LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động thương mại là các hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận
thông qua việc trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ và các đối tượng trao
đổi khác trong thương mại.
Cũng như các lĩnh vực khác, hoạt động thương mại quốc tế chịu sự
điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luậtvà những nguyên tắc pháp lý nhất
định. Đây cũng chính là cơ sở pháp lý hữu hiệu để giải quyết các vấn đề
có thể phát sinh trong hoạt động thương mại.
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) cũng không nằm ngoài xu thế
này. Khi có tranh chấp thương mại xảy ra giữa các quốc gia thành viên
của WTO thì các quy định của tổ chức này sẽ là căn cứ pháp lý để giải
quyết tranh chấp.
Để hiểu rõ thêm về cơ chế cũng như thủ tục giải quyết tranh chấp giữa
các thành viên của WTO. Em xin chon đề tài “Thoả ước giải quyết
tranh chấp (DSU) và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO” làm bài
tiều luận của mình.
Do thời gian cũng như kiến thức còn có hạn bài tiểu luận khó có thể
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em kính mong thầy cô xem xét và
đóng góp ý kiến cho bài tiều tiểu luận của em ngày một hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ THOẢ ƯỚC GIẢI QUYỂT TRANH CHẤP (DSU)
CỦA WTO
1. khái quát về thoả ước giải quyết tranh chấp (DSU) của WTO.
Việc giải quyết tranh chấp thương mại phát sinh giữa các quốc gia là
thành viên của WTO sẽ được thực hiện theo các quy định về giải quyết tranh
chấp của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Cơ chế giải quyết tranh chấp
thương mại giữa các nước là thành viên WTO được hình thành từ sau vòng
đàm phán Urugoay và chính thức được áp dụng từ tháng 12-1996.
Sau thời gian dài đấu tranh giữa các nước thành viên của hiệp định
chung về thuế quan và mậu dịch (GATT), vòng đàm phán Urugoay kết thúc
với việc thành lập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và một bộ phận chức
năng quan trọng của WTO là cơ chế giải quyết tranh chấp DSB. việc thông
qua “thoả thuận về các quy tắc cụng như thủ tục giải quyết tranh chấp” gọi
tắt là DSU đã tạo nền tảng, cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp phát
sinh giữa các nước thành viên. Thoả ước DSU quy định các phương pháp,
trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, đảm bảo tính công bằng, thống nhất,
khách quan trong thủ tục giải quyết tranh chấp cũng như đưa ra các biện
pháp đảm bảo thi hành các khuyến nghị, phán quyết của cơ quan giải quyết
tranh chấp.
2.Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO-DSB
2
WTO không thành lập một cơ quan giải quyết tranh chấp hoàn toàn độc
lập và tách ròi khỏi cơ cấu của tổ chức chung WTO. khoản 3 Điều IV- Hiệp
định thành lập tổ chức thương mại thế giới (gọi tắt là hiệp đinh WTO) quy
định về cơ cấu của WTO như sau: “khi cần thiết Đại Hội Đồng sẽ được triệu
tập để đảm nhiệm phần trách nhiệm của cơ quan giải quyết tranh chấp được
quy định trong thoả thuận về giải quyết tranh chấp. Cơ quan giải quyết tranh
chấp có thể có chủ tịch riêng và tự xây dựng ra các quy định về thủ tục mà
cơ quan này cho là cần thiết để hoàn thành trách nhiệm của họ”. Như vậy,
Đại Hội Đồng WTO vừa là cơ quan thường trực vừa làcơ quan giải quyết
tranh chấp (DSB) của WTO. Nghĩa là, thành viên của DSB cũng chính là
các đại diện của các nước thành viên trong Đại Hội Đồng. DSB coa một chủ
tịch riêng và được hỗ trợ bởi ban thư ký của WTO trong quá trình tiến hành
các thủ tục giải quyết tranh chấp.
• thẩm quyền của DSB
Thành lập ban hội thẩm để giải quyết từng tranh chấp cụ thể khi có yêu
cầu của nguyên đơn; thành lập và giám sát hoạt động của Cơ quan phúc
thẩm;
Thông qua các báo cáo của ban Hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm;
Đảm bảo và giám sát việc thực thi các phán quyết và khuyến nghị của cơ
quan nói trên bằng cách cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa hay đình chỉ
thi hành những nhượng bộ và các nghĩa vụ khác theo theo các hiệp định có
liên quan (khoản 1 Điều 2 thoả thuận DSU).
• Chức năng của DSB
3
Giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên theo những
nguyên tắc, trình tự và thủ tục quy định trong DSU, đưa ra quyết định cuôí
cùng về tranh chấp.
đảm bảo thực hiện và giám sát thi hành thoả thuận DSU nhằm tạo dựng
và duy trì một cơ chế giải quyết tranh chấp công khai, thống nhất, khách
quan, hiệu quả;
Xây dựng, ban hành các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp đảm
bảo các nghĩa vụ thực thi thoả thuận DSU.
DSB là cơ quan giải quyết tranh chấp nhưng không trực tiếp tham gia vào
quá trình tổ tụng để giải quyết vụ việc mà chỉ tham gia vào giai đoạn đầu
tiên là thành lập ban Hội Thẩm và giai đoạn cuối cùng là thông qua báo
cáo,kết luận về giải quyết vụ việc. DSU quy định một hệ thống xét xử hai
cấp: Ban Hội thẩm và Cơ Quan Phúc thẩm. Mọi tranh chấp phát sinh sẽ
đựơc giải quyết theo trình tự hai cấp này. DSB có trách niệm lập ra ban hội
thẩm để giải quyết từng vụ việc cụ thể đồng thời DSB sẽ giám sát các hoạt
động thông qua báo cáo cuối cùng về giải quyết vụ viẹc của ban hội thẩm.
Nếu có kháng cáo vụ việc sẽ được chuyển lên cơ quan phúc thẩm. Khi báo
cáo của ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm được thông qua nó sẽ có giá trị
pháp lý ràng buộc các bên có liên quan thực thi. Để bảo tính khả thi của các
quyết định của mình, DSB có quyền quyết định áp đặt các biện pháp trả đũa
nếu như một bên không chịu thi hành các quyết định của DSB.
• Các cơ quan trực thuộc DSB
Hệ thống các cơ quan giải tranh chấp của WTO được tổ chức theo hai
cấp: cấp Ban hội thẩm (Panel) và cấp cao hơn là Cơ quan phúc thẩm. Hai cơ
quan này đều do DSB lập nên cũng như chịu sự giảm sát của DSB, có nhiệm
4
vụ DSB thực thi các chức năng của mình trong quá trình giải quyết tranh
chấp.
Ban hội thẩm (Panel)
Theo quy đình của DSU, nếu có yêu cầu bằng văn bản của bên nguyên
đơn, Ban Hội thẩm sẽ đựơc thành lập chậm nhất là vào ngày cuộc họp tiếp
theo của DSB mà tại đó yêu cầu này lần đầu tiên được đua ra như một đề
mục của chương trình nghị sự DSB, trừ khi tại cuộc họp đó DSB quyết định
trên cơ sở nhất trí chung không thành lập Ban Hội thẩm (khoản 1 điều 6-
DSU). Thông thường, khi bên nguyên đơn yêu cầu, một cuộc họp DSB sẽ
được tổ chức trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu, với điều kiện
là phải thông báo cuộc họp trước 10 ngày. việc quy định ban hội thẩm được
thành lập một cách tự động như vậy nhằm đảm bảo cho quá trình tố tụng
được diễn ra nhanh chóng. Đối với vụ kiện có nhiều nguyên đơn thì cũng chỉ
có một Ban hội thẩm được thành lập để xem xét những đơn kiện có tính đến
quyền của tất cả các nước thành viên có liên quan (khoản 1 Điều 9 – DSU).
Nêu có hai hoặc nhiều ban Hội Thẩm được thành lập để xem xét nhưng đơn
kiện có liên quan đến cùng một vấn đề thì sẽ cố gắng đến mức cao nhất có
thể để chon các hội thẩm viên chung cho các ban hội thẩm riêng đó (khoản 3
Điều 9 – DSU). Điều này một mặt giảm bợt thủ tục và chi phí cho việc thành
lập Ban hội thẩm riêng đó (khoan 3 Điều 9 – DSU). Điều này một mặt giảm
bớt thủ tục và chi phí cho việc thành lập ban hội thẩm, mặt khác đảm bảo
tính thống nhất, công bằng trong xử lý các tranh chấp phát sinh có cùng nội
dung.
Về thành phần Ban hội thẩm, theo điều 8 thoả thuận DSU, ban hội thẩm
gồm 3 thành viên. Các bên tranh chấp cũng có thể thoả thuận một Ban hội
5
thẩm gồm 5 hội thẩm viên. Các hội thẩm viên được DSB lựa chon trên cơ sở
danh sách các chuyên gia do ban thư ký giới thiệu và được thông báo cho
các thành viên của WTO.
Để bảo vệ quyền lợi cho các thành viên đang phát triển, DSU quy định
trong vụ tranh chấp xảy ra giữa một nước thành viên phát triển và một nước
thành viên đang phát triển, nếu có yêu cầu của nước thành viên đang phát
triển thì ban Hội thẩm sẽ có ít nhất một hội thẩm viên là công dân nước đang
phát triển (khoản 10 Điều 8).
Trong quá trình tố tụng, các hội thẩm viên phải tuân thủ nguyên tắc làm
việc độc lập, công bằng, vô tư, đồng thời phải tuân thủ đúng các quy định
trong các hiệp định của WTO.
- Chức năng của ban hội thẩm
Điều 11 – DSU quy định chức năng của Ban hội thẩm là hỗ trợ DSB làm
tròn trách nhiệm theo thoả thuận DSU và các hiệp định có liên quan. Cụ thể
là, ban hội thẩm sẽ phải đánh giá một cách khách quan các vấn đề tranh
chấp, gồm cả việc đánh giá thực tế vụ việc, khả năng áp dụng, sự phù hợp
của các hiệp định có liên quan và tiến hành nững điều tra khác có thể giúp
DSB trong viẹc đưa ra các khuyến nghị hoặc phán quyết được quy định
trong các hiệp định có liên quan. Trong quá trình tố tụng, ban hội thẩm sẽ
đều đăn tham vấn với các bên tranh chấp và tạo cho họ nhưng cơ hội như
nhau để đưa ra một giải pháp thoả đáng với cả hai bên.
Như vậy, có thể thấu ban hội thẩm không phải là một cơ quan xét xử như
trọng tài hay toà án. nhiệm vụ của ban hội thẩm chỉ dừng lại ở việc điều tra
thực tế, chỉ ra các biện pháp giải quyết khi cần thiết. Báo cáo này khi đựơc
6
DSB thông qua thì được coi như phán quyết của DSB và có giá trị pháp lý
ràng buộc các bên tranh chấp, buộc các bên phải thi hành.
- Nguyên tắc làm việc của ban hội thẩm
Ban hội thẩm làm việc theo các nguyên tắc quy định trong phụ lục 3 của
thoả thuận DSU, bao gồm:
Ban hội thẩm sẽ họp kín. Các bên tranh chấp và bên thứ 3 có quyền lợi
liêm quan sẽ có mặt tại các buổi họp chỉ khi được ban hội thẩm mời trình
diện.
Giữ bí mật việc nghị án của ban hội thẩm và những tài liệu được đệ trình.
tạo quyền bình đẳng ngang nhau cho các bên trong tranh chấp, và tạo cơ hội
cho bên thứ ba có quan tâm đến vụ tranh chấp trình bày quan điểm của
mình.
Cơ quan phúc thẩm
Cơ quan phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai của hệ thống giải quyết tranh
chấp. Khác với ban hội thẩm được thành lập để giải quyết theo từng vụ việc
tranh chấp cụ thể sau khi có khiếu nại của một bên tranh chấp, cơ quan phúc
thẩm được lập và duy trì hoạt động như một cơi quan thường trực của DSB.
Cơ quan phúc thẩm sẽ xem xét các kháng cáo về báo cáo của ban hội thẩm.
điều 17 DSU quy định cơ quan phúc thẩm gồm 7 người và mỗi vụ việc sẽ do
3 người xét xử. DSB sẽ chỉ định người làm việc ở cơ quan phúc thẩm trong
nhiệm kì 4 năm và mỗi người có thể tái bổ nhiệm một lần. Tuy nhiên, nhiệm
kỳ của 3 trong số 7 người được bổ nhiệm ngay sau khi hiệp định WTO co
hiệu lực sẽ hết hạn sau 2 năm. Ngưòi được bổ nhiệm thay thế một người mà
nhiệm kỳ chưa hết có thể giữ vị thí đó trong thời gian nhiệm kỳ còn lại của
7
người tiền nhiệm. việc quy định như vậy đảm bảo cơ quan phúc luôn có sự
luân phiên giữa người cụ và người mới, qua đó duy trì được quá trình làm
việc bình thường của cơ quan phúc thẩm.
- Thành viên của cơ quan phúc thẩm.
Cũng như các hội thẩm viên, các thành viên cơ quan phúc thẩm phải đáp
ứng đày đủ các tiêu chuẩn khăt khe do DSU quy định. khoản 3 điều 17thoả
thuận DSU yêu cầu:
Thành viên cơ quan phúc thẩm phải có uy tín, có kinh nghiệm chuyên
môn về pháp luật, thương mại quốc tế và những lĩnh vực thuộc diện điều
chỉnh của WTO.
Họ không được liên kết với bất kỳ một chính phủ nào. với tư cách là
thành viên của cơ quan phúc thẩm họ sẽ đại diện rộng rãi cho tất cả các nước
thành viên WTO.
Sẵn sàng tham gia làm việc bất cứ lúc nào. Trong quá trình làm việc, mọi
thành viên đều bình đẳng như nhau.
Không giống như ban hội thẩm là thành viên không đựơc là công dân của
các nước đang có tranh chấp hay quyền lợi liên quan đến tranh chấp, việc
lựa chon ba thành viên để thành lập ban phúc thẩm tuân theo nguyên tắc lựa
chon ngẫu nhiên, tạo cơ hội cho tất cả các thành viên trong cơ quan phúc
thẩm được tham gia, bất chấp họ thuộc quốc tịch nào (quy tắc 6 - thủ tục
phúc thẩm do cơ quan phúc thẩm soạn thảo). Tuy nhiên, đối với các vụ tranh
chấp có thể tạo ra xung đột quyền lợi trực tiếp hay gián tiếp với một thành
viên trong cơ quan phúc thẩm thì thành viên này không được tham gia xem
xét vụ việc đó.
8
II. CƠ CHẾ VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
1. Các nguyên tắc giải quyết tranhchấp của WTO
Khi giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên của
WTO, DSB phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản nhất, đó là nguyên tắc
không phân biệt đối xử, nguyên tắc công khai và thúc đảy cạnh tranh lành
mạnh, nguyên tắc bảo hộ thông qua thuế quan, nguyên tắc tiếp cận thị
trường, nguyên tắc bảo hộ và phòng ngừa bất trắc.
Ngoài các nguyên tắc chung nói trên, khi giải quyết tranh chấp, DSB dựa
trên những nguyên tắc cụ thể sau:
- Nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên tranh chấp.
Theo nguyên tắc này các nước thành viên tranh chấp dù lớn hay nhỏ,
phát triển, hay chậm phát triển đều bình đẳng như nhau trong việc giải quyết
tranh chấp phát sinh. Nguyên tắc này chi phối tất cả các giai đoạn của quá
trình giải quyết tranh chấp: bình đẳng khi tham vấn; bình đẳng khi đưa tranh
chấp ra ban hội thẩm, trong quá trình kháng cáo, khi thi hành khuyến nghị,
phán quyết của DSB.
Nguyên tắc bình đẳng cũng chi phối hoạt động của các hội thẩm viên, các
thành viên cơ quan phúc thẩm trong quá trình giải quyết tranh chấp các hội
thẩm viên, các thành viên cơ quan phúc thẩm hoàn toàn bình đẳng với nhau
trong việc đưa ra ý kiến, quan điểm về các vấn đề cần giải quyết.
- Nguyên tắc bí mật.
Các cuộc họp của bản hội thẩm, của cơ quan phúc thẩm là các cuộc họp
kín, không công khai, các bên tranh chấp chỉ được mới tham dự khi cần
9
thiết. Như vậy nội dung các cuộc họp của ban hội thẩm, cơ quan phúc thẩm
là bí mật đối với các nước thành viên thư ba. Nguyên tắc bí mật phần nào
cũng thể hiện trong giai đoạn tham vấn, đó là nội dung tham vấn giữa các
nước thành viên tranh chấp không được thông báo cho các thành viên WTO
biết.
- Nguyên tắc “đồng thuận phủ quyết” (hay “đồng thuận nghich”).
Theo Điều 2.4, Điều 6.1, Điều 16.4 và Điều 17.14, việc ra quyết định
thành lập ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm đều dựa trên nguyên tắc đồng
thuận phủ quyết (hay đồng thuận nghích), nghĩa là trong mọi trường hợp,
ban hội thẩm sẽ được thành lập để giải quyết tranh chấp và các báo cáo của
ban hội thẩm, của cơ quan phúc thẩm sẽ được thông qua, trừ khi DSB quyết
định trên cơ sở đồng thuận không thành lập ban hội thẩm hay không thông
qua các báo cáo này. Điều này dẫn tới việc hầu như ban hội thẩm được thành
lập một cách tự động khi có yêu cầu bằng văn bản của nguyên đơn và các
báo cáo cũng đựơc thông qua một cách tự động.
Đây cũng là một điểm độc đáo và tiến bộ trong cơ chế giải quyết tranh
chấp cuả WTO so với GATT 1947 trước đây.trong cơ chế của GATT 1947,
nguyên tắc đồng thuận được hiểu rằng ban hội thẩm chỉ được thành lập và
một báo cáo chỉ được thông qua khi có sự nhất trí của tất cả các thành viên
trong hội đồng GATT. Vì vây, khi một bên tranh chấp không có thiện chí có
thể gây ra tình trạng trì trệ trong việc thông qua do một hay một số bên
không chấp nhận những đề xuất trong báo cáo.
-Nguyên tắc đối xử ưu đãi với các nước đang phát triển và chậm phát
triển nhất
10