Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

bài tiểu luận của tui nè

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG

KHOA LUẬT


TIỂU LUẬN CUỐI KÌ

Đề tài: ÁO DÀI VIỆT XƯA VÀ NAY.

Giảng viên hướng dẫn: Trần Văn Hùng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Ngọc Thụy Anh
1


Mssv: 187LK20064
Lớp: K24L03

2


MỤC LỤC
Lời nói đầu................................................................................................................3
I.Lý do chọn đề tài.....................................................................................................3
II.Nguồn gốc và lịch sử phát triển của áo dài............................................................3
1.Nguồn gốc xuất xứ.................................................................................................4
2.Quá trình hình thành và phát triển..........................................................................5
2.1Áo dài Việt Nam qua các triều đại phong kiến.....................................................5
2.2Áo dài Việt Nam sau cách mạng tháng Tám.........................................................6
2.3Áo dài Việt Nam từ năm 1970 đến nay.................................................................8
III.Áo dài – biểu tượng của Việt Nam.......................................................................9


IV.Hình ảnh áo dài xưa và nay...................................................................................
1.Áo dài truyền thống xưa.........................................................................................
2.Áo dài thời kì hiện đại............................................................................................
V.Áo dài trong nghệ thuật, thơ ca Việt Nam..............................................................
1.Áo dài trong nghệ thuật Việt Nam..........................................................................
2.Áo dài trong thơ ca Việt Nam.................................................................................
VI.Áo dài là di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam...............................................
VII.Kết luận...............................................................................................................
I.

3


LỜI NĨI ĐẦU
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?
Vâng, tà áo em là gió thổi mây bay, thiếu nữ người Việt Nam đã "gói mây trong áo". Một
chút bay bổng, mơ hồ để rồi nâng lên tầm nhìn dân tộc. Biết rằng Quốc gia nào cũng có
riêng cho mình một “quốc phục”. Nhưng dù là Kimono của Nhật Bản hay Sườn xám của
Trung Quốc cũng khơng thế gói trọn trong đó tinh hoa văn hóa và truyền thống tốt đẹp
của dân tộc như áo dài Việt Nam, tà áo dài như tạc cả vào hình ảnh non sơng gấm vóc.
Bởi một lẽ tự nhiên ấy, hôm nay bằng bài tiểu luận của mình em muốn trình bày về “Tà
áo dài Việt Nam”. Là một đề tài không mới nhưng luôn là nguồn cảm hứng vơ tận cho
những người nặng lịng với văn hóa, truyền thống dân tộc. Một tình cảm chân thành, mộc
mạc nhưng không kém phân cao sang, đài các như chính chiếc áo dài của ta để tà áo dài
quê hương nay đã bước lên ngôi cao “Quốc phục”.
I.
-


LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trang phục là một trong ba yêu cầu của đời sống vật chất (ăn, mặc, ở), đây là sản
phầm văn hóa sớm nhất của xã hội lồi người, theo thời gian, trang phục cũng thay
đổi theo quá trình phát triển của lịch sử. Đối với mỗi quốc gia, trang phục cũng trở
thành một yếu tố quan trọng tạo nên nét đẹp văn hóa riêng biệt qua từng thời kỳ,

-

mang tính đậm đà và vẻ đẹp của mỗi dân tộc.
Chiếc áo dài Việt Nam từ lâu đã là một biểu tượng văn hóa gắn liền với hình tượng
của người Việt Nam. Qua nhiều thời kỳ phát triển, tà áo dài khơng ngừng biến đổi
nhưng vẫn giữ gìn được tính truyền thống, góp phần tơn lên vẻ của người Việt.một nét đẹp về trang phục mang đậm bản sắc dân tộc. Hơn thế nữa, áo dài đã trở
thành một phần không thể thiếu trong đời sống của người Việt Nam ta, là nét đẹp
về thuần phong mỹ tục của dân tộc. Là người Việt em thật tự hào và kiêu hãnh khi
4


được nói tới chiếc áo dài Việt Nam, để hiểu thêm về vẻ đẹp trang phục và văn hóa
của đất nước mình, em đã quyết định chọn đề tài về chiếc áo dài Việt Nam với tên
gọi “Áo dài Việt xưa và nay”.
II.
NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN:
1. Nguồn gốc xuất xứ
- Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài quốc phục là do những tham

vọng riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng vương và tách rời
Đàng Trong thành quốc gia riêng, nên ban sắc dụ về ăn mặc như trên cho khác đi,
không phải với người khách trú mà với Bắc triều (trong quy định này đã có cả chỉ
thị phụ nữ phải mặc quần hai ống). Năm 1744 cũng là thời điểm đánh dấu sự xuất

hiện của quần chân áo chít, bộ trang phục ban đầu áp dụng tại hai vùng Thuận
Hóa, Quảng Nam, về sau được phổ biến rộng rãi trong toàn quốc, từng bước trở
-

thành quốc phục của triều Nguyễn.
Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì
khơng có tài liệu ghi nhận và chưa có nhiều người nghiên cứu. Y phục xa xưa nhất
của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay
khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử
giả Đào Duy Anh viết, "Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ
tiên ta, mặc áo dài về bên tả (hình thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ
nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu.
Theo những lời sách đó chép thì ta có thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì
người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung Quốc mới mặc áo gài

-

về tay phải.
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân
nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ
ngồi yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng màu bng thả. Xưa các bà các cơ búi tóc trên
đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để
đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang
guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh
được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt
5


nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài
váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp

-

của người phụ nữ.
Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải,
gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu
áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng
dấp trang trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa
trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm
ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình khơng để hở áo lót. Mỗi vạt có hai
thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng trưng cho tứ cha mẫu, và vạt con nằm dưới
vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai
vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho
quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học
Đông phương.

6


Áo giao lĩnh

Áo ngũ thân

2. Quá trình hình thành và phát triển:
2.1 Áo dài Việt Nam qua các triều đại phong kiến:
 Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1744):

-

Với tham vọng lập quốc một cõi, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành cho
mặc đối với những quan chức cấp cao để phân biệt họ với những người dân khác.

Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo ngũ
thân Việt Nam, như sau: "Thường phục thì đàn ơng, đàn bà dùng áo lập lĩnh ngắn
tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu
kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp
cho tiện khi làm việc thì được phép..." (sách Đại Nam Thực lục)
7


-

Từ đó bèn thay đổi y phục, đổi phong tục, cùng dân đổi mới, bắt đầu hạ lệnh cho
nam nữ sĩ thứ trong nước, đều mặc áo nhu bào, mặc quần, vấn khăn, tục gọi quần
chân áo chít bắt đầu từ đây.

-

Hôn lễ đối với dân thường Bắc Bộ, nữ đội hơn lạp, guốc cong, nam đội nón ngựa
(chóp nhọn), xỏ hài, dâu rể mặc áo tấc có thêu hoa văn dạng bàn cổ. Hôn lễ
với Nam bộ cô dâu và phù dâu đội nón gụ. Hơn lễ đối với quý tộc, nữ kết kim ước
phát, nam đội mũ theo bổ phục. Dân thường xỏ hài, guốc; quý tộc xỏ hài cong
(giống như tích), cung nhân xỏ guốc sơn son thiếp vàng.



Thời vua Minh Mạng (1828)

-

Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong
sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh

nhắc nhở: "... áo đàn bà con gái khơng có thắt lưng, quần khơng có hai ống từ xưa

-

đến nay vốn đã có cổ tục như thế..."
Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và
bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca dao than vãn:
“Tháng Tám có chiếu vua ra
Cấm quần khơng đáy, người ta hãi hùng!”



Các thời vua kế tiếp

-

Áo ngũ thân cổ đứng giúp tăng vẻ đài các, sang trọng cho người mặc được thể
hiện qua hoa văn thêu truyền thống. Áo lập lĩnh (cổ đứng) dễ dàng kết hợp với
những đơi hài, tích, guốc cong, nón 3 tầm, xà tích, trâm và là áo mặc bên trong của
những loại áo quý tộc (nhật bình, bình lĩnh, mã quái, mã tiên, bàn lĩnh, giao lĩnh).

8


Áo ngũ thân khoảng năm 1900
-

Đối với phụ nữ trước năm 1885, áo ngũ thân (dài và rộng dần đến đầu gối) được
mặc kết hợp với trâm và nón cụ (đối với Huế và Nam bộ), nón quai thao hay nón 3
tầm (đối với Bắc bộ), được mặc kết hợp với quần đen hoặc quần đỏ. Sau thời vua

Thành Thái, do bị Pháp cướp vàng bạc trong triều đình, áo ngũ thân kết hợp
với khăn vấn, khăn vành dây và do bị Tây hóa nên mặc quần trắng.

2.2 Áo dài Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám
- Sau Cách mạng tháng Tám, có thể coi là cuộc cách tân thứ hai của áo dài Việt

Nam, tại Hà Nội, dập dìu những bóng giai nhân với những tà áo dài tứ thân thắt
dây thành áo xẻ phía trước, cài nút bấm, nhấn bên ngực, áo nối váy xẻ hai bên
hông thành hai tà dài đến chớm mắt cá chân. Ngày nay một số nét cơ bản ấy vẫn
-

được thể hiện trong áo dài hiện đại.
Trong khi đó, tại Sài Gịn vào khoảng thập niên những năm 1960 - 1970 học sinh
sinh viên đã có những cách tân tự phát làm cho những chiếc áo dài vốn đã mảnh
mai lại càng mảnh mai hơn.

9


-

Đặc biệt là từ khi nhà may Dung ở ĐaKao Sài Gòn sáng tạo ra kiểu may áo dài với
cách ráp tay “Raglan”, còn gọi là áo dài “giắc lăng”, cách ráp này đã giải quyết
được vấn đề khó khăn khi may áo dài. Những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên
nách, giờ cách cải tiến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống
nách khiến chiếc áo dài ơm khít từng đường cong thân hình người phụ nữ. Đây
chính là kiểu áo dài góp phần định hình phong cách cho áo dài Việt Nam sau này.

Áo dài “Raglan”
-


Năm 1968, áo dài được thiết kế và cải tiến lại, phần cổ của áo được bỏ đi, gọi là
áo cổ thuyền. Kiểu cổ áo này lấy ý tưởng từ áo tầm vông của người Khơmer chưa
lập gia đình. Lúc đầu, thiết kế này bị phản đối vì đi ngược lại thuần phong mĩ tục,
nhưng sau này lại rất được ưa chuộng vì sự đơn giản, tinh tế và thoải mái. Kiểu áo
dài này được bà Trần Lệ Xuân đưa đi quảng bá khắp nơi với người nước ngoài, đi
tiệc, đi chơi…

10


-

Đến ngày nay thì chiếc áo dài Việt Nam theo kiểu cách tấn này vẫn rất thời
thượng, phù hợp với tất cả mọi người, từ người dân trong nước cũng như kiều bào

ở nước ngồi. Có phải thế chăng mà:
“Nắng Sài Gịn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.”
2.3 Áo dài Việt Nam từ năm 1970 đến nay:
- Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ có sự biến đổi với nhiều kiểu dáng, chất liệu từ
hiện đại đến phá cách. Áo dài còn được biến chuyển thành áo cưới, áo cách tân…
Nhưng dù thế nào thì chiếc áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt vẫn giữ
được nét uyển chuyển, gợi cảm, kín đáo mà không trang phục nào mang lại được.
Cùng với xu hướng năng động, thay đổi của lối sống hiện đại, tà áo dài truyền
thống được các nhà thiết kế cách điệu với tà ngắn hơn, thay đổi ở cổ áo, tay áo
hoặc thậm chí là tà áo hoặc quần mặc chung với áo dài đem đến cho người phụ nữ
Việt nhiều sự chọn lựa. Cũng chính vì sự cách điệu này mà áo dài ngày càng được
phụ nữ Việt diện nhiều hơn trong đời sống hàng ngày.


11


-

Dù là áo dài ở thời kỳ nào thì cấu tạo của một bộ áo dài đều gồm các phần: cổ áo,

-

thân áo, tà áo, tay áo, quần.
Kiểu cổ áo cổ điển cao 4-5cm, khoét chữ V nhằm tôn vẻ đẹp chiếc cổ 3 ngấn của
người phụ nữ Việt. Ngày nay, cổ áo được biến tấu nhiều kiểu như cổ tròn, cổ

-

thuyển, cổ trái tim…
Thân áo: Được may vừa vặn, chiết eo ôm sát cơ thể. Cúc áo thường là cúc bấm,

-

hai tà áo được tính từ chỗ chít eo bên hơng.
Tà áo: Có hai tà trước và sau và bắt buộc phải dài qua gối.
Tay áo: May ôm sát cánh tay, dài và khơng có cầu vai.
Quần: Áo dài được mặc kết hợp với quần thay cho váy như trước. Quần may châm
gót, vải mềm, màu sắc đa dạng.

III.
ÁO DÀI – BIỂU TƯỢNG CỦA VIỆT NAM:
- Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc , hoặc Sườn xám của


Trung Quốc , chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại cũng vừa hiện đại . Trang
phục dành cho cả nam và nữ này không bị giới hạn chỉ mặc tại một số nơi hay dịp
12


mà có thể mặc mọi nơi , dùng làm trang phục công sở , đồng phục đi học , mặc đi
chơi hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà . Việc mặc loại trang phục
này không hề rườm rà hay cầu kỳ , những thứ mặc kèm đơn giản : mặc với một
quần lụa hay vải mềm , dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được, nếu cần
trang trọng ( như trang phục cô dâu ) thì thêm áo chồng và chiếc khăn đóng
truyền thống đội đầu, hoặc một chiếc vương miện Tây phương tùy thích . Đây
chính là điểm đặc biệt của loại trang phục truyền thống này. Chiếc áo dài dường
như có cách riêng của mình để tơn lên vẻ đẹp của mọi thân hình . Phần trên ơm sát
thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng, hai tà xẻ chí trên
vịng eo khiến cho người mặc vừa thoải mái lại vừa thướt tha, kín kẽ lại vừa khiêu
-

gợi, vì tồn thân được bao bọc bằng lụa mềm, nhưng vẫn làm lộ ra vịng eo.
Áo dài vì vậy mà mang tính cá nhân hóa rất cao, mỗi chiếc áo chỉ may cho một
người và dành riêng cho người đó, khơng thể có một “cơng nghệ sản xuất đại trà”
cho chiếc áo dài. Người đi may phải lấy số đo thật kỹ, khi may xong phải qua một
lần mặc thử để sửa chữa rồi mới hoàn thiện.
Dù ở đâu Paris, Ln Đơn hay những miền xa
Thống thấy áo dài bay trên đường phố
Sẽ thấy tâm hồn, quê hương ở đó…

-

Trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, gần trăm năm bị Pháp đô hộ, áo dài tiếp
xúc cả hai luồng văn hóa. Tuy nhiên, nó vẫn vượt qua mọi thử thách để trở thành

“quốc phục”, một biểu tượng của người phụ nữ, niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt
Nam.

-

Không đơn thuần là trang phục truyền thống, mà Áo dài cịn là một nét văn hóa
nói lên nhân sinh quan và gói trọn tinh thần dân tộc. Ở Việt Nam, Áo dài là trang
phục dành cho mọi lứa tuổi. Nó đã trở thành trang phục chuẩn mực cho những dịp
đặc biệt hoặc trang trọng những ngày lễ quốc gia, lễ cưới, ngày tết, lễ tốt nghiệp
hoặc trong những cuộc thi quan trọng. Khi tham dự một sự kiện đặc biệt nào đó
13


hoặc xuất hiện trên truyền hình, áo dài ln là trang phục được phụ nữ Việt Nam
ưu tiên lựa chọn vì nó góp phần tơn lên vẻ đẹp, đồng thời thể hiện niềm tự hào dân
tộc.

Lễ hội áo dài
-

Có thể nói rằng Áo dài đã góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra khắp nơi trên
thế giới. Không chỉ xuất hiện trong các cuộc thi trang phục dân tộc, các cuộc thi
hoa hậu… Áo dài Việt Nam đã xuất hiện trên khắp thể giới và được xem là di sản
văn hóa phi vật thể của nước Việt Nam. Trong những sự kiện quốc tế diễn ra tại
Việt Nam, Áo dài luôn được chọn làm bộ trang phục cho các nguyên thủ của các
quốc gia, Hoa hậu Trái đất đến từ các nước đã bị hấp dẫn bởi trang phục dân tộc
đặc sắc này …
14



Các nguyên thủ quốc gia của các nước trong trang phục Áo dài tại Hội nghị
thượng đỉnh APEC tại Việt Nam năm 2006.
-

Ngày nay, Áo Dài được thời trang hóa với nhiều sự cách tân, kết hợp nét văn hóa
dân tộc với yếu tố thời trang hiện đại, tạo nên nét riêng độc đáo của tà Áo dân tộc
trong các buổi trình diễn tuần lễ thời trang quốc tế và trong các cuộc thi hoa hậu
trong và ngoài nước, các festival trang trọng và bề thế…

15


Người đẹp của các quốc gia duyên dáng trong trang phục Áo dài Việt Nam
-

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những văn hóa, nét đặc trưng của từng vùng
miền và trang phục truyền thống riêng. Phụ nữ Nhật tự hào với Kimono, phụ nữ
Hàn Quốc nổi tiếng với Hanbok, phụ nữ Ấn Độ để lại cho ta ấn tượng rất đặc biệt
với bộ Sari... Còn phụ nữ Việt Nam, từ xa xưa cho đến nay vẫn mãi mãi song hành
với chiếc áo dài truyền thống duyên dáng và thướt tha. Áo dài là hiện thân của dân
tộc Việt, một vẻ đẹp mĩ miều nhưng đằm thắm, là “Quốc phục” biểu tượng của
dân tộc Việt Nam.

IV.
-

HÌNH ẢNH ÁO DÀI XƯA VÀ NAY:
1. Áo dài truyền thống xưa
Để nói về hình ảnh áo dài trong nét đẹp truyền thống xưa Huế là nơi tiêu biểu nhất
có thể lột tả được vẻ đẹp của áo dài xưa . Thật là đẹp đẽ và cao sang làm sao khi ở

cái xứ sở mưa lắm nắng nhiều này , người buôn thúng bán bưng cũng vương nét
đoan trang trong tấm áo dài . Một nắng hai sương, nối tay, nối vạt vì thiếu vải hay
may bằng nhung đều quyền quý - Người phụ nữ Việt Nam vẫn dịu dàng đến e ấp,
nhẹ như mây hiền như lúa , thơm như sen mùa hạ trong hồ nội đô.

16


-

Trong chiếc áo dài người phụ nữ cảm nhận niềm tự hào đức hạnh và ý thức giữ
gìn đức hạnh ấy. Khơng biết có phải vì nét thâm trầm của người con gái Việt hay
không mà người xưa cứ “đẩy tiếng thoải” của “một nửa thế giới” xứ mình cho
chiếc áo dài đến vậy. Những lớp thế hệ xưa từ những bà võ quan trong triều,
những tiểu thư đài các, các chị buôn thúng bán bưng một nắng hại sương từ mọi
nẻo đất nước... ai nấy đều kín đáo đến cao sang nhỏ nhẹ đến nhẫn nhịn rất Việt
Nam.

17


-

Người phụ nữ xưa luôn nhuần nhụy “trông màu trời, chọn sắc áo”. Áo Tết thường
có màu tươi sáng. Áo mặc các dịp cúng, lễ giỗ may rộng, vải màu nâu, tím hay
màu lam với hoa vân chèm. Áo ra ngồi trời mưa màu đậm, cịn để đi dưới nắng
thường nhạt màu, sáng trong.

18



2. Áo dài thời kì hiện đại:

ÁO DÀI TRONG NGHỆ THUẬT, THƠ CA VIỆT NAM
ÁO DÀI LÀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CỦA VIỆT NAM
KẾT LUẬN

19



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×