có thể giảm giá thành để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời chi
phí cao cũng hạn chế khả năng sinh lời, làm giảm động lực và nguồn lực trong kinh
doanh, cản trở nhiều người đi vào hoạt động thương trường hoặc tích lũy thêm vốn cho
đầu tư mới.
So với các nước trong khu vực, chi phí kinh doanh ở nước ta cao về nhiều mặt. Các
dịch vụ hạ tầng như đất đai, nhà xưởng, điện, thông tin liên lạc, giao thông vận tải đều
có mức giá cao, chất lượng dịch vụ lại thấp, khiến cho chi phí thực tế đối với DN càng
lớn. Chi phí vốn cao về lãi suất, phí tiếp cận, lại khó vay trung hạn, dài hạn nên thêm
đắt đỏ cho các DN cần vốn để đầu tư. Chi phí hành chính, chi cho các dịch vụ cần thiết,
nhiều khoản chi không được tính vào giá thành để trừ thuế càng làm tăng chi phí thực
tế của DN. Những nguyên nhân cơ bản của tình trạng chi phí kinh doanh cao ở nước ta
như quản lý yếu kém, độc quyền kinh doanh của một số DNNN trong một số lĩnh vực
chậm được khắc phục, nên tình trạng này kéo dài và trở thành gánh nặng lớn đối với
DNTN.
+ Thiếu hệ thống dịch vụ và tổ chức hỗ trợ DN. Hệ thống dịch vụ phát triển kinh
doanh, hệ thống tổ chức hỗ trợ DN rất cần thiết đối với KVKTTN, đặc biệt là các DN
nhỏ và vừa, các DN phi hình thức. ở nước ta, cả 2 hệ thống này đều chưa được phát
triển, vừa thiếu, vừa yếu, vừa kém về chất lượng.
Ba là, thách thức của môi trường kinh doanh quốc tế trong tiến trình hội nhập. Là
nước đi sau, doanh nghiệp tham gia sâu vào thị trường thế giới, nước ta và các doanh
nghiệp, đặc biệt là KVKTTN gặp không ít trở ngại trong quan hệ với cộng đồng kinh
doanh quốc tế trên thế giới.
Trước hết, môi trường kinh doanh quốc tế chứa đựng nhiều điều kiện không thuận
lợi cho các nước đang phát triển như nước ta. Sự bất công, bất bình đẳng không những
không giảm mà còn có chiều hướng tăng lên trên nhiều lĩnh vực. Các nước lớn, các
công ty đa quốc gia nắm quyền chi phối thị trường đã luôn tìm cách lái thị trường thế
giới theo hướng có lợi cho họ.
Trong khi các nước đang phát triển luôn luôn gặp sức ép đòi phải mở cửa thị trường,
thì trong thực tế các rào cản thuế và phi thuế, các hàng rào kỹ thuật lại ngày càng được
các nước phát triển dựng lên nhiều hơn, gây trở ngại cho xuất khẩu của các nước đang
phát triển. Nước ta và KVKTTN của nước ta thậm chí còn phải chịu sự phân biệt đối xử
từ những thủ tục như chứng minh năng lực sản xuất, kiểm tra tại doanh nghiệp do một
số nước bạn hàng tạo thêm. Trong điều kiện như vậy, khoảng cách với bạn hàng, sự hạn
chế của KVKTTN do thiếu thông tin, hiểu biết, kinh nghiệm, kỹ năng, phương tiện
trong kinh doanh quốc tế càng đẩy chúng ta vào thế khó khăn hơn.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta còn đang bị sức ép rất lớn về
thời gian. Nước ta cần hội nhập sớm, nhưng DN ta lại có quá ít thời gian để chuẩn bị.
Chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh toàn cầu ngay từ bây giờ, trong khi năng lực cạnh
tranh của chúng ta còn thấp và phải mất nhiều thời gian, công sức để cải thiện. Chúng ta
phải cố gắng để theo kịp trình độ phát triển ở một số nước khác, nhưng do thế giới bên
ngoài thay đổi nhanh, nên tốc độ và chất lượng thay đổi của chúng ta khó theo kịp họ.
Dù tốc độ tăng trưởng GDP, tăng trưởng xuất khẩu của nước ta hiện nay có khá cao, thì
với hàm lượng tăng nhỏ hơn, năng suất lao động thấp hơn nhiều nước khác, trên thực tế
chúng ta vẫn đang tụt lại xa hơn sau họ. Thực tế đó còn khiến chúng ta kém khả năng
ứng phó với các biến động của thị trường và dễ bị tổn thương hơn
Nhìn chung, chặng đường trước mắt của KVKTTN nước ta còn rất dài và đầy gian
nan. Tuy nhiên, với quyết tâm cao và đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam, với lực lượng doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đang trưởng thành, đầy
ý chí vươn lên làm giàu cho mình và cho đất nước, với bản lĩnh và tài năng của mình,
với sự liên kết, hợp tác ngày càng phát triển giữa các DNVN với nhau và với cộng đồng
kinh doanh quốc tế, chắc chắn KVKTTN Việt Nam sẽ vượt qua mọi thách thức, giành
những thắng lợi lớn hơn trong kinh doanh, phát triển nhanh và vững chắc để làm một
động lực mạnh đưa nền kinh tế nước ta phát triển và hội nhập.
C/ Quan điểm, chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong TK hiện nay
I/ Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân
Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương Khóa IV (tháng 8-1979) khi đất nước lâm vào
tình trạng khó khăn trầm trọng. Có thể coi hội nghị này là bước mở đầu có ý nghĩa, đặt
ra những nền móng đầu tiên cho đường lối đổi mới mà sau này được Đại hội VI khẳng
định. Cùng với nhiều chủ trương kinh tế đúng đắn nhằm "làm cho sản xuất bung ra",
Hội nghị khẳng định sự cần thiết kết hợp kế hoạch với thị trường, kết hợp thị trường có
kế hoạch với thị trường không có kế hoạch, nhìn nhận tích cực hơn với kinh tế tư
nhân
Bước ngoặt cơ bản là từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986). Sau khi phê phán
"những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh", mắc bệnh "chủ
quan, duy ý chí, giản đơn hóa", "chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất
hàng hóa đang tồn tại khách quan", Đại hội khẳng định đường lối đổi mới, chỉ rõ "nền
kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", chỉ rõ sáu
thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh; kinh tế tập thể; kinh tế gia đình; kinh tế tiểu sản
xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước. Xin lưu ý là Đại hội VI,
trong khi thừa nhận sự cần thiết của kinh tế tư bản tư nhân, cũng chỉ "cho phép những
nhà tư sản nhỏ sử dụng vốn, kiến thức kỹ thuật và quản lý của họ để tổ chức sản xuất,
kinh doanh trong một số ngành, nghề thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ ở những nơi
cần thiết Quy mô và phạm vi hoạt động của các cơ sở kinh tế tư bản tư nhân được
quy định tùy theo ngành, nghề và mặt hàng" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI). Theo nghị quyết Đại hội VI, "quá trình sử dụng kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa
và kinh tế tư bản tư nhân luôn luôn gắn liền với quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với các thành phần đó bằng nhiều hình thức" . "Kinh tế xã hội chủ nghĩa với khu vực
quốc doanh làm nòng cốt phải giành được vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân,
cụ thể là chiếm tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thông, thể hiện tính ưu việt và chi
phối được các thành phần kinh tế khác thông qua liên kết kinh tế và "trong lĩnh vực lưu
thông, phải xóa bỏ thương nghiệp tư bản tư nhân"
Khái niệm "kinh tế tư nhân" được chính thức sử dụng từ Hôi nghị lần thứ 6 của
Trung ương Khóa VI (tháng 3-1989). Nghị quyết chỉ rõ: "trong điều kiện của nước ta,
các hình thức kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) vẫn cần thiết lâu dài cho
nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội".
Về mặt quy định pháp lý, việc ban hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân
(năm 1990) đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành và phát triển các doanh
nghiệp tư nhân với các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh
nghiệp tư nhân.
Đại hội lần thứ VII của Đảng (6-1991) quy định "Kinh tế tư nhân được phát triển,
đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước, trong đó,
kinh tế cá thể và tiểu chủ có phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có
điều kiện tổ chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con
đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức". (Văn kiện Đại hội VII).
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6-1996) quyết định "kinh tế nhà nước đóng vai trò
chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế
và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài".
Đại hội lần thứ IX của Đảng (4-2001) khẳng định " Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc" (Văn kiện Đại hội IX). Đại hội quyết định khuyến khích phát
triển kinh tế tư nhân.
Để thực hiện nghị quyết hội nghị TW lần 5 khoá 9 đã ban hành nghị quyết 14/NQ
_TW 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới cơ chế , chính sách , khuyến khích và tạo điều kiện
phát triển thành phần kinh tế tư nhân.
II/ Quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân
- Xác định kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh
tế quôc dân . Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN , góp phần quan trọng thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế , CNH-HĐH , nâng cao nội lực
của đất nước trong hội nhập kinh tế
Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo Pháp Luật , bảo
hộ quyền sở hưu tài sản hợp pháp của công dân. Khuyến khích, hỗ trợ , tạo điều kiện
thuận lợi và định hướng quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo Pháp luật, bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế . Các hộ kinh doanh cá thể được Nhà nước tạo điều
kiện và giúp đỡ để phát triển cả ở nông thôn và thành thị , khuyến khích các hộ liên kết
hình thành các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện , làm vệ tinh cho doanh nghiệp hoặc
phát triển lớn hơn
Tạo môi trường thuận lợi về chính sách , pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh
nghiệp tư nhân phát triển rộng rãi trong các ngành các nghề sản xuất kinh doanh mà
Pháp luật không cấm , không hạn chế về quy mô , nhất là trên những định hướng ưu tiên
của Nhà nước . Khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần , bán cổ phần , liên
doanh liên kết với nhau , với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước
- Bảo vệ lợi ích hợp pháp , chính đáng của cả người lao động và người sử
dụng lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết , tương thân tương ái ,
chăm lo , bồi dưỡng , giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước , tự
hào dân tộc , gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng CNXH
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng , phát huy vai trò của các tổ chức
chính trị- xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp đối với kinh tế tư nhân nói chung
cũng như trong từng doanh nghiêp
Vấn đề giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế tư nhân được Bộ
chính trị nêu rõ : Việc phát triển kinh tế tư nhân phải nắm vững và thực hiện tốt các
yêu cầu :
+ Phát triển rộng rãi kinh tế tư nhân theo đúng quy định của Pháp luật , đồng thời
chăm lo phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể , đảm bảo vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước , làm cho kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế
+ Nhà nước hoạch định , hỗ trợ , dẫn dắt , bảo hộ sự phát triển của kinh tế tư nhân
trong mối quan hệ bình đẳng giữa các TPKT và quản lý điều tiết sự phát triển đó bằng
pháp luật, chính sách
+ Bảo vệ hợp lý , chính đáng của cả người lao động và người sử dụng lao động ,
xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người sử dụng lao động và người lao động trên cơ
sở pháp luật và tinh thần đoàn kết tương thân tương ái
+ Khuyến khích kinh tế tư nhân liên kết , liên doanh với kinh tế nhà nước , kinh tế
tập thể, phát triển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần có cổ phần bán cho người
lao động , tham gia mua cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước thuộc diện thuộc diện cổ
phần hoá và hợp tác xã
+ Chăm lo bồi dưỡng giáo dục các chủ doanh nghiêp , nâng cao lòng yêu nước , tự
hào dân tộc , gắn bó với lợi ích của đất nước , dân tộc và sự nghiệp xây dựng CNXH ,
kinh doanh đúng pháp luật , có hiệu quả, tích cực đóng góp vào các hoạt động xã hội
+ Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng , phát huy vai trò của tổ chức chính trị_ xã hội và
các hiệp hội doanh nghiệp đối với kinh tế tư nhân nói chung cũng như cho từng doanh
nghiệp tư nhân
III/ Các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân
Để phát triển mạnh mẽ hơn nữa kinh tế tư nhân đáp ứng yêu cầu của công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, có hai loại việc sau đây
cần được chú trọng.
Một là, về mặt Nhà nước. Trước hết là xóa bỏ những thể chế, chính sách còn thể
hiện sự phân biệt đối xử giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân, giữa doanh nghiệp
nhà nước với doanh nghiệp tư nhân. Trong thực tế, một môi trường kinh doanh thuận
lợi, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật là yêu cầu hàng đầu để phát triển
đất nước trong tình hình mới. Hơn nữa, khi hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đi vào
chiều sâu, việc phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ bị thu hẹp dần, môi trường kinh doanh
bình đẳng không thể không thiết lập.
Điều đáng mừng là, từ 1-7-2006, Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005 có
hiệu lực sẽ tạo sân chơi bình đẳng hơn giữa các loại hình doanh nghiệp (trong nước và
có vốn đầu tư nước ngoài) trong việc gia nhập thị trường, đầu tư kinh doanh và quản trị
nội bộ doanh nghiệp. Thế nhưng, trong những thể chế, chính sách thuộc nhiều lĩnh vực,
doanh nghiệp tư nhân vẫn còn bị đối xử không bình đẳng, từ sản xuất đến lưu thông, từ
đào tạo đến ứng dụng khoa học, công nghệ Nổi cộm nhất hiện nay là trong lĩnh vực
vốn tín dụng và trong việc tìm kiếm mặt bằng sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp tư
nhân rất khó tiếp cận. Về vốn, có đến 7- 80% vốn tín dụng của các ngân hàng thương
mại quốc doanh được dành cho doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp tư nhân rất khó
vay vốn; trong đó ngoài những nguyên nhân khác, có một nguyên nhân không kém quan
trọng là: ngân hàng cho doanh nghiệp nhà nước vay, nếu không thu hồi được thì Nhà
nước sẽ thực hiện nhiều biện pháp để khắc phục, ngân hàng có thể yên tâm, nhưng nếu
cho doanh nghiệp tư nhân vay mà không thu hồi được vốn, ngân hàng rất dễ bị "hình sự
hóa", bị xét hỏi về lập trường, quan điểm
Về mặt bằng, doanh nghiệp tư nhân đi tìm đất cũng rất khó khăn. Ngay tại Hà Nội,
nơi hiện có khoảng 40.000 doanh nghiệp tư nhân, nhưng có đến 8.000 doanh nghiệp
thiếu mặt bằng sản xuất nghiêm trọng; thành phố có 20 cụm công nghiệp nhỏ và vừa
nhưng cũng chỉ thu hút có 143 doanh nghiệp tư nhân, giải quyết được hơn 10% nhu cầu.
Nếu tìm đất ngoài khu công nghiệp, thì quy trình cũng rất phức tạp: từ việc doanh
nghiệp tự đi tìm đất, tự thỏa thuận đền bù với dân, xin địa phương phê duyệt dự án đầu
tư, v.v đến khi có đất, tất cả tới 8 bước, vài chục con dấu, chữ ký và nhanh nhất cũng
mất gần một năm. Trong khi đó, có nhiều doanh nghiệp nhà nước lại đang thừa đất,
doanh nghiệp tư nhân buộc phải thuê lại, nhưng với giá cả khá cao và thời gian không
hạn định chắc chắn.
Chính vì vậy, việc rà soát lại và sửa đổi, bổ sung toàn bộ hệ thống thể chế, chính
sách cho phù hợp với tư duy mới, loại bỏ những thể chế, chính sách còn phân biệt đối
xử giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân là hết sức cấp bách. Đương
nhiên, đi đôi với việc hình thành hệ thống thể chế, chính sách, phải đẩy mạnh cải cách
hành chính, khắc phục những hành vi tiêu cực, sách nhiễu doanh nghiệp tư nhân của
những công chức trong bộ máy công quyền đang làm tăng chi phí, hạn chế khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Những nhiệm vụ này đã được nói đến nhiều lần, ở nhiều
diễn đàn, vấn đề hiện nay là sự chỉ đạo thực hiện với quyết tâm ở tất cả các ngành, các
cấp quản lý nhà nước.
Hai là, về phía doanh nghiệp tư nhân. Bản thân doanh nghiệp tư nhân, chủ yếu vẫn
là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang còn nhiều yếu kém, nhất là về khả năng tìm hiểu thị
trường, trình độ lập dự án, xác định chiến lược kinh doanh; khả năng ứng dụng khoa
học, công nghệ mới; cũng như trình độ, kỹ năng quản lý doanh nghiệp, v.v Khó khăn
lớn nhất hiện nay là nguồn nhân lực: là trình độ hạn chế của đội ngũ doanh nhân cũng
như của người lao động trong doanh nghiệp khi phải đối mặt với yêu cầu nâng cao khả
năng cạnh tranh của từng sản phẩm, dịch vụ cũng như của cả doanh nghiệp.
Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp, mỗi doanh nhân phải xem lại mình, nhận rõ chỗ
mạnh, chỗ yếu, để đề ra cho được những giải pháp thiết thực, bảo đảm hiệu quả. Mỗi
doanh nghiệp đề ra cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp với tình hình mới, khi
bao cấp không còn, hàng rào bảo hộ phải gỡ bỏ Mỗi doanh nghiệp tư nhân phải đề
cao văn hóa kinh doanh, tôn trọng pháp luật, tôn trọng người tiêu dùng, tôn trọng bạn
hàng, khắc phục tình trạng trốn thuế, lậu thuế, kinh doanh bất hợp pháp.
Doanh nghiệp tư nhân ngày càng tăng nhanh, với yêu cầu cắp bách nâng cao hiệu
quả kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, cũng là nơi để đội
ngũ doanh nhân thể hiện tài năng kinh doanh của mình; nói rộng ra, doanh nghiệp tư
nhân trở thành nơi đào tạo một đội ngũ những nhà kinh doanh chuyên nghiệp, những tài
năng kinh doanh trong nước và vươn ra thế giới của đất nước. Nhân tài quản lý kinh tế,
quản lý doanh nghiệp chỉ có thể nảy nở trong quá trình vật lộn trên thương trường,
trưởng thành trong cạnh tranh gay gắt. Vì thế, mỗi doanh nhân ngày nay chú trọng bồi
dưỡng nguồn nhân lực, phát huy cao nhất vốn con người trong doanh nghiệp vào việc
hiến kế, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, chính là vừa đáp ứng yêu cầu
trước mắt, song không kém phần quan trọng là vừa góp phần đào tạo nhân tài cho công
cuộc quản trị kinh tế đất nước trong tương lai.
Đồng thời, để khắc phục yếu kém, bổ sung năng lực cho mỗi doanh nghiệp tư nhân
trong tình hình mới, nhất là về các mặt tìm kiếm thị trường, đối mới công nghệ, cải tiến
quản lý, rất cần thiết mở rộng hơn nữa việc liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp,
trước hết là doanh nghiệp kinh doanh cùng một mặt hàng. Muốn vậy, cần phát triển hơn
nữa các hội, hiệp hội nghề nghiệp. Hiện nay, Dự thảo Luật về Hội đang được soạn thảo
và khi được Quốc hội thông qua sẽ là một đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy liên
doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp, tạo thêm sức mạnh cho kinh tế tư nhân.
Kết luận
Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong đó có kinh tế tư bản tư nhân hiện nay là sản
phẩm gắn liền với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đúng đắn của Đảng ta
đã được thực tiễn 20 năm đổi mới đất nước chứng minh. Có thể nói, phát triển kinh tế tư
nhân là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã nội chủ ngnĩa ở nước ta. Đây cũng là một nội dung quan trọng của đổi mới
trong nhận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay của Đảng ta đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, sáng tạo. Sự phát triển của
kinh tế tư nhân có những đóng góp quan trọng và sự phát triển kinh tế - xã hội như: huy
động được nhiều nguồn vốn đầu tư và sản xuất kinh doanh; trở thành một bộ phận cấu
thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước; làm cho sản xuất và lưu thông
hàng hóa thêm phong phú và đa dạng; hình thành và phát triển các loại thị trường; làm
tăng sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước; tạo sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế trong sản xuất, kinh doanh
Trong khi khẳng định những mặt tích cực của kinh tế tư nhân ở nước ta, cũng cần
thấy rõ những hạn chế, khuyết tật của nó trong quá trình phát triển như tính chất tự phát,
vô chính phủ trong sản xuất, kinh doanh; tình trạng chấp hành không nghiêm luật pháp,
kỷ cương Đặc biệt, không ít các doanh ngniệp tư bản tư nhân trốn, lậu thuế, kinh
doanh bất hợp pháp, bóc lột công nhân như thời tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư
bản; móc ngoặc, làm tha hóa một số cán bộ có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước,
các tổ chức và cơ quan kinh tế nhà nước; chiếm dụng, rút ruột hàng trăm tỷ đồng của
Nhà nước Vì vậy, cần đánh giá một cách khách quan, công bằng sự phát triển của
kinh tế tư nhân, chống khuynh hướng đề cao quá mức dẫn đến tuyệt đối hóa vai trò của
kinh tế tư nhân
Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là một nội dung của dấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một biểu hiện rõ rệt nhất vấn đề “ai thắng ai”
giữa con đường xã hội chủ nghĩa là con đường tư bản chủ nghĩa. Đương nhiên, đây là
một cuộc đấu tranh rất phức tạp và khó khăn. Kinh tế tư nhân chỉ có thể đi lên chủ nghĩa
xã lội khi Đảng và Nhà nước ta không chỉ có đường lối, chính sách đúng mà còn phải
giỏi trong quản lý, điều hành để có thể đảm bảo sự phát triển theo mục tiêu và quỹ đạo
đã xác định, không bị chệch hướng. Chúng ta chủ trương khuyến khích phát triển kinh
tế tư nhân đồng thời cũng chủ trương đảm bảo thực hiện sự định hướng xã hội chủ
nghĩa của kinh tế tư nhân, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
Nếu không làm được như vậy thì kinh tế tư nhân sẽ phát triển thành kinh tế tư bản tư
nhân, kéo theo những hệ lụy về chính trị, xã hội khó lường. Trong cuộc đấu tranh hiện
nay, chủ nghĩa tư bản quốc tế và các thế lực thù địch rất mong điều này sẽ xảy ra.
Nếu thực hiện được những vấn đề trên đây thì kinh tế tư nhân ở nước ta sẽ phát triển
đúng hướng, có hiệu quả tốt; củng cố nhận thức và niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời có cơ sở để đấu tranh, đánh bại các quan điểm
sai trái, thù địch; bảo vệ và phát triển đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình kinh t ế chính trị Mác-Lênnin
- Giáo trinh kinh tế chính trị Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN
- Phát triển kinh tế tư nhân ở VN hiện nay
- Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ và TBTN
- Phát triển kinh tế tư nhân định hướng XHCN
- Trang web Bộ tài chính
- Tạp chí cộng sản điện tử
- Trang web Tổng cục thống kê
- Thời báo kinh tế Sài Gòn
- Báo thanh niên, Tuổi trẻ
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
A/Tầm quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân 2
I/ Khái niệm kinh tế tư nhân 2
II/Tính tất yếu tồn tại kinh tế tư nhân ở nước ta trong TKQĐ lên CNXH : 2
III/ Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân : 3
B/ Thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay 7
I/Sự phát triển về số lượng của khu vực kinh tế tư nhân 7
II/Sự phát triển theo ngành nghề sản xuất kinh doanh 10
III/ Sự phát triển theo lãnh thổ 14
IV/ Cơ hội và thách thức của khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay 14
C/ Quan điểm, chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển
của khu vực kinh tế tư nhân trong TK hiện nay 18
I/ Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân 18
II/ Quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân 19
III/ Các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân 20
Kết luận 23
Tài liệu tham khảo 24