Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Đề cương Lịch sử Đảng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM USSH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.99 KB, 25 trang )

Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ ĐẢNG

1. Vì sao trong quá trinh tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc lại chọn con đường cách
mạng vơ sản?
2. Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là
một tất yếu?
3. Tại sao nói Cương linh chinh trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là cương lĩnh đung
đắn và sang tạo, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh dân tộc, tinh giai cấp và tinh nhân
văn?
4. Nêu vai trò của Đảng trong lịch sử giải phóng dân tộc (1930-1945).
5. Nêu tinh chất, kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng tháng Tám (1945).
6. Vì sao nói cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng tám 1945 rơi vào tinh thế “ngàn cân
treo sợi tóc”?
7. Hãy chứng minh thắng lợi của khanh chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) là kết kết
quả cuộc chiến tranh nhân dân: “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức minh là chinh”.
8. Nêu quan điểm của Đảng về vị trí và vai trị của văn hóa trong phát triển bền vững đất
nước.
9. Nêu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế.

1


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

Câu 1: Vì sao trong quá trinh tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc lại chọn con đường
cách mạng vô sản?
Những năm 20 của thế kỉ XX là những năm rất quan trọng trong đời sống
chinh trị của đất nước, có thể gọi là những năm bản lề trong lịch sử cận đại Việt Nam, gắn


liền với tên tuối của Nguyễn Ái Quốc. Đây là thời kì đanh dấu sự tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn của Người cho dân tộc Việt Nam và bắt đầu hướng dân tộc đi theo con đường đó
– con đường cách mạng vơ sản.
Nguyễn Ái Quốc (1890 – 1969) sinh ra trong một gia đinh nho giáo giâu
truyền thống yêu nước, ở một vùng quê giàu tinh thần cách mạng. Vì thế mà ý chí quyết tâm
tìm đường cứu nước của Người đã có từ rất sớm.
Từ khi còn rất trẻ, Nguyễn Ái Quốc đã biết đến con đường cứu nước theo ý
thức hệ phong kiến, hay theo tư tưởng dân chủ tư sản với hai khuynh hướng bạo động của
Phan Bội Châu và ôn hòa của Phan Chu Trinh. Sau này trên bước đường hoạt động ở nước
ngoài (1911 – 1919), Người tiếp xúc với cách thức đấu tranh của các dân tộc thuộc địa khác
hoặc của bản thân giai cấp công nhân. Đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu biết đến con
đường cách mạng vô sản qua “Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của
Lênin trên báo Nhân đạo. Sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu, Nguyễn Ái Quốc củng cố
niềm tin của minh vào con đường này đối với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Từ
đây, Người bắt đầu đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin, đi theo Cách mạng Tháng mười Nga, và
cuối cùng quyết định chọn cách mạng vơ sản để giải phóng dân tộc Việt Nam. Ngun nhân
nằm ở những yếu tố sau:
- Đầu tiên, từ cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, con đường cứu nước của Việt
Nam đi vào giao đoạn bế tắc bới những con đường cứu nước mà Người biết đến từ sớm đều
thất bại do có nhiều hạn chế:
+ Với con đường cứu nước theo ý thức hệ phong kiến, sự thất bại của
phong trao Cần Vương và phong trao cầm vũ khí đánh Pháp của Hồng Hoa Thám ở Yên Thế
chứng tỏ sự phá sản của chủ nghĩa trung quân và sự thất bạ hoan toan của nó trước các
nhiệm vụ lịch sử. Dù xuất thân từ gia đinh nho giáo những Nguyễn Ái Quốc không bị ràng
buộc bời tư tưởng trung quân, kiên quyết không lựa chọn con đường này.
+ Con đường cứu nước theo hệ ý thức tư sản cũng bất lực trước các
nhiệm vụ lịch sử. Điều này thể hiện ở tư tưởng duy tân khi ngọn cờ tiên phong “Duy tân hội”
của Phan Bội Châu được phất lên và tư tưởng “ý Pháp cầu tiến bộ” dựa vào Pháp mà đi lên
của Phân Châu Trinh. Dù bạo động hay bất bạo động thì kết quả của hai đường lối này đều bị
thực dân Pháp phá hoại. Nhận thức được sai lầm của hai khuynh hướng này, Người đã

không tham gia vào phong trào Đông Du (1905).

2


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

 Như vậy, dù rất kính trọng các bậc tiền bối nhưng Nguyễn Tất
Thành khơng bằng lịng với đường đi nước bước của họ và khơng muốn đi theo
vế mịn lịch sử nên quyết định lựa chọn con đường riêng.
- Mặt khác, Người chọn con đường này vì tinh đúng đắn của nó đối với cách
mạng của một nước thuộc địa. Tính đúng đắn của nó được thể hiện rõ nét thơng qua con
đường các mạng mà Người đã nêu lên trong thời gian hoạt động từ năm 1920 – 1927. Việc
đọc được bản “Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và điều
thứ 8 trong 21 điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản là hai bước ngoặc trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người. Ngoài ra, trong Đại hội Quốc tế cộng sản và Đại hội các dân
tộc phương Đông, khẩu hiệu về tư tưởng cách mạng quốc tế: vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức đoan kết lại, đã được nêu ra. Như vậy, con đường cách mạng vô sản ở các
thuộc địa không bị cô lập mà luôn được ủng hộ, giúp sức.
- Trong quá trinh tìm đường cứu nước, tiêu chuẩn cao nhất cho sự lựa chọn
và định hướng của Nguyễn Ái Quốc là kiên quyết đứng về phai học thuyết và tổ chức cách
mạng nào thực sự quan tâm đến quyền lợi của các dân tộc bị áp bức, bóc lột; bênh vực, ủng
hộ và chỉ ra con đường đung đắn để giải phóng dân tộc. Tiêu chuẩn này lại phù hợp với
đường lối của cách mạng vô sản – con đường cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, nhằm
dùng bạo lực cách mạng để lật độ ách thống trị của giai cấp tư sản, thiết lập chế độ xã hội
chủ nghĩa.
- Thực tế, con đường cách mạng vô sản đã có tiền lệ ở nước Nga, để lại nhiều
bài học kinh nghiệm. Chính con đường này đã đưa đến thắng lợi vang dội của Cách mạng
tháng Mười Nga năm 1917. Lần đầu tiên trong lịch sứ, thanh quả của cách mạng đã đưa giai
cấp công nhân và nhân dân lao động lên nắm chính quyền. Con đường này đã thành cơng ở

nước Nga rộng lớn thì ai dám chắc rằng nó khơng có cơ hội thanh cơng ở Việt Nam. Do đó
mà Nguyễn Ái Quốc quyết định lựa chọn con đường này.

Câu 2: Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam là một tất yếu?
Đảng Cộng sản là kết quả tất yếu của quá trinh vận động hợp quy luật, tức là
sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trao công nông và phong trao
yêu nước.
- Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập
bộ máy cai trị. Xuất phát từ truyền thống yêu nước và ý chí bất khuất, nhân dân ta đa đứng
lên chống giặc ngoại xâm. Vì thế mà vào thời điểm này, nhiều phong trao đấu tranh đã nổ ra
nhưng đều không hồn thanh nhiệm vụ. Từ đó, vấn đề đặt ra cho cách mạng Việt Nam là tìm
ra một lực lượng lanh đạo đưa cách mạng đi đến thắng lợi.
3


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

- Suốt từ cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, nước ta diễn ra hai phong trao đấu
tranh hết sức mạnh mẽ là phong trao công nhân và phong trao yêu nước.
+ Trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến
nhất trong sản xuất, có ý thức kỷ luật cao, sớm tiếp thu được những tinh hoa trào lưu tư
tưởng của thời đại cách mạng vô sản để bồi dưỡng cho bản chất cách mạng của minh. Nhờ
vậy mà phong trao công nhân ngày càng có những bước tiến rõ rêt. Từ năm 1920 – 1925 đã
nổ ra 25 cuộc bãi công. Tiêu biểu nhất là cuộc bãi công của 1000 công nhân xường Ba Son
(Sài Gòn) tháng 8/1925. Tuy thất bại do lực lượng còn quá mỏng và thiếu kinh nghiệm đấu
tranh, song giai cấp công nhân đã ngày một trưởng thanh về nhận thức, về con đường đấu
tranh cũng như phát triển thêm về cả lực lượng.
+ Bên cạnh đó, phong trào yêu nước ở nước ra tồn tại hai khuynh hướng
cơ bản là phong kiến và tư sản. Nổi bật của khuynh hướng phong kiến là thể hiện được tinh

thần yêu nước lớn lao, ý thức dân tộc và cổ vũ mạnh mẽ cho các phong trao khác trên đất
nước. Tiêu biểu có phong trao Cần Vương (1885 – 1896) kéo theo các cuộc khởi nghĩa Ba
Đình, Bãi Sây, Hương Khê, Yên Thế. Tuy nhiên đều bị đàn áp đẫm máu, điều này chứng tỏ sự
bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ lịch sử. Cịn khuynh
hướng tư sản tiêu biểu có Phan Bội Châu với phong trao Đông Du và Quang Phục Hội hay
phong trao yêu nước của Phan Châu Trinh. Tất cả đều thất bại sau một thời gian do hạn chế
về mặt lịch sử mà các sĩ phu yêu nước khơng tìm được phương hướng hợp lý cho các cuộc
đấu tranh.
 Có thể thấy, hai phong trao đấu tranh ở Việt Nam lúc bấy giờ
đều thất bại bởi nổ ra rời rạc, khơng có một đường lối, chủ trương đấu tranh thống nhất. Và
tất nhiên, thất bại còn ở chỗ khơng có lực lượng lanh đạo tiên phong đi đầu.
- Mãi tới khi Nguyễn Ái Quốc được tiếp cận với học thuyết Mác – Lênin,
Người mới nhận ra rằng giai cấp có đủ khả năng đứng dậy tập trung sức mạng của dân tộc
thanh một khối và lanh đạo cách mạng đi tới thắng lợi chinh là giai cấp công nhân, mà đội
tiền phong chính là một chinh đảng duy nhất: Đảng Cộng sản. Thật vậy, vào ngày 3/2/1930,
khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời đã chấm dứt thời kì khủng hoảng sâu sắc về giai cấp
lanh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta, đanh dấu bước ngoặc của cách mạng nước nhà.
Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam đã có một bộ phận tham mưu của giai cấp và dân tộc
lãnh đạo, cho thấy sự chiến thắng của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với các trao lưu tư tưởng
phi vô sản. Hơn thế nữa, chinh việc Đảng Cộng sản ra đời đã đem đến thắng lợi rực rỡ của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
 Vì những lẽ trên, hồn toan có thể khẳng định rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời chinh
là kết quả tất yếu của quá trinh vận động hợp quy luật, của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
ba yếu tố: chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trao công nhân và phong trao yêu nước.

4


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH


Ngoài ra, cũng phải khẳng định rằng sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là
kết quả tất yếu từ sự chuẩn bị kỹ lưỡng của Nguyễn Ái Quốc.
- Thứ nhất, Người nhận thấy một thực tiễn rằng dân tộc ta khơng có một con
đường cách mạng đung đắn; và khi tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin thì Người mới vỡ ra
rằng chỉ có đi theo con đường cách mạng vơ sản thì mới mong có được độc lập.
- Thứ hai, xuất phát từ những điều kiện lịch sử và các tiền đề về lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như phong trao công nhân và phong trao yêu nước, Người đã
dốc sức chuẩn bị chu đáo về mặt chủ quan và thúc đẩy các điều kiện khách quan đi đến chín
mùi.
+ Về tư tưởng, Người đã đi sâu tìm hiểu trực tiếp trên đất nước đã làm
cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới. Khi Người đọc được “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” cũng là lúc tư tưởng Hồ Chí Minh gặp gỡ
tư tưởng của Mác, Ăng-ghen và Lênin. Từ đó, Người ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin
về nước, đồng thời tích cực chuẩn bị các yếu tố về mặt tổ chức và chinh trị để tiến tới việc
thanh lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
+ Năm 1921, “Hội Liên Hiệp thuộc địa” được thanh lập ở Pari; năm 1925,
“Hội Liên Hiệp các dân tộc bị áp bức” được tổ chức ở Quảng Châu; trong đó, Nguyễn Ái
Quốc là một trong những người khởi xướng, vừa tổ chức vừa lanh đạo. Ngoài ra, Người còn
viết bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo,… và viết tác phẩm “Bản án chế độ
thực dân Pháp” để tố cáo tội ác của bọn thực dân.
+ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chinh trị, từ năm
1924 đến 1927 đã đào tạo được 75 hội viên, cho ra đời Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên.t Các bài giảng trong các lớp đào tạo này được tập hợp lại in thanh sách “Đường cách
mệnh” (đầu năm 1927). Từ tác phẩm toát ra một yêu cầu cấp thiết hanh động.
 Như vậy, Nguyễn Ái Quốc truyền bá con đường cách mạng vô sản vào Việt Nam không
bằng con đường sách vở mà bằng sự kết hợp chặt chẽ với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Cuối cùng, Đảng ra đời là một tất yếu để hợp nhất ba tổ chức đảng lúc bấy
giờ.
- Ngày 17/6/1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp đại hội
quyết định thanh lập Đông Dương Cộng sản Đảng, đáp ứng đung yếu cầu bức thiết của quần

chúng nên được nhiệt liệt hưởng ứng nên phát triển rất nhanh. Tiếp đó, các hội viên tiên
tiến trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Trung Quốc và Nam kì cũng quyết định
thanh lập An Nam Cộng sản Đảng (7/1929). Hai sự kiện này tác động mạnh mẽ đến các đảng
viên tiên tiến của đảng Tân Việt, họ tách ra để thanh lập Đông Dương Cộng sản liên đoan
(9/1929). Chưa đầy 4 tháng đã có 3 tổ chức Đảng Cộng sản ở Việt Nam lần lượt ra đời.
5


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

- Mặc dù cả 3 tổ chức đều tạo thanh một làn sóng đấu tranh cách mạng dân
chủ khắp cả nước, nhưng bởi hoạt động riêng rẽ, cơng kích lẫn nhau, tranh gianh ảnh hưởng
của nhau mà chúng gây nên trở ngại lớn cho phong trao cách mạng. Yêu cầu bức thiết lúc
này là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. Trước tinh hình đó, với tư cách
là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã có đủ quyền quyết định để thống
nhất các lực lượng cộng sản, thanh lập một Đảng cộng sản duy nhất. Từ ngày 3 – 7/2/1930,
hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp tại Cửu Long (Hương Cảng) do Nguyễn Ái
Quốc chủ trì cùng với sự tham gia của 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng và 2 đại biểu
An Nam Cộng sản Đảng. Sau 5 ngày làm việc, hội nghị đã hoan toan nhất trí thống nhất các
tổ chức cộng sản để thanh lập một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.
 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu từ yêu cầu phải hợp nhất ba tổ chức đang hoạt
động lúc bấy giờ để thống nhất đường lối đấu tranh và đưa cách mạng Việt Nam đi đến
thắng lợi.

Câu 3: Tại sao nói Cương linh chinh trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là cương
lĩnh đung đắn và sang tạo, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh dân tộc, tinh giai cấp và
tinh nhân văn?
Trong cuôc đời hoạt đơng cách mạng của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thể hiên
rõ nét và sinh đông trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng về tinh thần đ ôc l âp, tự
chủ, sáng tạo trong viêc vân dụng truyền thống dân tơc, kinh nghiệm từ nước ngồi và chủ

nghĩa Mác - Lênin môt cách nhuần nhuyễn vào thực tiễn Việt Nam. Cương lĩnh đã chỉ ra
những phương hướng cơ bản cho cách mạng VN, đ ăt nền móng cho vi êc xác định lý lu ân,
đường lối, phương pháp cách mạng và những nguyên tắc chủ yếu để xây dựng chính đảng
kiểu mới của giai cấp cơng nhân Việt Nam.
Tuy hết sức ngắn gọn, vắn tắt nhưng Cương linh chinh trị đầu tiên của Đảng đã kết
hợp nhuần nhuyễn giữa tinh dân tộc, tinh giai cấp và tinh nhân văn với những lu ân điểm
sau:
- Một là, cách mạng VN phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để
tiến lên xã hội cộng sản.
+ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác định rõ hai mâu thuẫn ở nước ta là mâu
thuẫn giữa dân tộc với đế quốc Pháp và tay sai của chúng; đồng thời là mâu thuẫn giữa nhân
dân Việt Nam - mà đa số là nông dân - với bọn địa chủ phong kiến chung quanh vấn đề
ruộng đất.

6


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

+ Chỉ có giải quyết hai mâu thuẫn này thì xã hội Việt Nam mới thốt khỏi áp
bức, bóc lột, phát triển đi lên. Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm
"tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
+ Như vậy, cương lĩnh cũng đã xác định rõ mục tiêu cuối cùng của cách mạng
Việt Nam không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà
phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội và
Chủ nghĩa Cộng sản. Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này khơng có bức tường ngăn cách.
+ Luận điểm trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc trong tư duy lý luận chính
trị của cách mạng Việt Nam và chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nắm vững
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế
giới, thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam và nhận rõ mối quan

hệ biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng XHCN. Con đường cách mạng
mà Cương lĩnh chính trị đã nêu mang tính triệt để và rọi sáng một hướng phát triển mới của
Cách mạng Việt Nam và cũng là một chân lý cách mạng mà Đảng CSVN và nhân dân Việt
Nam phấn đấu thực hiện : giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; tự do
hạnh phúc của nhân dân là giá trị chân thực của độc lập dân tộc và CNXH.
- Hai là, trong cách mạng tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế
quốc và chống phong kiến.
+ Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến là vấn đề phức tạp. Cương lĩnh chính trị đã nêu rõ mặc dù cả 2 nhiệm vụ phải
được tiến hành đồng thời và khắng khít với nhau, song về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định
phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" . Điều
này xuất phát từ hoàn cảnh xã hội nước ta là xã hội thuộc địa, mâu thuẫn giai cấp tuy có sâu
sắc nhưng mâu thuẫn chủ yếu nhất, bức xúc nhất vẫn là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam
với thực dân Pháp cùng bọn tay sai của chúng. Việc xác định đúng kẻ thù chủ yếu và nhiệm
vụ chủ yếu là để nắm vững ngọn cờ dân tộc, tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh dân tộc
nhưng không coi nhẹ nhiệm vụ giải phóng giai cấp là một những tư tưởng đúng đắn, sáng
tạo của Đảng ta bắt nguồn từ việc khéo léo kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem
xét vấn đề xã hội.
- Ba là, xác định lực lượng cách mạng.
+ Cương lĩnh xác định rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải dựa
trên lực lượng cách mạng là liên minh cơng - nơng làm nịng cốt, trong đó giai cấp cơng
nhân giữ vai trị lãnh đạo nhưng cũng phải lơi kéo, tập họp cả những người yêu nước ở tầng
lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nơng; đồng thời lợi dụng, trung lập phú nông, trung và tiểu
địa chủ, tư sản dân tộc. Sự phân chia giai cấp tư sản, địa chủ ra thành những nhóm đối
tượng khác nhau để có chính sách đối xử phù hợp, tranh thủ lơi kéo những người có lịng
u nước, trung lập những người có thể trung lập nhằm làm suy yếu kẻ thù và cương quyết
7


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH


trừng trị đối với kẻ thù là thể hiện sự nhận thức và đánh giá đúng của Đảng ta đối với mỗi
giai cấp, mỗi tầng lớp trong xã hội, mỗi dân tộc trong cộng đồng, thừa nhận tính tích cực và
sự đóng góp của họ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Bốn là, lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân.
+ Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời mở đầu cho thời đại
mới trong lịch sử nước ta, thời đại giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng ở vị
trí trung tâm, kết hợp lại mọi phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung,
phương hướng phát triển của xã hội Việt Nam. Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất
trong sản xuất, có ý thức kỷ luật cao, sớm tiếp thu được những tinh hoa trào lưu tư tưởng
của thời đại cách mạng vô sản để bồi dưỡng cho bản chất cách mạng của minh. Vì thế mà họ
có đủ phẩm chất để trở thành giai cấp lanh đạo. Sức mạnh của Đảng nằm ở chỗ Đảng không
chỉ kết nạp công nhân tiên tiến, mà cịn kết nạp những nơng dân lao động và trí thức ưu tú,
và cả trong các tầng lớp khác.
- Năm là, về phương pháp cách mạng.
+ Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách
mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra
Chính phủ cơng nơng binh chứ khơng phải bằng con đường cải lương. Đây là kinh nghiệm
được rút ra từ các cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc trên thế giới. Chiến thắng của
cách mạng tháng 8-1945, Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và Chiến dịch Hồ Chí Minh
năm 1975 cho thấy sự chọn lựa phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng là hoàn toàn đúng
đắn để đánh đổ bọn đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc.
- Sáu là, cách mạng Việt Nam đồn kết với giai cấp vơ sản và các dân tộc thuộc địa
trên thế giới.
+ Cương lĩnh đã khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
vơ sản thế giới. Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một nguồn sống của bọn tư bản mà cịn là
cái “nền móng” của chủ nghĩa đế quốc. Do đó, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khơng
những phải trở thành bộ phận khắng khít của cuộc cách mạng vơ sản mang tính tồn cầu mà
cịn có vai trò là một trào lưu lớn của cách mạng trong thế kỷ này. Tư tưởng này là cơ sở cho

sự phát triển chính sách đồn kết quốc tế của Đảng ta. Chính sách đó ln được bổ sung,
hồn thiện và là một nguồn tăng thêm sức mạnh lớn hơn sức mạnh vốn có của ta, là một
nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng tạo:
vừa vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng chính
xác những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

8


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính giai cấp, tinh dân tộc và tinh nhân văn, Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng đã trở thành ngọn cờ đoàn kết, tâp hợp mọi tầng lớp nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng để đấu tranh giải phóng dân tơc, đi tới Chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã
chứng minh, mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam trong hơn 75 năm qua đều gắn liền với
tính đúng đắn của Cưỡng linh thơng qua những luân điểm sáng tạo, cách mạng, khoa học
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Câu 4: Nêu vai trò của Đảng trong lịch sử giải phóng dân tộc (1930-1945).
Để xác định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng đã dũng cảm vượt lên những
khuôn mẫu giáo điều, trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài, có lúc rất gay gắt, từng bước vượt
qua những khó khăn về vận dụng lý luận và nhận thức thực tiễn nhằm xác định chính xác kẻ
thù, nhiệm vụ chiến lược, đề ra chủ trương tập hợp lực lượng đúng đắn và phương pháp
cách mạng khoa học, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử của
một nước thuộc địa.
Trong lịch sử giải phóng dân tộc (1930-1945), Đảng đã thể hiện vai trị hết sức quan
trọng của mình thơng qua các yếu tố sau:
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xác định nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.

- Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, mặc dù tính chất phong kiến cịn được duy trì
một phần, song tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và giai cấp ở nước ta đều bị
đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam hình thành
nên những mâu thuẫn đan xen nhau, nhưng mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Vậy nên, yêu cầu trước hết
của dân tộc Việt Nam nói chung, giai cấp nơng dân nói riêng là tiến hành cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động, giành độc lập dân tộc.
- Hướng theo Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và
xác định con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vơ sản. Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã
xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai
được nhấn mạnh trên cả hai phương diện chính trị và kinh tế: về chính trị, đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn tồn độc lập, dựng ra
chính phủ cơng nơng binh và tổ chức ra quân đội công nông; về kinh tế, tịch thu hết các sản
nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để
9


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

giao cho chính phủ cơng nơng binh quản lý và lấy ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm
của công, chia cho dân cày nghèo. Với chiến lược đấu tranh dân tộc, Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng
độc lập tự do của quần chúng nhân dân.
- Ngoài ra chiến lược mà Đảng đề ra còn được thể hiện trong nhiều văn kiện từ Hội nghị
lần thứ tám (5/1941) hay trong Nghị quyết Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2/1943).
- Như vậy, trải qua một quá trình nhận thức thực tiễn, vượt qua được quan điểm giáo
điều, Đảng đã thể hiện vai trị của mình trong việc khẳng định mâu thuẫn chủ yếu và những
nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của cách mạng thuộc địa, từ đó kiên quyết giương cao ngọn

cờ giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân. Đó là cơ sở để xác định chủ trương và hình
thức tập hợp lực lượng cách mạng.
2. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp lực lượng cách mạng
- Chủ nghĩa đế quốc xâm lược đất nước ta thì chủ yếu là áp bức bóc lột nơng dân,
làm cho họ "lâm vào cảnh tuyệt vọng". Trong xã hội thuộc địa, không chỉ có cơng nhân và
nơng dân, mà các giai cấp và tầng lớp khác đều phải chịu những hậu quả nặng nề của chế độ
thực dân. Độc lập tự do là ý chí, nguyện vọng của cả dân tộc.
- Do sự chèn ép của tư bản Pháp, giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế
và chính trị, không phải là giai cấp thống trị ở các nước tư bản chủ nghĩa. Vì thế mà Đảng đã
chủ trương tập hợp đại bộ phận các giai cấp công nhân và nơng dân; lơi kéo tiểu tư sản, trí
thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản
Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Chủ trương tập hợp lực lượng trên đây phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, huy động
mọi lực lượng dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc.
- Trong thực tiễn phong trào cách mạng năm 1930, ở Trung Kỳ, có những kẻ phản bội
cách mạng nhưng không nhiều. Hạn chế của phong trào cách mạng là "khơng tổ chức được
tồn dân lại thành một lực lượng thật đơng, thật kín", "tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần
công nông và là một màu sắc nhất định”. Nhận thấy hạn chế đó, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng trong Chỉ thị Về vấn đề thành lập Hội "Phản đế đồng minh" (18-11-1930), chủ trương
đoàn kết rộng rãi lực lượng toàn dân tộc, bao gồm các giai cấp, tầng lớp và cá nhân yêu
nước.
- Đầu năm 1936, trong một bức thư ngỏ gửi các tổ chức cách mạng quốc gia và các
nhóm chống đế quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chủ trương "đoàn kết, tăng
cường và củng cố tất cả mọi lực lượng chống đế quốc ở Đông Dương". Từ tháng 7/1936,
Đảng tập trung lãnh đạo cuộc vận động dân chủ, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân chủ,
nhưng chủ yếu vẫn là lực lượng dân tộc.
10



Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

- Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, tình hình Đơng Dương có những biến
chuyển lớn, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
nhằm tập hợp rộng rãi "tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải
phóng cho dân tộc".
- Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5/1941) đã giải quyết vấn
đề dân tộc trong từng nước ở Đông Dương, thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng. Hội
nghị chủ trương: "Sự liên minh tất cả lực lượng của các giai cấp, đảng phái, các nhóm cách
mạng cứu nước, các tơn giáo, các dân tộc kháng Nhật, đó là cơng việc cốt yếu của Đảng ta".
Khi tổ chức một đoàn thể cứu quốc điều cốt yếu "không phải là những hội viên phải hiểu chủ
nghĩa cộng sản", mà là "có tinh thần cứu quốc và muốn tranh đấu cứu quốc".
- Thực hiện chủ trương của Đảng, Mặt trận Việt Minh được thành lập, giương cao
ngọn cờ giải phóng dân tộc, quy tụ lực lượng và sức mạnh toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh
cho độc lập tự do. Đó là một điển hình thành cơng của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc, tập hợp lực lượng cách mạng.
3. Chủ trương khởi nghĩa vũ trang, thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
- Để lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, cần dùng bạo lực cách mạng chống
lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy và bảo vệ chính quyền.
- Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi sự nghiệp cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, Đảng và Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực của
quần chúng, dựa vào hai lực lượng: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, để tiến hành
đấu tranh dưới hình thức: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
- Từ đó, Luận cương chính trị tháng 10/1930 đã chủ trương ra sức chuẩn bị cho quần
chúng về con đường "võ trang bạo động".
- Nhận rõ "hồn cảnh Đơng Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng", Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11/1940) đã phân tích tình hình và nhận
định "Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lãnh đạo cho các dân tộc bị
áp bức Đông Dương vũ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập".
- Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5/1941) đề ra chủ

trương khởi nghĩa vũ trang, nhấn mạnh chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm
của toàn Đảng, toàn dân ta. Đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa là một điển
hình sáng tạo của Đảng và Hồ Chí Minh trong việc vận dụng lý luận Mác - Lênin về khởi nghĩa
vũ trang.
- Với nghệ thuật khởi nghĩa dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta ra sức chuẩn bị
lực lượng, đi từ khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ ở nơng thơn, tiến lên
đánh giá đúng thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn
11


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

và thành thị, dùng bạo lực cách mạng của quần chúng đập tan bộ máy chính quyền của đế
quốc và tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng.
- Trên cơ sở xác định đúng tính chất và lực lượng tham gia cách mạng, Đảng có sự
sáng tạo về hình thức chính quyền nhà nước, nhằm giải quyết vấn đề cơ bản của mọi cuộc
cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng chủ trương "dựng ra Chính phủ cơng nơng
binh". Tuy nhiên, lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm tồn dân tộc, vì thế
cần có một hình thức chính quyền rộng rãi hơn, phù hợp hơn, không chỉ đơn thuần cơng
nơng, mà cịn phải bao gồm các giai cấp và tầng lớp yêu nước khác.
- Phù hợp với tính chất và lực lượng tham gia cách mạng, trong cuộc vận động cứu
nước, Đảng có chủ trương mới về hình thức chính quyền nhà nước. Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (11/1939) chủ trương thành lập chính quyền nhà nước với hình
thức cộng hồ dân chủ trong phạm vi tồn Đơng Dương. Hội nghị Trung ương lần thứ tám
(5/1941) đã giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương và thành
lập ở mỗi nước một mặt trận riêng.
- Với đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản và tư tưởng độc lập
tự do của Hồ Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm Cách mạng Tháng Tám thành
công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hồ, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở

Đơng Nam Á.

Câu 5: Nêu tinh chất, kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng tháng Tám
(1945).
1. Tính chất:
* Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - cuộc cách mạng mang tính thời đại sâu sắc.
- Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 nổ ra trong bối cảnh lực lượng dân chủ
trên thế giới đánh bại chủ nghĩa phát-xít Đức - Ý - Nhật. Tuy khơng trực tiếp có quân đội
chiến đấu trên chiến tuyến, nhưng các lực lượng vũ trang cách mạng và toàn dân yêu nước
Việt Nam đã tham gia tích cực vào phe Đồng minh chiến đấu chống phát-xít khi phát-xít Nhật
xâm chiếm Đơng Dương, góp phần vào thắng lợi chung của các lực lượng u hịa bình, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
- Ngày 21/12/1941, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra
Thông cáo: “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng”, cho thấy,
Đảng ta nhận thức một cách rõ ràng cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam là
một bộ phận của trào lưu dân chủ chống đế quốc, phát-xít trên thế giới.
12


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

- Cách mạng Tháng Tám đã tỏ rõ tinh thần chống phát-xít và u chuộng dân chủ,
hịa bình của nhân dân Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám đã kết thúc vẻ vang thời kỳ chống
phát-xít Nhật trong Chiến tranh thế giới thứ II. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 12/3/1945
cũng đã thể hiện rõ tính quốc tế của phong trào cách mạng Việt Nam khi Đảng ta kêu gọi
toàn dân hưởng ứng cao trào kháng Nhật, cứu nước.
- Tổng khởi nghĩa - Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước công nông,
dân chủ cộng hịa, đã đóng vai trị chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ suy sụp, tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế

giới; cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống ách nô dịch của chủ
nghĩa đế quốc.
* Cách mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng có tính dân tộc, nhân dân rộng lớn và phổ
biến
- Toàn bộ chủ trương, đường lối, chính sách, sách lược của Đảng và Mặt trận Việt
Minh đều được toàn dân triển khai thực hiện có kết quả trên tất cả các lĩnh vực nhằm chờ
đón thời cơ thuận lợi để đứng lên giành chính quyền.
- Đến giữa tháng 8/1945, được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng ta và lãnh tụ Hồ
Chí Minh nhận định: tình thế trực tiếp cách mạng đã chín muồi. Đại hội Quốc dân Tân Trào
đã thể hiện sự nhất trí của tồn thể dân tộc trong giờ phút quyết định vận mệnh của đất
nước. Điều đó được phản ánh rõ trong Thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giờ quyết
định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”. Thư kêu gọi đã thể hiện rõ tính dân tộc, tính nhân dân của cuộc Tổng khởi
nghĩa. Và thực tế, cuộc Tổng khởi nghĩa - cách mạng đã diễn ra đồng loạt, dồn dập, nhanh
chóng với lực lượng nhân dân tham gia rất đông đảo, từ nông thôn tới thành thị, trên phạm
vi rộng khắp cả nước. Một điều cần nhấn mạnh là dù chưa trực tiếp được nghe, chưa được
đọc mệnh lệnh khởi nghĩa của Đảng, Thư kêu gọi khởi nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và dù
số đảng viên của Đảng trong tồn quốc lúc đó rất ít (vài nghìn người), nhưng nhân dân ở hầu
hết các địa phương trong cả nước đã thấu hiểu, nắm bắt nhanh chóng tinh thần, chủ trương
của Đảng, tự giác đứng lên khởi nghĩa giành lấy chính quyền. Hàng chục vạn người ở Hà Nội,
Huế; 1 triệu người ở Sài Gòn và hàng triệu người ở các địa phương đã tham gia khởi nghĩa là bằng chứng hùng hồn về tinh thần dân tộc, tính nhân dân rộng lớn, phổ biến và sâu sắc
của cuộc Tổng khởi nghĩa.
* Cách mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng triệt để, mang đậm tính nhân văn
- Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nổ ra và giành thắng lợi một cách triệt để trên phạm vi cả
nước. Chính quyền cách mạng nhanh chóng được thiết lập từ Trung ương tới địa phương,
thay thế hồn tồn chính quyền của thực dân, phát-xít, phong kiến. So với một số cuộc cách
mạng và khởi nghĩa nổ ra trong khu vực châu Á tại thời điểm đó, khi mà điều kiện khách
13



Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

quan thuận lợi do Chiến tranh thế giới thứ II tạo ra giống nhau, chúng ta càng thấy rõ tính
triệt để của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam.
- Một điều tưởng chừng mâu thuẫn nhưng lại thể hiện trên thực tế một cách lơgíc,
hợp lý là tuy tính chất triệt để cách mạng rất cao nhưng cuộc Cách mạng Tháng Tám lại mang
đậm tính nhân văn, thể hiện ở một số điểm sau:
+ Thứ nhất, hầu như diễn biến khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương
khơng có tiếng súng, ít đổ máu, nhân dân giành chính quyền một cách mau lẹ. Lực lượng chủ
yếu tham gia khởi nghĩa là lực lượng chính trị của quần chúng, hình thức chủ yếu của khởi
nghĩa là biểu tình, tuần hành thị uy có vũ trang bằng các loại vũ khí tự tạo, tự mua sắm, bằng
đấu tranh chính trị. Lực lượng vũ trang chủ yếu đóng vai trị hỗ trợ, ít phải sử dụng hành
động quân sự.
+ Thứ hai, chính quyền cách mạng mới thành lập đã có chủ trương khơng trả
thù, truy bức những người từng chống lại cách mạng, những người từng làm việc cho chính
qụyền cũ. Trái lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn mời Bảo Đại, mời Giám mục Lê Hữu Từ, một
người vốn không ưa cộng sản, làm Cố vấn cho Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới.
Nhiều nhân sĩ, trí thức nổi tiếng cũng được Người mời tham gia Chính phủ, ứng cử vào Quốc
hội.
+ Thứ ba, đây là một cuộc cách mạng quy tụ được đông đảo các tầng lớp nhân
dân, không phân biệt đảng phái, dân tộc, tơn giáo, giới tính, lứa tuổi, ngành nghề, vùng
miền, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và lại cùng nhau đoàn kết xây dựng, củng cố,
bảo vệ chính quyền mới, chế độ mới do bản thân mình làm chủ; tỏ rõ quyết tâm bảo vệ
thành quả của cuộc cách mạng, dù có phải tiếp tục chiến đấu, hy sinh cũng khơng sờn lịng.
2. Kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu:
- Thứ nhất là có một đảng tiên phong thật sự là Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ra đường
lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời
cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.

- Thứ hai là vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách
mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ,
lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp
thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng
thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ

14


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản
Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13-8-1945.
-Thứ tư, tồn dân nổi dậy trên nền tảng cơng – nông. Đảng đã tập hợp mọi lực lượng,
không phân biệt dân tộc, đảng phái, tôn giáo để tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc; đoàn kết mọi lực lượng dân tộc trong Mặt trận Việt Minh để đánh đổ chính quyền phátxít và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, xây dựng chính quyền cách mạng của nhân
dân lao động.
- Thứ năm, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đung đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và phong kiến.
3. Ý nghĩa lịch sử
- Cách mạng Tháng Tám thắng lợi mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, một
cuộc đổi đời chưa từng có với mỗi người Việt Nam; đã lật nhào chế độ quân chủ phong kiến
hơn một nghìn năm, ách thống trị thực dân hơn 80 năm, giải phóng đất nước khỏi sự chiếm
đóng của phát-xít Nhật suốt 5 năm. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ
thực sự của đất nước, làm chủ vận mệnh, cuộc sống của mình. Nước ta từ một nước thuộc
địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ đầu
tiên ở khu vực Đông Nam Á.
- Đảng ta và nhân dân ta cịn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu tranh giải

phóng dân tộc và giành quyền dân chủ.
- Cách mạng tháng Tám thanh công đã cổ vũ mạnh mẽ cho nhân dân các nước thuộc địa
và nửa thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân giành lại độc lập tự do.
Câu 6: Vì sao nói cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng tám 1945 rơi vào tinh thế
“ngàn cân treo sợi tóc”?
- Trên thực tế, chính quyền cách mạng non trẻ của ta phải đối phó với mn vàn khó
khan, dẫn đến rơi vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”, Bên trong, “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc
nội phản hoành hành, bên ngoài, giặc ngoại xâm liên tục tấn cơng, hịng tiêu diệt chính
quyền vừa thành lập:
+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Tưởng kéo vào, theo chúng là bọn tay sai
thuộc các tổ chức phản động, âm mưu cướp chính quyền mà nhân dân ta đã giành được. Từ
vĩ tuyến 16 trở vào Nam, hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp trở lại
xâm lược nước ta.
+ Ngoài ra, trên cả nước còn hơn 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Bọn phản
động trong nước ngóc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng.
15


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

+ Chính quyền cách mạng còn non trẻ; lực lượng vũ trang cịn yếu.
+ Nạn đói vẫn chưa khắc phục. Hàng hố khan hiếm, đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn.
+ Di sản văn hoá lạc hậu của chế độ cũ rất nặng nề, hơn 90% dân số mù chữ, tệ
nạn xã hội còn phổ biến.
+ Ngân sách Nhà nước trống rỗng.
- Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện
đời sống nhân dân, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm các biện pháp đấu
tranh mềm dẻo nhằm duy trì hịa bình, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc theo
phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cách

mạng, tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù.
- Chúng ta đã chủ động đàm phán với Pháp để tránh cuộc chiến tranh, giữ hịa bình
cho cả hai dân tộc, giữ độc lập cho Tổ quốc, rồi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, sau đó ký
Tạm ước ngày 14-9-1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn gửi thư tới ngun thủ các nước Anh,
Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên hợp quốc nêu rõ thiện chí hịa bình, mong muốn Liên
hợp quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hịa bình. Đồng thời,
Người liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp
người cầm đầu Pháp ở Đơng Dương để tìm cách cứu vãn hịa bình, tránh cuộc chiến tranh
đổ máu. Nhưng giới cầm quyền thực dân đã khước từ mọi thiện chí, nỗ lực của chúng ta.
- Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Bất chấp những thiện chí
hịa bình của Việt Nam, trong các ngày 15 và 16-12-1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều
nơi ở Hà Nội. Ngày 17-12-1946, chúng cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra
vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Ngày 18-12-1946, tướng Mơlie gửi
cho ta 2 tối hậu thư địi chiếm đóng Sở Tài chính, địi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng
ngại vật trên các đường phố, địi để cho chúng giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tun bố nếu
các u cầu đó khơng được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì qn Pháp sẽ chuyển sang
hành động, chậm nhất là sáng ngày 20-12-1946.
- Vậy là kẻ thù đã đặt dân tộc Việt Nam trước 2 con đường: một là khoanh tay, cúi
đầu trở lại làm nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập. Tình thế đó,
buộc Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta khơng có lựa chọn nào hơn là
cầm vũ khí, đứng lên chiến đấu. Chính vì vậy, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị
Toàn dân kháng chiến và ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến. Đây là lời hịch cứu nước, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi
dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất; động viên, thơi thúc,
cỗ vũ tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta bước vào cuộc kháng chiến trưởng kỳ giành lại độc
lập, tự do cho Tổ quốc.
16


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH


Câu 7: Hãy chứng minh thắng lợi của khanh chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) là kết
kết quả cuộc chiến tranh nhân dân: “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức minh là
chinh”.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta (1946-1954) là
một điển hình về một dân tộc nhỏ bé có thể thắng một dân tộc lớn, một qn đội trang bị vũ
khí kém có thể thắng một đội qn xâm lược đơng có trang bị tốt hơn. Thắng lợi của cuộc
kháng chiến này là kết quả từ đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh, với quan điểm cơ bản là: phát động và tổ chức toan dân kháng chiến; kháng chiến
toan diện trên tất cả các mặt trận; kháng chiến lâu dài; dựa vào sức minh là chính.
* Chuyển đất nước vào thời chiến và chuẩn bị kháng chiến lâu dài
- Hà Nội là nơi thực dân Pháp có ý định đánh úp cơ quan đầu não và tiêu diệt lực
lượng vũ trang của ta đã trở thành chiến trường chính trong những ngày đầu kháng chiến
tồn quốc. Sau địn tiến cơng chủ động, đồng loạt và bất ngờ lúc 20 giờ ngày 19-12-1946,
quân và dân Thủ đô tiếp tục triển khai thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc.
Qua 60 ngày đêm chiến đấu kiên cường, anh dũng, sáng tạo, quân và dân Hà Nội hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não, tản cư, bảo đảm an toàn cho nhân
dân.
Phối hợp với Thủ đô Hà Nội, quân và dân từ Bắc vĩ tuyến 16 trở vào cũng giành được thắng
lợi quan trọng. Quân và dân Nam bộ, Nam Trung bộ và Tây Nguyên tiếp tục đẩy mạnh chiến
tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình định, kiềm chế không cho địch đưa lực lượng chi viện
cho Trung bộ và bắc bộ. Đồng thời, cùng với những cuộc chiến đấu trực tiếp với quân Pháp,
chúng ta thực hiện cuộc tổng di chuyển các cơ quan, kho tàng, máy móc vào An toàn khu.
Đến tháng 3-1947, cơ quan của Đảng, Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được chuyển lên
Việt Bắc an tồn. Việt Bắc trở thành Thủ đơ của kháng chiến. Ở các địa phương cũng làm tốt
việc di chuyển cơ quan vào các vùng nông thôn hoặc những nơi rừng núi, nhân dân triệt để
thi hành chính sách “vườn không nhà trống”, tản cư ra vùng tự do.
* Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính;
vừa kháng chiến vừa kiến quốc, giành thắng lợi vẻ vang
- Khi cơ hội tìm kiếm giải pháp hịa bình khơng cịn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung

ương Đảng chủ động mở đầu cuộc kháng chiến đúng thời điểm và kịp thời chuyển cả nước
vào thời chiến, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân.
- Về phía Pháp, với bản chất cố hữu của kẻ thực dân, nên sau khi được tăng cường
lực lượng, chúng mở rộng vùng chiếm đóng, ráo riết thực hiện địn tấn cơng quyết định sớm
kết thúc chiến tranh. Thu - Đông năm 1947, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương
huy động lực lượng lớn, mở cuộc hành quân lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não,
tiêu diệt quân chủ lực, phá tan căn cứ kháng chiến của ta. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Trung ương Đảng và tinh thần sáng tạo, quân, dân ta chiến đấu ngoan cường, giành
17


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, làm thất bại hoàn toàn
chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, mở ra giai đoạn mới cho cuộc
kháng chiến. Không thể sớm kết thúc chiến tranh theo ý định, các nhà cầm quân Pháp buộc
phải chuyển sang “đánh kéo dài”, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt,
lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, đồng thời tiến hành “Chiến tranh tổng lực”, tăng cường
đánh phá nhiều cơ sở của ta. Đến năm 1950, lực lượng kháng chiến của ta trưởng thành về
mọi mặt, Đảng và Chính phủ quyết định mở Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận
quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần vùng biên giới phía Bắc, mở rộng và củng cố
căn cứ địa Việt Bắc, khai thông đường liên lạc quốc tế với các nước XHCN.
Lợi dụng sự sa lầy cuộc chiến tranh Đông Dương của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ tăng cường
viện trợ cho Pháp, ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến này nhằm thực hiện âm mưu
ngăn chặn phong trào cộng sản tràn xuống Đông Nam Á và sẵn sàng thay Pháp để kéo dài
chiến tranh. Trước tình hình đó, Đại hội tồn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951) xác
định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược
và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống nhất hoàn tồn, bảo vệ hịa bình thế
giới. Phát huy thế tiến công chiến lược, quân dân ta giành được những thắng lợi quan trọng
trên các chiến trường như Hịa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào,…

- Chiến tranh nhân dân phát triển đã đẩy quân địch lún sâu vào thế bị động. Trong khi
đó, thế và lực của cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố, lực lượng vũ trang ba thứ quân
được tăng cường, bộ đội chủ lực ngày càng mạnh, hậu phương được củng cố là chỗ dựa,
góp phần quan trọng vào thắng lợi của tiền tuyến. Hịng xoay chuyển tình thế, dựa vào viện
trợ của Mỹ, Pháp lập kế hoạch Nava nhằm lấy lại quyền chủ động, tiến tới tiêu diệt bộ đội
chủ lực ta để kết thúc chiến tranh.
- Tuy nhiên, trước sự chỉ đạo chủ động, linh hoạt của Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư
lệnh, sự chiến đấu kiên cường dũng cảm của quân và dân ta, kế hoạch trên bị thất bại, buộc
Nava phải đưa quân chủ lực lên Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành tập đoàn cứ điểm khổng
lồ để tiêu diệt “chủ lực Việt Minh”. Sau 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân và dân ta
đập tan căn cứ quân sự lớn nhất của thực dân Pháp, tạo nên “cột mốc bằng vàng” trong lịch
sử chống ngoại xâm, tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao đi đến ký kết Hiệp định
Genève, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Miền Bắc nước ta được hồn tồn giải phóng.
Cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
Câu 8: Nêu quan điểm của Đảng về vị trí và vai trị của văn hóa trong phát triển bền vững
đất nước.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Người đã

18


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

khẳng định: “Trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến và phải
coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”.
1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự

phát triển kinh tế - xã hội.
* Văn hóa là nền tảng của xã hội
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong mỗi con
người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế hệ, được vật
chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hộ của từng dân tộc; đồng thời nó tác
động đến cuộc sống hằng ngày, tư tưởng và tinh cảm của mọi thanh viên trong xã hội.
Tóm lại, văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toan bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức
sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc vượt qua mọi khó khăn để phát triển.
- Vì vậy, chúng ta chủ trường làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi linh vực của đời
sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thanh nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở
thanh động lực phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó có thể xây dựng con người mới, xây dựng
mơi trường văn hóa lanh mạnh đủ sức đẩy lùi tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập tư tưởng
phản tiến bộ.
* Văn hóa là động lực thúc đẩy phát triển
- Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tạo ra cái mới, nhưng lại không
thể táh rời cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn bằng cách phát huy cội nguồn. Và
cội nguồn đó của mỗi quốc gia dân tộc chinh là văn hóa.
- Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái tốt, cái
đẹp để thúc đẩy người lao động phát huy sáng kiến, nâng cao tay nghề; mặt khác, văn hóa
sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống để hạn chế xu hưỡng sùng bái lợi ích vật chất,
tiền tệ.
- Văn hóa cổ vũ cho một lối sống có chừng mực, hài hịa; nó đưa ra mơ hình ứng xử
thân thiện giữa con người với thiên nhiên vì sự phát triển bền vững của hiện tại và tương lai.
- Nền văn hóa đương đại với những giá trị mới sẽ là tiền đề quan trọng đưa nước ta
hội nhập ngày càng sâu sắc và toan diện hơn và nền kinh tế thế giới.
* Văn hóa là một mục tiêu của phát triển
- Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000, Đảng ta đã xác định phát
triển hướng tới mục tiêu văn hóa – xã hội mới bảo đảm phát triển bền vững, trường tồn.
* Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con
người và xây dựng xã hội mới

19


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

- Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn nhân lực, trong đó, tri thức của
con người là nguồn nhân lực vơ hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh. Văn hóa giúp con người
có đủ năng lực để khai thác các nguồn lực khác bằng trí tuệ của minh.
2. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Tiên tiến, tức yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc
cùng với chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục
tiêu vì con người. Tiên tiến được thể hiện trong cả nội dung, hình thức biểu hiện và các
phương tiện truyền tải nội dung.
- Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp trong quá trinh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng
u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc hay tinh thần đồn kết; là lịng nhân ái; là đức
tinh cần cù, sáng tạo; hay là sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống,… Bản sắc dân
tộc là tổng thể những phẩm chất, khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức
sang tạo giúp cho dân tộc đó giữ được tinh duy nhất, tinh thống nhất và tính nhất quán
trong quá trinh phát triển.
- Bản sắc dân tộc thể hiện trong mọi linh vực của đời sống xã hội, nhưng sâu sắc nhất
là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của nền văn hóa. Hệ giá trị là những gì mà nhân
dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
- Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã hội và
thể chế chinh trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trinh hội nhập kinh tế thế
giới, quá trinh giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hóa , văn
minh nhân loại.
- Bản sắc dân tộc và tinh chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong
mọi hoạt động xây dựng, sang tạo vật chất, ứng dụng các thanh tựu khoa học, giao dục,...
sao cho trong mọi linh vực chúng ta có tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại, vừa mang

sắc thai Việt Nam. Đi và kinh tế thi trường, mở rộng giao lưu quốc tế, cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn phát huy những
giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dnagj trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam.
- Nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng. Mỗi thành phần
dân tộc đều cso truyền thống và bản sắc riêng của minh, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam lại
có một nền văn hóa chung nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tinh đa dạng, vì thế mà khơng có
sự đồng hóa hay thơn tinh, kỳ thị bản sắc văn hóa giữa các dân tộc.

20


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

4. Xây dựng và phát triển và hóa là sự nghiệp chung của toan dân do Đảng lanh đạo, trong
đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toan dân. Giai cấp cơng
nhân, nơng dân, trí thức là lực lượng nòng cốt trong xây dựng và phat triển văn hóa. Đội ngũ
trí thức, văn nghệ sĩ gắn bó với nhân dân lao đôgnj luôn được Đảng, Nhà nước và Nhân dân
tôn trọng, tạo điều kiện phát huy tài năng cống hiến cho nền văn hóa dân tộc. Ngồi ra, phát
triển giao dục – đào tạo, khoa học và công nghệ cũng là sự nghiệp cách mạng toan dân.
5. Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài,
địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng
- Trong công cuộc bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, xây
phải đi đôi với chống, lấy xây làm chinh. Hay nói cách khác, cùng với việc giữ gìn và phát huy
những di sản quý báu của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, phải kiền trì đấu tranh
bài trừ các hủ tục, chống âm mưu lợi dụng văn hóa để thực hiện diễn biến hịa binh.
Câu 9: Nêu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

 Sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trải qua hai giai đoạn:
1. Đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1986-1996)
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và bước đầu thực hiện đổi mới (1986-1991).
- Đại hộ đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khuyết điểm của Đảng
trong thời kỳ 1975-1986 và rút ra 4 bài học: quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”; tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
xây dựng Đảng ngang tầm với một Đảng cầm quyền.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và thực hiện đường lối đổi mới (1991-1996).
- Đại hội thông qua 2 văn kiện quan trọng: cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- XH đến năm 2000.
2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và bước đầu thực hiện công cuộc đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996-2001).
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội VIII đã bổ sung đặc trưng
tổng quát về mục tiêu xây dựng CNXH ở VN là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh. Đảng nêu ra những bài học chủ yếu qua 10 năm đổi mới, những quan điểm về
công tác xây dựng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ xây dựng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, xem đó là vấn đề có ý nghĩa quyết định hàng đầu.
21


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

* Đại hội đại biểu quốc lần thứ IX, tiếp tục thực hiện cơng cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa (2001-2006).
- Đại hội khẳng định những bài học về đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII nêu lên vẫn
cịn có giá trị lớn, nhất là bài học về kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội cũng thơng qua Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010.

 Hội nhập quốc tế:
Bao gồm hai giai đoạn: giai đoạn 1986-1996: Đảng xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế; giai đoạn 1996-2008: Bổ sung
và phát triển đường lối đối ngoại theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, hình thanh đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa binh, hợp tác và phát triển.
- Đảng đã xác định mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo thêm
nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đát nước; kết hợp nội lực với ngoại lcujw tạo
thanh nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giâu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đồng thời phát huy vai trò và nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hịa bình, độc lập.
- Về chỉ đạo, nó được thể hiện qua các tư tưởng sau:
+ Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường đi đơi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại.
+ Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
+ Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lanh thổ, không phân biệt chế độ
chinh trị xã hội. Coi trọng quan hệ hòa binh, hợp tác trong khu vực, chủ động tham gia các tổ
chức đa phương, khu vực và toàn cầu.
+ Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; xác
định hội nhập kinh tế quốc tế là cơng việc của tồn dân.
+ Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút nguồn lực từ bên ngoai.
+ Tăng cường sưc mạnh khối đại đoan kết toan dân trong tiến trinh hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Về chủ trương, chính sách
+ Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, bền vững.
+ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế theo lộ trinh phù hợp.
22


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH


+ Giữ vững quốc phòng, an ninh trong quá trinh hội nhập.
+ Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối
ngoại nhân dân; chinh trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
 Quá trinh thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế mặc dù cịn nhiều hạn
chế nhưng vẫn có nhiều thanh tựu cơ bản, có ý nghĩa quan trọng; góp phần đưa đất nucows
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; thế lực cách mạng Việt Nam đucowj nâng cao trên
thương trường và chính trường quốc tế. Những điều này đã chứng minh vai trò của Đảng
trong veiejc đề ra những đường lối hội nhập kinh tế hết sức đúng đắn và sang tạo.

 Vai trò lãnh đạo của Đảng trong cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Sau ngày thống nhất, cả nước bước vào công cuộc xây dựng CNXH, sự nghiệp này là
nhiệm vụ nặng nề của Đảng. Thực tế đó địi hỏi Đảng phải chú trọng nắm bắt đặc điểm, thực
tiễn của đất nước, đổi mới tư duy lý luận, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí,
nóng vội để nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, những đặc trưng của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI (12-1986) đã
được hoạch định trên cơ sở đó.
- Đặc biệt, vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp và
tình hình đất nước có mn vàn khó khăn, nhất là sau sự kiện chế độ XHCN ở Đông Âu và
Liên Xô sụp đổ, các thế lực thù địch không ngừng chống phá, Đảng vẫn kiên định mục tiêu đã
lựa chọn, giữ vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng gió, tiếp
tục tiến hành công cuộc đổi mới và đã được đạt nhiều thành tựu quan trọng.
- Đảng đã kiên trì lãnh đạo và từng bước bổ sung, hồn thiện đường lối đổi mới,
thơng qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại
hội VII (6-1991) và bổ sung Cương lĩnh 1991 tại Đại hội XI của Đảng (1-2011). Trên cơ sở đó,
bước đầu hình thành một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới,
khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tế của đất nước. Đại h ơi đại
biểu tồn quốc lần thứ XII của Đảng (1-2016) khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghi êp đổi
mới, đẩy mạnh sự nghiêp công nghiêp hóa, hiên đại hóa đất nước và h ơi nh âp quốc
tế, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đây

là kết quả của một quá trình trăn trở, tìm tòi, tổng kết, đổi mới tư duy lý luận nhận thức
đúng đắn hơn về thực tiễn cách mạng Việt Nam của Đảng.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được những thành
tựu to lớn và rất quan trọng, làm biến đổi và phát triển đất nước, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân, khẳng định vị thế của đất nước trong đời sống chính
trị, kinh tế của thế giới.

23


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

- Trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội, kinh tế tăng
trưởng tương đối nhanh và ổn định, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, đời sống của
nhân dân không ngừng được cải thiện. Tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm đạt gần 7%.
Tái cơ cấu nền kinh tế đạt kết quả bước đầu. Hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn:
dầu khí, dệt may, lương thực, cây cơng nghiệp, lắp ráp linh kiện điện tử... Giải quyết vững
chắc vấn đề lương thực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước
được hình thành. Kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới.
- Về văn hóa, xã hội, đời sống vât chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống
nhân dân được cải thiện một bước. Chú trọng xây dựng văn hóa và phát triển con người Việt
Nam phát triển tồn diện. Cơng tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt được
những kết quả tốt. Đến nay, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu Thiên niên kỷ do
Liên Hợp quốc đề ra.
- Về xây dựng hệ thống chính trị, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đã đạt được những kết quả bước đầu.
Quốc hội đẩy mạnh xây dựng luât pháp, từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương
thức hoạt động theo hình thức nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức thành viên từng bước đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động cho phù

hợp với tình hình mới.
- Về đối ngoại, Việt Nam đã phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại
theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia. Bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc (năm 1991), Hoa Kỳ (năm 1995); gia nhập ASEAN (năm
1995); gia nhập WTO (năm 2006); mở rông quan hệ hợp tác với hầu hết các nước lớn như:
Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và các nước tư bản phát triển: Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Ý…; ký kết
Hiệp ước chiến lược và Hiệp ước toàn diện với nhiều nước trên thế giới. Từng bước giải
quyết hịa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ biển, đảo với các nước liên quan. Đồng thời,
tăng cường đàm phán, ký kết các Hiệp ước Thương mại tự do với ASEAN, EU, Mỹ…Tranh thủ
ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập quốc tế.
- Về quốc phòng - an ninh, thành tựu cơ bản là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ
nghĩa; cơ bản giữ vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội. Chú trọng xây dựng, phát
triển tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước; xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là
qn đội và cơng an theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng được
thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
- Về công tác xây dựng Đảng, từng bước nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thống
nhất tư tưởng trên những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới; đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường
24


Trần Phương An – Ngữ văn Anh – USSH

lối đúng đắn; phê phán các quan điểm sai trái. Hệ thống tổ chức của Đảng và Nhà nước từng
bước được kiện toàn theo hướng tinh gọn, giảm bớt đầu mối trung gian. Tiến hành đổi mới
công tác cán bộ trên cơ sở lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm
chất, năng lực của cán bộ.
 Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hướng tới mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng trưởng thành và có thêm kinh

nghiệm lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới. Những thành tựu to
lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước sau thống nhất càng khẳng định vai trò lãnh đạo xuất sắc
của Đảng và minh chứng rõ ràng Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.

25


×