Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Khóa luận Lịch sử và xu hướng phát triển của hiến pháp các nước Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.64 KB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN KHÁNH LINH

LỊCH SỬ VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP
CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO TRONG KHU VỰC ĐƠNG NAM Á

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L

HÀ NỘI, 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------

NGUYỄN KHÁNH LINH

LỊCH SỬ VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP
CÁC NƯỚC HỒI GIÁO TRONG KHU VỰC ĐƠNG NAM Á
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
BỘ MÔN LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:


TS. MAI VĂN THẮNG

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Mai Văn Thắng. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận là
trung thực và chưa được cơng bố trong các cơng trình khoa học khác.

TÁC GIẢ KHÓA LUẬN

Nguyễn Khánh Linh


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT....................................................................................6
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................................7
1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ......................................................................7

2.

Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................9
2.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................9
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................9


3.

Những điểm mới của nghiên cứu..........................................................................10

4.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án..........................................................10

5.

Bố cục của khóa luận .............................................................................................11

CHƯƠNG 1. HỒI GIÁO VÀ PHÁP LUẬT Ở ĐÔNG NAM Á: LỊCH SỬ PHÁT
TRIỂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN .....................................................12
1.1. Lịch sử hình thành, phát triển của Hồi giáo ở Đông Nam Á và những đặc điểm
cơ bản .............................................................................................................................12
1.1.1.

Khái quát về lịch sử các quốc gia khu vực Đông Nam Á ..........................12

1.1.2.

Ảnh hưởng của Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á...................................14

1.1.3.

Khái quát những đặc điểm cơ bản của Hồi giáo tại Đông Nam Á ............17

1.1.4.


Đặc điểm cơ bản của pháp luật Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á .........19

1.2. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật Đơng Nam Á .........................................22
1.3. Các yếu tố có thể tác động đến pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia
Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á .................................................................................24
1.4.Tiểu kết chương 1 ...................................................................................................26
Chương 2. LỊCH SỬ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP CÁC QUỐC GIA
HỒI GIÁO KHU VỰC ĐÔNG NAM Á .........................................................................27
2.1. Khái quát chung về Hiến pháp và ảnh hưởng Hồi giáo tại các quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á ...................................................................................................27
2.2. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp tại Indonesia ...............................................28
2.2.1.

Khái quát chung...........................................................................................28

2.2.2.

Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Indonesia ..................................30

2.2.3.

Lịch sử của Hiến pháp Indonesia ...............................................................33

2.2.4.

Nội dung Hiến pháp Indonesia hiện hành .................................................44

2.2.5.


Thực tiễn thi hành Hiến pháp .....................................................................48

2.2.6.

Đánh giá và lý giải .......................................................................................54

2.3. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp Malaysia .....................................................57
2.3.1.

Khái quát chung...........................................................................................57


2.3.2.

Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Malaysia ...................................59

2.3.3.

Lịch sử Hiến pháp Malaysia .......................................................................61

2.3.4.

Nội dung Hiến pháp hiện hành Malaysia ..................................................69

2.3.5.

Thực tiễn thi hành .......................................................................................74

2.3.6.


Đánh giá và lý giải .......................................................................................79

2.4. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp Brunei .........................................................82
2.4.1.

Khái quát chung ..............................................................................................82

2.4.2.

Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Indonesia ..................................83

2.4.3.

Lịch sử Hiến pháp Brunei ...........................................................................84

2.4.4.

Nội dung Hiến pháp hiện hành...................................................................89

2.4.5.

Thực tiễn thi hành Hiến pháp .....................................................................93

2.4.6.

Đánh giá và lý giải .......................................................................................96

2.5. Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................98
Chương 3. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN, MỘT SỐ GỢI MỞ VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT
RA VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO KHU

VỰC ĐÔNG NAM Á ........................................................................................................99
3.1. Về xu hướng phát triển .........................................................................................99
3.1.1. Xu hướng phát triển chung .............................................................................99
3.1.2. Xu hướng chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một
mức độ nhất định .....................................................................................................100
3.1.3. Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng trong Hiến pháp và thực tế .........102
3.2. Nguyên nhân của sự thay đổi ..............................................................................103
3.2.1. Xu hướng chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một
mức độ nhất định .....................................................................................................103
3.2.2. Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng với trường hợp Indonesia và
Brunei .......................................................................................................................106
3.3. Những gợi mở cho quá trình cải cách Hiến pháp Việt Nam ............................108
3.4. Các vấn đề đặt ra .................................................................................................111
3.5. Tiểu kết chương 3 ................................................................................................114
KẾT LUẬN ......................................................................................................................115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................118
PHỤ LỤC.........................................................................................................................129


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

RIS:

Hiến pháp liên bang Indonesia giai đoạn 1949 – 1950

KMB:


Hội nghị bàn tròn lập hiến Indonesia diễn ra từ 23/8/1949 –
2/11/1949 tại Hà Lan

DPR

Hội đồng Đại diện Nhân dân còn được gọi là Hạ viện. Là một trong
2 cơ quan lập pháp của Indonesia


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiến pháp được biết đến là luật gốc, điều chỉnh những vấn đề quan trọng của một
quốc gia. Từ bộ máy nhà nước đến quyền con người, từ hệ thống tư pháp đến cơ chế bảo
hiến,… là những nội dung được hiến pháp quy định. Q trình “phơi thai” của một bản
hiến pháp, nội dung hiến pháp hay thực tiễn áp dụng hiến pháp luôn là điều hấp dẫn với
bất kỳ học giả hay nghiên cứu sinh nào nghiên cứu về pháp luật nói chung và lĩnh vực
hiến pháp nói riêng. Hiến pháp trong xã hội hiện đại có vị trí tối thượng. Nhưng đó chưa
phải là tất cả với các nhà nước lấy Hồi giáo làm tư tưởng chính thống hoặc chịu ảnh hưởng
sâu sắc giáo lý đạo Hồi. Bởi lẽ, Hồi giáo có một vị trí đặc biệt với đời sống xã hội quốc
gia, bao gồm cả nhà nước và pháp luật. Trong những xã hội ấy, Kinh Koran, Sunni ln
có vị trí đặc biệt, là nguồn luật quan trọng nhất. Tuy vậy, trước xu hướng phát triển của
thế giới hiện đại, mà hiến pháp luôn là hiện thân của một xã hội dân chủ, pháp quyền, văn
minh thì việc nghiên cứu vị trí của hiến pháp trong hệ thống pháp luật các quốc gia ảnh
hưởng Hồi giáo, mối quan hệ của hiến pháp với các nguồn luật khác, vai trị của hiến
pháp trong bối cảnh hiện đại,… ln có ý nghĩa lớn về mặt khoa học và nhận thức. Đồng
thời, nghiên cứu về lịch sử và xu hướng phát triển của hiến pháp các quốc gia Hồi giáo,
kinh nghiệm xử lý mối quan hệ giữa hiến pháp và nguồn luật Hồi giáo cũng sẽ gợi mở
một số vấn đề giữa bối cảnh cải cách pháp luật, nâng cao vị trí vai trị của hiến pháp trong
hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

Do đó, tác giả lựa chọn đề tài còn dựa trên năm (5) lý do sau:
Thứ nhất, diện mạo và “nhịp đập” một quốc gia được phản chiếu qua hiến pháp của
quốc gia đó. Để có thể hiểu và lý giải được các hoạt động, các sự kiện nảy sinh trên thực
tế tại các quốc gia Hồi giáo trong khu vực (Indonesia, Malaysia, Brunei), nghiên cứu hiến
pháp là một phương thức hữu hiệu nhằm thực hiện điều đó.
Thứ hai, mỗi một bản hiến pháp thuộc về một bối cảnh cụ thể. Trải qua những trầm
tích thời gian, hiến pháp các nước Hồi giáo tại khu vực Đơng Nam Á có chiều dài lịch sử
và những điểm riêng biệt so với Hiến pháp các quốc gia khác trên thế giới. Việc nghiên
cứu lịch sử và xu hướng phát triển tạo ra cái nhìn đa chiều và sâu sắc cho việc đánh giá


và xem xét hiến pháp. Từ đó, có thể đưa ra những luận giải cho các sự kiện pháp lý nảy
sinh trên thực tiễn.
Thứ ba, làn sóng dân chủ hóa thứ ba (1974–2000), bắt đầu từ Nam Âu, lan sang Mỹ
Latinh, châu Phi, rồi đến Đông Á, đã mang lại cho khu vực 7 nền dân chủ mới, đó là
Philippines, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Mông Cổ, Campuchia, và Indonesia [2].
Nghiên cứu hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á là dữ liệu cần
thiết nhằm định vị sự phát triển và vị trí của các quốc gia Hồi giáo trong khu vực trên bản
đồ dân chủ thế giới.
Thứ tư, Đông Nam Á là khu vực có nhiều điểm đặc biệt so với các khu vực khác trên
thế giới. Trải dọc chiều dài lịch sử, các đế chế và vương quốc đã đến và đi trên mảnh đất
nhiệt đới: Đế chế Sri Vijaya trong thế kỷ thứ VIII đến XII, đế quốc Khmer vào thế kỷ IX
đến XV, đế chế Majapahit trong thế kỷ XII đến XIV, đế quốc Malacca vào thế kỷ XV.
Ngay cả trong những năm cai trị thuộc địa, khu vực này đã bị chia cắt giữa Anh, Pháp,
Hà Lan, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha,...[2] Trong bối cảnh đó, hơi thở Hồi giáo đã lan
tỏa và bám rễ vào đời sống sinh hoạt cũng như tư tưởng của con người tại các quốc gia.
Nhìn nhận hiến pháp trong chiều dài lịch sử và độ rộng của sự thay đổi góp phần tạo nên
bức tranh toàn diện của các quốc gia trên thế giới, sự cựa mình của các quốc gia có đơng
đảo các tín đồ tơn sùng tơn giáo lớn thứ hai thế giới.
Thứ năm, “mối quan hệ giữa các thiết chế tôn giáo và nhà nước đi theo một dòng

chảy liên tục ở mỗi nước” [3], những hệ thống tôn giáo – nhà nước khác nhau ra đời sau
những cuộc “hôn phối” đầy lịch sử. “Tôn giáo – Hiến pháp”, “Nhà thờ - Nhà nước” trong
bối cảnh đó cũng đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Nghiên cứu về hiến pháp các quốc gia
Hồi giáo trong khu vực giúp người nghiên cứu nhận ra mối liên hệ giữa tôn giáo và pháp
luật nói chung, hiến pháp nói riêng.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu lịch sử và sự phát triển của hiến pháp các quốc
gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á sẽ đưa ra những minh chứng trong lịch sử lập
hiến của từng quốc gia Hồi giáo, từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, từ lý thuyết đến
thực tiễn, từ đánh giá đến dự báo về sự phát triển Hiến pháp các quốc gia Hồi giáo khu
vực Đông Nam Á.


2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về lịch sử và xu hướng hiến pháp của các quốc gia Hồi giáo trong khu
vực nhằm hai (2) mục đích chính sau:
Thứ nhất, nghiên cứu nhằm là rõ lịch sử ra đời, sự thay đổi và phát triển của hiến
pháp qua thời gian tại các quốc gia chịu ảnh hưởng của Hồi giáo. Đồng thời xác định vị
trí, vai trị của hiến pháp các quốc gia trong hệ thống pháp luật dưới sự ảnh hưởng mạnh
mẽ của Hồi giáo. Mối quan hệ giữa Hiến pháp và pháp luật Hồi giáo cũng là một trong
những mục đích nghiên cứu khơng thể bỏ qua.
Thứ hai, qua những vấn đề được làm rõ ở trên, nghiên cứu nhằm nhận diện xu hướng
phát triển hiến pháp ở các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á. Trên cơ sở đó,
phân tích cùng bối cảnh các quốc gia Hồi giáo trên thế giới để đánh giá được xu thế vận
động chung. Ngoài ra, gợi mở và đưa ra những khuyến nghị nâng cao vai trò, hiệu lực
của hiến pháp trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các bản hiến pháp của các quốc gia chịu ảnh
hưởng Hồi giáo trong khu vực, lịch sử lập hiến của từng quốc gia, các dấu vết của Hồi
giáo trong hiến pháp và đời sống xã hội trên thực tế, các yếu tố tác động đến việc hình

thành hiến pháp và Hồi giáo. Ngồi ra, nghiên cứu cũng tìm hiểu các cơng trình khoa học
đã có liên quan đến hiến pháp và Hồi giáo, mối quan hệ giữa hiến pháp và các nguồn tôn
giáo,… của các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á.
Phạm vi nghiên cứu, về không gian, là khu vực Đông Nam Á, với sự tập trung vào
ba trường hợp Indonesia, Malaysia, Brunei. Đây là ba quốc gia mà dấu vết Hồi giáo ảnh
hưởng rõ rệt nhất trong đời sống sinh hoạt pháp luật và xã hội. Vị trí của Hồi giáo được
khẳng định và nhấn mạnh ngay từ Lời nói đầu của hiến pháp và được điều chỉnh, ghi nhận
trong rất nhiều điều, nhiều chương của các bản hiến pháp từng thời kỳ. Về thời gian, đề
tài xem xét từ những bản hiến pháp đầu tiên được coi là viên gạch nền tảng cho sự phát
triển và thay đổi của hiến pháp về sau tại các quốc gia Hồi giáo trong khu vực.


3. Những điểm mới của nghiên cứu
Nghiên cứu có một số điểm mới sau:
Nghiên cứu đánh giá sự tác động của lịch sử, văn hóa và đặc biệt là tơn giáo tới lịch
sử và sự phát triển hiến pháp các quốc gia Hồi giáo Đông Nam Á. Đồng thời, đưa ra cái
nhìn tổng thể về tiến trình lập hiến và điểm mới của từng bản hiến pháp của Indonesia,
Malaysia, Brunei trong sự so sánh đánh giá lẫn nhau. Đây là các quốc gia có hiến pháp ít
được nghiên cứu đề cập đến trong các cơng trình khoa học đánh giá về sự thay đổi của
hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trên thế giới. Đồng thời, hầu hết các nghiên cứu về hiến
pháp ba quốc gia đều đang nghiên cứu ở mức độ riêng lẻ từng giai đoạn, từng quốc gia.
Với khóa luận, hiến pháp ba quốc gia sẽ được nghiên cứu đồng thời cùng nhau và xuyên
suốt trong quá trình lịch sử.
Khóa luận cũng đưa ra lý do và cơ sở cho sự thay đổi hiến pháp các quốc gia trong
từng giai đoạn, cũng như sự thực thi ở hiện tại với một số dẫn chứng thực tế tiêu biểu.
Nghiên cứu đồng thời chỉ ra khuynh hướng phát triển và quy luật của hiến pháp các quốc
gia Hồi giáo trong bối cảnh xã hội hiện nay với sự đan xen và ảnh hưởng của nhiều yếu
tố. Đồng thời, kết hợp với những thay đổi trong lịch sử để đẩy ra những bản sắc pháp lý
riêng, hệ tư tưởng pháp lý riêng của Indonesia, Malaysia và Brunei.
Cuối cùng, từ những ghi nhận trong hiến pháp và thực tiễn thi hành tại từng quốc gia,

cách xử lý mối quan hệ giữa tôn giáo và hiến pháp, kinh nghiệm xử lý của từng quốc gia
trong bối cảnh khu vực và thế giới,… khóa luận đưa ra những kiến giải và gợi mở bài học
cho Việt Nam trong quá trình cải cách hiến pháp nước ta nhằm phù hợp với thay đổi trong
nước và hội nhập quốc tế.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Nghiên cứu mang chứa ý nghĩa khoa học, bởi nghiên cứu là tài liệu cho việc nghiên
cứu về các quốc gia khu vực Đông Nam Á, nhìn nhận một phần pháp luật và nhà nước
các quốc gia ASEAN. Khơng chỉ vậy, nghiên cứu cịn đưa ra cái nhìn tổng quát về lịch
sử nhà nước và pháp luật, lịch sử lập hiến các nước,… Đây cũng là nghiên cứu có tính hệ
thống về các bản hiến pháp cũng như thay đổi hiến pháp các quốc gia dành cho những
người muốn nghiên cứu sâu về hiến pháp và Hồi giáo.


Ý nghĩa thực tiễn của khóa luận thể hiện đưa ra những bài học và kinh nghiệm xử lý
trên thực tiễn của các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á, đưa đến bài học giải
quyết mối quan hệ Hồi giáo và pháp luật tại các quốc gia Hồi giáo trên thế giới nói chung.
Khơng chỉ vậy, khóa luận còn đưa đến gợi mở liên quan đến cải cách hiến pháp tại Việt
Nam, về quyền tự do tôn giáo, các vấn đề Hồi giáo và tôn giáo được hiến định, việc giải
quyết mối quan hệ giữa luật pháp và các yếu tố khác chi phối trong xã hội để thực sự đem
lại một xã hội “thượng tôn pháp luật”.
5. Bố cục của khóa luận
Khóa luận bao gồm phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục và
ba (3) chương:
Chương 1: Hồi giáo và pháp luật ở Đông Nam Á: Lịch sử phát triển và những vấn đề
lý luận cơ bản
Chương 2: Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp của các quốc gia Hồi giáo trong khu
vực Đông Nam Á.
Chương 3: Xu hướng phát triển, những gợi mở và vấn đề đặt ra.



CHƯƠNG 1.
HỒI GIÁO VÀ PHÁP LUẬT Ở ĐÔNG NAM Á: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
Thuật ngữ “Hồi giáo” (Islam, Musulman) có nghĩa là “sự khuất phục”, sự “hiến dâng”
[19]. Những người theo Hồi giáo sống và thực hiện công việc dựa trên những lời răn dạy
của thánh Allah được nhà tiên tri Mohammed truyền lại. Những hạt giống đầu tiên về đạo
Hồi được nảy mầm từ thế kỷ VII, khi thương gia thành phố Mécca – Mohammed đi truyền
bá thông điệp đến từ đấng Allah tối cao. Ngày mà Mohammed rời gót chân khỏi Mécca
được coi là ngày bắt đầu lịch Hồi giáo – ngày hijra. Trong khi châu Âu cịn đang chìm
đắm trong đêm trường Trung cổ thì nền văn hố Hồi giáo đã phát triển mạnh mẽ [19].
Theo Th. Van Baaren, trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến XIV, ảnh hưởng của nền
văn minh Hồi giáo với thế giới lớn hơn bất kỳ một đế quốc nào khác trong lịch sử bấy giờ
[70, 137]. Đạo Hồi và luật Hồi giáo đã tồn tại hơn 1.300 năm và phát triển ảnh hưởng của
mình từ bán đảo Ả rập đến châu Phi, châu Á. Sự phát triển của Hồi giáo ngày càng mạnh
mẽ, màu sắc Hồi giáo len lỏi vào nếp suy nghĩ và lối sống của nhiều cộng đồng, nhiều
dân tộc khác nhau. Nghiên cứu đầu năm 2011 về Tương lai của dân số Islam giáo toàn
cầu của Trung tâm nghiên cứu PEW đã đưa ra nhận định rằng, số lượng tín đồ Islam giáo
sẽ tăng khoảng 35% trong vịng 20 năm tới và đạt khoảng 2,2 tỷ người vào năm 2030.
Trên bản đồ Hồi giáo, khu vực Đông Nam Á là một khu vực có sự du nhập và ảnh hưởng
của Hồi giáo rất mạnh mẽ, tiêu biểu là ba (3) quốc gia: Indonesia, Malaysia, Brunei.
1.1. Lịch sử hình thành, phát triển của Hồi giáo ở Đông Nam Á và những đặc điểm
cơ bản
1.1.1. Khái quát về lịch sử các quốc gia khu vực Đông Nam Á
Đông Nam Á là khu vực nằm giữa hai đại dương lớn là Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương. Khu vực này rộng 4.494.047 km² (chiếm 10.5% diện tích Châu Á và 3% diện tích
đất trên Trái Đất). Phần lớn khu vực nằm ở bán cầu Bắc và nằm một chút tại bán cầu
Nam. Nó bao gồm 11 quốc gia được chia thành 2 nhóm: Nhóm đất liền (Bán đảo Trung Ấn): Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và phía tây Malaysia; Nhóm hải


đảo (Quần đảo Mã Lai): Indonesia, phía đơng Malaysia, Singapore, Philipines, Đông

Timor, Brunei [7].
Hầu hết các quốc gia ở khu vực Đơng Nam Á đều có những biến động và giai đoạn
thăng trầm phức tạp. Lịch sử khu vực Đông Nam Á có thể chia làm bốn (4) giai đoạn như
sau:
Giai đoạn 1: Từ thời nguyên thủy đến xã hội có giai cấp và nhà nước. Trong thời kỳ
đồ đá, kỹ thuật chế tác công cụ Đông Nam Á, vừa mang đặc trưng của trình độ kỹ thuật
đá cũ trên thế giới, vừa có biểu hiện thể hiện tính trội của khu vực: văn hóa đá cuội (Pebble
culture) và những cơng cụ chặt có dáng thơ sơ (Chopper và Chopping-tool) [13].
Giai đoạn 2: Giai đoạn xác lập và phát triển thịnh đạt của các vương quốc Đông
Nam Á. Sau sự tan rã của Vương quốc Phù Nam (thế kỷ VII), các quốc gia sơ kỳ như
Srivijaya, Kalinga ở Indonesia, quốc gia của người Khmer, người Môn, người Mianma,
người Thái,… bắt đầu xuất hiện cùng với những kỳ tích văn hóa, điển hình như tổng thể
kiến trúc Bơrơbuađua (Borobudur) ở Java [13]. Trong khi Ấn Độ thường xuyên có những
biến động bên trong, Trung Quốc rơi vào sự khủng hoảng, suy thối liên mien hay Châu
Âu chìm trong “đêm trường trung cổ” thì ở giai đoạn này, Đơng Nam Á đã đạt đỉnh cao
phát triển.
Giai đoạn 3: Giai đoạn suy thoái của các quốc gia phong kiến và phong trào đấu
tranh chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Sau sự phát triển huy
hoàng, biểu đồ của khu vực Đơng Nam Á có sự suy thối. Từ thế kỷ XVI trở đi, các quốc
gia Đông Nam Á đã khơng cịn đủ sức thực hiện mục tiêu phát triển và tự bảo vệ mình
[13]. Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều phải chịu ách đô hộ thực dân trong một thời
gian dài. Việt Nam, Lào, Campuchia, Indonesia và Philippines đều đã từng là thuộc địa
của các nước thuộc lục địa Châu Âu là Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha [24]. Còn Malaysia,
Singapore, Brunei, Myanmar, giống như nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ khác trên thế
giới, gắn liền với q trình thuộc địa hố của Anh hoặc sự ảnh hưởng của Mỹ [24].
Giai đoạn 4: Giai đoạn từ năm 1945 đến nay. Sau những nỗ lực bền bỉ và cuộc đấu
tranh quả cảm, phần lớn các quốc gia Đông Nam Á khôi phục lại được sự độc lập và tự
chủ. Đây cũng là thời điểm nhiều bản hiến pháp trong khu vực được ra đời. Các quốc gia



Đông Nam Á vực dậy từ trong tro tàn chiến tranh và từng bước gây dựng lại đất nước,
phát triển kinh tế. Cho đến nay, Đơng Nam Á có sự khởi sắc nhất định và trở thành một
trong những khu vực kinh tế, dân chủ đáng chú ý trên thế giới.
Có thể thấy, các quốc gia Đơng Nam Á đều chịu sự biến động lịch sử và có tiến trình
phát triển với sự ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa trên thế giới. Điều đó cũng là một
trong những lý do khiến Đông Nam Á được coi là “ngã tư đường thế giới” ở cả mặt địa
lý và văn hóa, tôn giáo, pháp luật.
1.1.2. Ảnh hưởng của Hồi giáo tại khu vực Đơng Nam Á
Thứ nhất, về q trình lịch sử Hồi giáo du nhập vào khu vực Đông Nam Á
Tuy là một tôn giáo lớn và phổ biến trên thế giới nhưng Hồi giáo ảnh hướng tới khu
vực Đông Nam Á khá muộn. Cho đến nay vẫn còn nhiều điều tranh cãi về thời điểm chính
xác đạo Hồi du nhập vào khu vực Đông Nam Á. Ý kiến nhận định Hồi giáo du nhập vào
đây thông qua các thương gia Ả rập và Ấn Độ vào khoảng thế kỉ VII-XIII [13] là ý kiến
nhận được nhiều sự ủng hộ nhất. Do sự du nhập muộn nên "lưỡi gươm tàn bạo của Hồi
giáo" khơng cịn thoả sức hồnh hành để mở rộng lãnh thổ và áp đặt tôn giáo cho các cư
dân các vùng đất bị người Ả rập Hồi giáo chiếm đóng nữa” [14]. Đó cũng là một phần lý
giải cho việc Hồi giáo tại Đơng Nam Á có phần ơn hịa hơn các khu vực khác. Đạo Hồi
bén rễ tại khu vực Đông Nam Á thông qua con đường buôn bán đường thủy nối Tây Ấn
Độ và Đông Á. Dần dần, lan tỏa đến Malaysia, Indonesia, sau đó qua con đường Malaysia
lan ra các đảo miền Nam Philippines. Thông qua những lần giao thương, buôn bán và trao
đổi với thương nhân các quốc gia khác, “một cơn gió mới thổi vào vùng Đông Nam Á
hải đảo làm chao đảo kỉ nguyên Ấn Độ hóa của cư dân nơi đây. Cơn gió mới đó chính là
Hồi giáo do những thương nhân Hồi giáo (Ả rập, Ấn Độ, Trung Quốc, Ba Tư) mang đến
khi những hoạt động thương mại ngày càng gia tăng với Đông Nam Á hải đảo” [1].
Nơi đặt chân đầu tiên của Hồi giáo là vùng Bắc Sumatơ của người Ache. Do con
đường ảnh hưởng chính là thông qua buôn bán, giao thương nên điểm chung là những nơi
phát triển giao lưu buôn bán ở khu vực Đơng Nam Á là những nơi có sự xâm nhập đầu
tiên và phát triển lớn mạnh về Hồi giáo [16]. Những Hồi quốc (Sultanate) đầu tiên ở Đông
Nam Á được thành lập vào thế kỷ XIII. Teranate (1257), là một trong những Hồi quốc



lâu đời nhất ở Indonesia, được thành lập bởi Baab Mashur Malamo (1257 - 1277).
Samudera Pasai (1267), Hồi quốc nằm ở phía Bắc đảo Sumatra đã chuyển sang Hồi giáo
dưới thời trị vì của Malik ul Salih [17]. Sự có mặt của Hồi giáo khá thuận lợi, khơng có
sự ghi nhận nào về chiến tranh tôn giáo lớn bùng nổ ngồi những cuộc đụng độ nhỏ ở
Philippines. Có lẽ vì vậy mà Hồi giáo rất nhanh hịa mình và sống cuộc sống của chính
nó tại mảnh đất Đơng Nam Á hải đảo với ba quốc gia tiêu biểu là Malaysia, Indonesia và
Brunei. Khi sang đến Đông Nam Á lục địa, Phật giáo và nền văn hóa Phật giáo là một rào
cản lớn với đạo Hồi. Vì thế, đạo Hồi ở Myanmar, Thái Lan, Việt Nam hay Campuchia
không mạnh mẽ và bền sâu như ở khu vực Đông Nam hải đảo mà thu lại thành những
cộng đồng dân cư thiểu số. Đến thế kỉ XV, XVI, Hồi giáo lan tỏa một cách mạnh mẽ và
sâu rộng ở hầu hết Đông Nam Á hải đảo. Nhiều Hồi quốc hình thành và trở thành những
trung tâm Hồi giáo và thương mại quan trọng trong khu vực. Sự hình thành các Hồi quốc
ở Đơng Nam Á hải đảo diễn ra theo “hiệu ứng dây chuyền”. Thế kỷ XV, nhà nước Hồi
giáo đầu tiên được thành lập trên đất liền Malaysia là Malacca (1400), Cirebon (1445),
Demak (1475)…[1] đây là thời kì mà hoạt động thương mại của những thương nhân Hồi
giáo vẫn đang diễn ra nhộn nhịp với các trung tâm thương mại trọng yếu ở Đơng Nam Á
hải đảo.
Như vậy, có thể thấy q trình du nhập Hồi giáo tới các quốc gia Đơng Nam Á thông
qua đường thủy gắn liền với sự giao thương buôn bán. Cùng với sự du nhập của Hồi giáo,
diện mạo đời sống khu vực Đông Nam Á đã có sự thay đổi đáng kể. Cho đến nay, dù có
nhiều biến động chính trị và đời sống xã hội thay đổi, song, tầm ảnh hưởng và dấu ấn Hồi
giáo vẫn hiện hữu rất rõ nét ở các quốc gia Đông Nam Á, tiêu biểu là ba quốc gia:
Indonesia, Malaysia, Brunei.
Thứ hai, về nguyên nhân Hồi giáo ảnh hưởng mạnh mẽ ở khu vực
Hồi giáo là tôn giáo đến sau ở mảnh đất Đơng Nam Á. Trước khi làn gió Hồi giáo
thổi vào, Đông Nam Á đang tồn tại sự ảnh hưởng của đạo Thiên Chúa và Phật giáo. Vậy
nguyên nhân nào mà ảnh hưởng Hồi giáo có thể lan tỏa nhanh chóng và đâm sâu, bám
chắc trong tư tưởng và đời sống cộng đồng người dân khu vực đến vậy?



Đầu tiên, thời kỳ Hồi giáo hóa Đơng Nam Á trùng với thời kỳ khủng hoảng các vương
quốc cổ đại (Ví dụ ở Chămpa lục địa). Sự suy yếu của quốc gia Ấn Độ - Phật giáo
Majapahit hùng mạnh khiến Hồi giáo dễ dàng chen chân vào đời sống của người dân
trong khu vực. “Nếu như trước đây, Hồi giáo ra đời góp phần thống nhất các bộ lạc trên
bán đảo Ả rập thành một đế quốc Hồi giáo vững mạnh, thì lúc này Hồi giáo trở thành
ngọn cờ của các tiểu quốc trên quần đảo Indonesia đấu tranh giành độc lập, phát triển
kinh tế” [19]. Hồi giáo trở thành vũ khí sắc bén tạo dựng cộng đồng đồn kết, thực hiện
ý đồ mở rộng lãnh thổ và truyền bá văn hóa ra ngồi lãnh thổ của các tiểu quốc ở khu vực
Đơng Nam Á.
Tiếp đó, sự phát triển của kinh tế, giao thương buôn bán ở các quốc gia hải đảo cũng
mở cửa chào đón các giáo lý đạo Hồi. Sự bình đẳng, phóng khống và đơn giản trong lễ
nghi Hồi giáo phù hợp với tầng lớp thương nhân được giới quý tộc tại Indonesia và
Malaysia rất chào đón.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, những cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị,
kinh tế giữa người bản địa cùng thương nhân định cư ở khu vực diễn ra khá phổ biến.
Con đường cải giáo phù hợp với sự phát triển tự nhiên và tâm lý của người dân các quốc
gia Hồi giáo trong khu vực [20]. Ví dụ như vua Pasai đã cải sang Hồi giáo khi cưới một
công chúa Hồi giáo lúc ông đã 72 tuổi [21].
Một trong những điểm nổi bật của các quốc gia khu vực Đơng Nam Á nói chung và
các quốc gia Hồi giáo nói riêng là sự mềm dẻo, dễ thích nghi với những sự du nhập từ
bên ngoài. Và Hồi giáo qua một chặng đường dài cùng thời gian lâu để từ Trung Đơng
đến cửa ngõ Đơng Nam Á, tính khắc nghiệt đã giảm bớt, sự linh hoạt được nâng cao hơn.
Hồi giáo dễ chung sống với các tôn giáo có mặt sẵn có ở Đơng Nam Á. Kết hợp với các
truyền thống địa phương, vương quyền càng giúp Hồi giáo nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí
của mình. Nếu nhà vua Indonesia theo đạo Hồi, thì theo quan điểm lịng trung thành, rất
cả dân chúng cũng cải đạo theo – đây là một trong những minh chứng tiêu biểu rằng chế
độ vương quyền và truyền thống, tập tục vốn có ở các quốc gia Hồi giáo trong khu vực
tạo đà cho sự phát triển Hồi giáo.



Không chỉ vậy, Đông Nam Á là xứ sở hiếm hoi mà Hồi giáo không cần dùng đến bạo
lực để giành lấy sự ảnh hưởng. Vốn mang tồn tại màu sắc của chủ nghĩa thần bí có sẵn
trong truyền thơng văn hóa của các cư dân vùng bán đảo Ả rập, Hồi giáo vì thế đi lại rất
tự nhiên trong cuộc sống tâm linh và thần bí phương Đơng [22].
Trong thế kỉ XV, Malacca được xem là điểm dừng chân, nơi án ngữ tuyến đường
chính trong giao thương hàng hóa từ phương Tây đến Đơng Nam Á [1]. Để có thể giao
tiếp và buôn bán với nhau, những thương nhân đến từ những vùng đất khác nhau cần một
ngôn ngữ chung. Ngôn ngữ duy nhất đáp ứng được yêu cầu lúc bấy giờ chính là tiếng
Melayu của người Malaya ở Malacca. Việc sử dụng rộng rãi và chung một ngôn ngữ cũng
khiến Hồi giáo phát triển mạnh mẽ hơn. Hầu hết người dân ở Malacca đều theo Hồi giáo.
Bên cạnh việc khuyến khích làm giàu, quan niệm về con người bình đẳng với nhau
trước thánh Allah của Hồi giáo khiến người dân khu vực các quốc gia Hồi giáo Đông
Nam Á nhìn nhận tơn giáo này hồn tồn khác so với sự phân chia đẳng cấp trong xã hội
vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc Hinđu giáo. Cảm thấy bản thân được tơn trọng, điều mà chưa
bao giờ cảm nhận có lẽ là một trong những lý do khiến người dân khơng chống đối mà
đón nhận Hồi giáo trong sự hân hoan [1].
1.1.3. Khái quát những đặc điểm cơ bản của Hồi giáo tại Đông Nam Á
Với những đặc điểm riêng, Hồi giáo tại các nước trong Đông Nam Á vừa mang đặc
điểm chung của Hồi giáo truyền thống, vừa mang đặc điểm riêng.
Thứ nhất, quá trình Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á diễn ra muộn hơn so với các
khu vực khác trên thế giới nhưng lại mạnh mẽ và có sức lan tỏa, đặc biệt là trong giai
đoạn XV – XVI. Để có được q trình Hồi giáo hóa như vậy, Hồi giáo đã từng bước thâm
nhập và đời sống con người. Sau cả một quá trình giao thương và chuẩn bị trước đó, kết
quả là Hồi giáo đã nhẹ nhàng thâm nhập vào đời sống xã hội và pháp luật các nước Đông
Nam Á.
Thứ hai, trong quá trình hịa nhập và truyền bá ở khu vực Đơng Nam Á, Hồi giáo
cũng gặp những rào cản không thể tránh khỏi. Nhưng khác với khu vực Bắc Phi hay bán
đảo Ibrique (Bồ Đào Nha, Tây Ba Nha), Hồi giáo không cưỡng bức tôn giáo bằng bạo



lực, mà thâm nhập rất tự nhiên, với phương thức hịa bình, “khơng súng ống, giáo mác”
tại khu vực Đơng Nam Á.
Thứ ba, nếu như Thiên Chúa lan tỏa ánh sáng giáo lý theo chiều “từ dưới lên” thì Hồi
giáo khu vực Đông Nam Á truyền bá đức tin theo chiều “từ trên xuống” [1]. Do vậy,
người đứng đầu chính quyền thường là người chấp nhận thánh Allah. Những người khác
cũng cải đạo theo. Một phần nguyên nhân xuất phát từ nguồn gốc sâu xa của Hồi giáo
nguyên thủy trong ý tưởng của Mohammed về việc xây dựng một nhà nước Hồi giáo do
mình đứng đầu. Hồi giáo ăn sâu vào chính quyền vừa là đặc điểm nổi bật vừa là nguyên
nhân lý giải tại sao Hồi giáo thường có ảnh hưởng mạnh mẽ tại các chính thể quân chủ.
Ví dụ tại Brunei, tôn giáo cũng ăn sâu trong hệ thống nhà nước. Điều 3 (3) của Hiến pháp
Brunei Brunei năm 1959 sắp xếp để Hội đồng tôn giáo hoạt động với tư cách là Cố vấn
tôn giáo cho Quốc vương. Sự độc quyền về mặt xác định quyền lợi này khơng có gì đáng
ngạc nhiên khi Brunei thực sự là một chế độ quân chủ tuyệt đối, điều đó có nghĩa là các
quyết định liên quan đến chính trị, tư pháp và hành pháp nào đều thuộc quyền quyết định
của Quốc vương. Theo điều 38 của Hội đồng tôn giáo và Đạo luật Tòa án Kadis (Brunei),
vai trò của Hội đồng tôn giáo Hồi giáo là: “Thay mặt và dưới quyền của Hoàng thượng
với tư cách là người đứng đầu Tôn giáo Brunei Darussalam, giúp đỡ và tư vấn cho Quốc
vương về tất cả các vấn đề liên quan đến tôn giáo của Brunei Darussalam…” [26].
Thứ tư, Hồi giáo của những quốc gia khác nhau lại có những điểm riêng, nhưng điểm
chung của các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo tại Đông Nam Á là Hồi giáo đã có nhiều
điểm khác biệt với Hồi giáo chính thống. Với việc pha trộn tín ngưỡng, sự đa dạng sắc
tộc và thơng qua “máy lọc” đầy tính nhân bản của nền văn minh bản địa khi tiếp nhận
Hồi giáo [27]. Đồng thời sau một quá trình dài di chuyển và thay đổi cho phù hợp với con
người và lối sống khu vực, Hồi giáo ở Đông Nam Á đã bay bớt màu sắc khắc nghiệt và
dã man. Hồi giáo Đông Nam Á có sự ơn hịa, mềm dẻo hơn.
Thứ năm, mặc dù xâm nhập và chung sống khá tốt với các tơn giáo cùng tín ngưỡng
bản địa, xong Hồi giáo vẫn vấp phải sự thời ơ, lạnh nhạt đến từ một số quốc gia trong
Đơng Nam Á. Bali là ví dụ điển hình về việc đối đầu với sự phát triển của Hồi giáo trong
thế kỉ XVI bằng sự lớn mạnh về chính trị và sự phát triển mạnh mẽ của Bà la môn giáo



[1]. Việc ảnh hưởng của Hồi giáo cũng bị chững lại do q trình thuộc địa cùng các chính
sách thực dân nhằm làm xói mịn pháp luật Hồi giáo, đặt ách thống trị thực dân dễ dàng
hơn [29].
Thứ sáu, quá trình Hồi giáo hóa vẫn đang tiếp diễn ở các quốc gia Đông Nam Á hải
đảo khi tại nhiều cộng đồng, tín ngưỡng bản địa vẫn chiếm địa vị thống trị. Hệ quả của
quá trình là sự ra đời của các Hồi quốc ở vùng bán đảo nay thuộc Indonesia và Malaysia.
Với số lượng tín đồ Hồi giáo là 87,2% dân số theo Hồi giáo [30], dù khơng thừa nhận
chính thức nhưng Indonesia là quốc gia có số lượng tín đồ Hồi giáo đông nhất trên thế
giới. Malaysia và Brunei khẳng định rõ ràng Hồi giáo là quốc giáo. Sự xuất hiện của Hồi
giáo vẽ thêm màu sắc cho bức tranh tôn giáo, bản sắc vốn đa dạng của Đông Nam Á.
Thứ bảy, Hồi giáo có xu hướng gia tăng ảnh hưởng của mình tại các quốc gia. Tuy
nhiên, khác với những quốc gia Hồi giáo ở Trung cận Đông, Hồi giáo mặc dù có khả năng
chi phối, ảnh hưởng tực tiếp đến hồ bình và ồn định của khu vực nhưng sự chi phối của
Hồi giáo ở Đông Nam Á vẫn mềm mại và ít căng thẳng hơn khi đóng vai trị quốc đạo và
hệ tư tưởng điều hành đất nước tại một số quốc gia. Sức cải biến, sự linh hoạt tác động
ngược trở lại để hoà nhập văn minh bên ngồi vào mình của nền văn hố bản địa Đơng
Nam Á là lý do giải thích cho điều đó [31].
1.1.4. Đặc điểm cơ bản của pháp luật Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á
Với sự mở rộng của Hồi giáo, luật Hồi giáo (Moslem law hay Islamic law) trong tiếng
Ảrập gọi là Shari'ah (con đường đúng đắn) bao gồm một hệ thống các quy định tôn giáo
[55, 174] ngày càng có ảnh hưởng tại các quốc gia theo Hồi giáo trong khu vực Đông
Nam Á. Luật Shari’ah dựa trên triết lý đạo Hồi nhằm lập ra khuôn vàng thước ngọc cho
các hành vi con người, hoạt động của cơ quan, tổ chức, những điều diễn ra xung quanh
đời sống cá nhân: ăn kiêng, nuôi dạy con cái, nguyên tắc tu hành, bố thí cho người
nghèo,… Ở phạm vi rộng hơn, nó cũng được dùng để giải quyết tranh chấp, xung đột
quốc tế và vấn đề chiến tranh [5]. Giống như các dòng họ pháp luật khác trên thế giới,
pháp luật Hồi giáo cũng có những đặc điểm riêng và khi du nhập sang Đông Nam Á, pháp
luật Hồi giáo cũng có những đặc điểm riêng biệt như vậy.



Thứ nhất, về nguồn pháp luật. Hệ thống pháp luật Hồi giáo thừa nhận bốn (4) nguồn
luật, cụ thể:
(1) Kinh Coran: là cuốn thánh kinh với 6.237 câu thơ chia thành 30 tiết, 114 chương.
Các chương dài ngắn khác nhau, chương dài nhất có 286 tiết, ngắn nhất là 3 tiết.
Chiếm 2/3 kinh thánh là chương Mecca (do ban hành ở Mecca) và chiếm 1/3 kinh
thánh là chương Madina (do ban hành ở Madina). Nội dung của kinh Coran bao
gồm các nguyên tắc pháp luật, các quy định điều chỉnh các quan hệ dân sự và hơn
nhân gia đình, các quan hệ hình sự, các quan hệ tố tụng, thương mại, tài chính và
quan hệ quốc tế [19].
(2) Sunna: Các phong tục tập quán truyền thống.
(3) Ijam: Sự thỏa thuận, nhất trí của người có thẩm quyền.
(4) Quiyas: Suy đốn tương tự pháp luật.
Pháp luật Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á sử dụng cả bốn (4) nguồn trên, song trên
thực tế, Coran và Sunna là hai nguồn phổ biến hơn cả. So với Coran và Sunna, Ijam và
Quiyas được đánh giá là hai (2) nguồn phụ [51, 92]. Việc áp dụng các điều khoản trong
Coran và Sunna ở khu vực Đơng Nam Á có phần bớt khắc nghiệt hơn so với các khu vực
khác trên thế giới. Và việc áp dụng các nguồn pháp luật Hồi giáo dần thu hẹp trong phạm
vi hơn nhân, gia đình và thừa kế [84].
Thứ hai, về hình thức pháp luật, pháp luật Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á vừa là
các điều khoản thành văn được Nhà nước ghi nhận trong Hiến pháp và các bản Kinh thánh
được tòa án Shari’ah sử dụng. Trong thực tiễn tại Malaysia hay Indonesia và Brunei, ranh
giới phân biệt giữa Kinh Thánh của Hồi giáo và pháp luật của nhà nước thường không rõ
ràng. Việc xâm hại đến một “câu thơ” trong Kinh Thánh cũng đồng thời với việc vi phạm
quy định của nhà nước: vi phạm pháp luật [37] (biểu hiện của "Tôn giáo pháp"). Việc đưa
ra phán quyết và lập luận của cơ quan tư pháp cũng là nguồn pháp luật quan trọng để
đánh giá việc thực thi Hiến pháp và luật Hồi giáo trên thực tiễn. Điều này được đánh giá
là việc chuyển hóa những quan điểm, ý kiến pháp bởi các học giả pháp lý đạo Hồi vào
văn bản pháp luật [8, 57].



Thứ ba, vai trò lập pháp của cơ quan tư pháp. Những tín đồ trung thành với đạo
Hồi ln sùng bái luật Hồi giáo trong sự bất diệt và không bao giờ đổi thay. Bởi vậy, ở
một số “thánh đường Hồi giáo”, trong bộ máy Nhà nước chỉ có nhánh hành pháp và tư
pháp mà khơng có lập pháp. Quan niệm thánh Allah mới có quyền làm ra luật, dẫn đến
tư duy Nhà nước chỉ là sự hỗ trợ, thứ cấp bên cạnh giáo lý đạo Hồi. Các điều luật do Nhà
nước ban hành chủ yếu nhằm “điền vào chỗ trống” trong luật Hồi giáo. Tuy vậy, ở
Malaysia, Indonesia và Brunei, đều có cơ quan lập pháp để thực hiện quá trình thành lập
Hiến pháp và pháp luật. Dù rằng theo dịng thời gian, Brunei có sự bất ổn, thậm chí có
thời gian cơ quan lập pháp đã bị xóa bỏ theo lệnh của Sultan, nhưng không thể phủ nhận
trong quá khứ và hiện tại, các quốc gia Hồi giáo ở Đơng Nam Á đều có cơ quan lập pháp
riêng biệt.
Thứ tư, trong mối tương quan giữa luật nội dung và luật hình thức, pháp luật Hồi
giáo khu vực Đơng Nam Á cũng chịu chi phối chung của luật Hồi giáo trên thế giới. Rất
khó để phân biệt giữa quy định pháp luật và các quy định về tôn giáo vì người Hồi giáo
cho rằng pháp luật và tơn giáo là một [4, 134]. Tại Đông Nam Á, sự phân biệt giữa luật
Hồi giáo và luật do Nhà nước ban hành khá rõ ràng trong Hiến pháp. Trên thực tế, việc
quy định và ghi nhận luật Hồi giáo thường được chia riêng thành một chương, do đó, có
thể thấy Nhà nước cũng có ý thức trong việc phân biệt luật Hồi giáo và luật do Nhà nước
ban hành.
Thứ năm, dù không phân chia rõ ràng các vấn đề nào thuộc luật công, các vấn đề
nào thuộc luật tư, song pháp luật Hồi giáo ở Đông Nam Á điều chỉnh gần như toàn bộ các
vấn đề trong đời sống xã hội của người theo Hồi giáo trong khu vực. Chỉ khác ở chỗ điều
khoản nào còn được sử dụng, điều khoản nào khơng cịn được sử dụng. Việc nâng từ tơn
giáo và đạo đức thành quy phạm đã khiến pháp luật Hồi giáo Đơng Nam Á mang màu
sắc chính trị thần quyền đặc trưng bao trùm các vấn đề mang tính chất cơng – tư. Đạo Hồi
cịn can thiệp cả những vấn đề mà pháp luật không quy định: giờ cầu nguyện, giờ đánh
răng, ngày phải đi lễ, cách ăn mặc,…[55, 174].
Thứ sáu, về mức độ và trình độ pháp điển hóa. Cùng với xu thế hội nhập và sự linh

hoạt chuyển mình theo thế giới, pháp luật Hồi giáo Đơng Nam Á đã có những điểm mới


trong việc pháp điển hóa. Các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo tại Đơng Nam Á có xu hướng
phương Tây hóa pháp luật, tiếp nhận những điều tiên tiến trên thế giới: xây dựng bộ máy
nhà nước theo nguyên tắc phân quyền (được ghi nhận trong Hiến pháp Malaysia và
Indonesia), tổ chức hệ thống tịa án thường phi tơn giáo bên cạnh tịa Shari’ah và xét xử
các tội hình sự, tội nghiêm trọng theo quy định của hiến pháp,… Đồng thời, dần tiếp cận
quyền con người và sự bình đẳng trong các giới của xã hội. Điển hình như việc tăng số
lượng các điều khoản và đẩy chương Quyền con người lên chương II của Hiến pháp
Malaysia
1.2. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật Đông Nam Á
Để nghiên cứu và tìm hiểu về hiến pháp một quốc gia hay đặc điểm chung hiến pháp
của một khu vực, người nghiên cứu không thể bỏ qua những đặc điểm cơ bản của pháp
luật Đông Nam Á. Việc “bắt mạch” những đặc điểm chung cho pháp luật Đông Nam Á
vừa là cơ sở vừa có thể lý giải nguyên nhân của các điều khoản trong hiến pháp, về những
điều trong nội dung của hiến pháp. Giống như bất kỳ khu vực nào trên thế giới, pháp luật
Đơng Nam Á có những đặc điểm không trộn lẫn.
Đầu tiên, hệ thống pháp luật Đông Nam Á có nguồn luật đa dạng và phong phú.
Từ nguồn thành văn và bất thành văn, có thể kể đến như: các văn bản quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành, án lệ của tịa án, lẽ cơng bằng, tập quán pháp, các học thuyết pháp
lý,… Không chỉ vậy pháp luật Đơng Nam Á cịn chịu ảnh hưởng từ các dòng họ pháp luật
lớn trên thế giới: dòng họ pháp luật Common law, Civil law, Hồi giáo hay dòng họ pháp
luật Xã hội chủ nghĩa,… Với dòng họ Civil law được tiếp nhận ở nhiều nước trong khu
vực chủ yếu gắn liền với quá trình xâm chiếm thuộc địa của các nước châu Âu lục địa
Trừ Thái Lan, luật chịu ảnh hưởng của dịng họ Civil law có thể kể đến là Việt Nam, Lào,
Campuchia, Indonesia và Philippines đều đã từng là thuộc địa của các nước thuộc lục địa
châu Âu là Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha [24]. Giống như nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ
khác trên thế giới, sự ảnh hưởng của Common law ở các quốc gia Đông Nam Á chủ yếu
gắn liền với q trình thuộc địa hố của Anh hoặc sự ảnh hưởng của Mỹ. Có thể kể đến

như: Malaysia, Singapore, Brunei, Myanmar, Philippines [24]. Dòng họ pháp luật XHCN
cũng hiện diện trong các nước khu vực Đông Nam Á ngay sau Đại chiến thế giới lần thứ


II. Ngoài Việt Nam và Lào, hai hệ thống pháp luật khác là Myanmar và Indonesia cũng
đã có những nhân tố nhất định của dòng họ pháp luật XHCN trong lịch sử phát triển của
mình [24]. Và như những phân tích ở trên, có thể thấy một trong những dịng họ pháp luật
ảnh hưởng sâu rộng ở khu vực Đông Nam Á là dòng họ pháp luật Hồi giáo với những đại
diện tiêu biểu là Indonesia Malaysia, Brunei [24]. Từng có nhận định cho rằng: “hầu hết
các hệ thống pháp luật, thậm chí, Thái Lan, Philippines, Singapore - những nước khơng
có đa số người Hồi giáo, vẫn coi luật Hồi giáo như là hệ thống pháp luật tách biệt” [78,
177].
Như vậy, có thể nhận thấy, pháp luật các quốc gia khu vực Đơng Nam Á có nguồn
luật vơ cùng phong phú, đa dạng, có cả nguồn luật nội sinh và ngoại sinh. Tuy vậy, việc
áp dụng thực tiễn các nguồn luật trong từng quốc gia với các mức độ lại khác nhau. Ví
dụ, ở Singapore, thẩm phán thường hay dẫn chiếu đến án lệ của Anh quốc trong khi xét
xử. Còn với Malaysia, nguồn luật Hồi giáo, luật thành văn và án lệ lại nổi trội hơn. Thái
Lan lại đề cao luật thành văn và án lệ.
Mặt khác, về quan điểm tư tưởng pháp lý, hệ thống pháp luật khu vực Đơng Nam Á
cũng có nhiều điểm thú vị. Quan niệm pháp luật khu vực Đông Nam Á chịu ảnh hưởng
bởi các truyền thống pháp luật: truyền thống pháp luật Common law, Civil law, Hồi giáo,
Trung Quốc, Ấn Độ,… Do vị trí địa lý rất thuận lời, tiếp giáp với nhiều nền văn minh lớn
trên thế giới, là nơi giao thoa của các hệ thống pháp luật khác nhau dẫn đến sự ảnh hưởng
đan xen lên pháp luật khu vực.
Đồng thời, quan niệm pháp luật khu vực Đông Nam Á có điểm khác biệt khá rõ rệt
với các quốc gia phương Tây khi vẫn cịn khơng ít quốc gia quan niệm rằng pháp luật là
một bộ phận của Nhà nước. Điều đó dẫn đến việc thực thi pháp luật trên thực tế, cụ thể là
hiến pháp có nhiều điểm bất cập so với lý thuyết.
Không những vậy, nhận thức về pháp luật, nhân quyền, pháp quyền khu vực Đông
Nam Á còn phát triển chậm. Sự kéo dài của chế độ vương quyền phong kiến và chế độ

chính trị hiện tại, đã khiến con người Đông Nam Á trở nên xa lạ với sự bình đẳng và đa
dạng. Tiếp cận và đảm bảo nhân quyền vẫn là vấn đề khó khăn và nhạy cảm với các quốc


gia trong khu vực. Do vậy, so với các khu vực khác trên thế giới, pháp luật về quyền con
người ở Đông Nam Á chưa thực sự đảm bảo.
Cuối cùng, pháp luật khu vực Đơng Nam Á cịn có sự ảnh hưởng đan xen của các
yếu tố khác nhau. Hiến pháp có sự ảnh hưởng của các quốc gia bên ngồi, chủ yếu là do
q trình thực dân đã nói trên. So với các bản hiến pháp mẫu mực trên thế giới (Hiến pháp
Mỹ 1787, Hiến pháp Anh 1890), hiến pháp khu vực Đông Nam Á ra đời muộn hơn và
chịu nhiều biến động do hoàn cảnh lịch sử. Ra đời năm 1945 và trải qua ít nhất 7 lần “đại
trùng tu” để có diện mạo của hiến pháp hiện hành chính là một hành trình dài của Hiến
pháp Indonesia minh chứng cho sự “sinh sau đẻ muộn” của hiến pháp trong khu vực Đông
Nam Á. Không chỉ vậy, văn hóa pháp luật khu vực cịn mềm dẻo, dễ tiếp nhận các yếu tố
khác nhau, dễ chung sống với các tư tưởng pháp luật ngoại lai,…
1.3. Các yếu tố có thể tác động đến pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia
Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á
Pháp luật khơng tồn tại một mình đơn lẻ mà luôn chịu sự tác động đến từ các yếu tố
khác. Có thể kể đến như: yếu tố vị trí, địa lý; yếu tố con người; yếu tố thời đại; yếu tố lịch
sử,…
Thứ nhất, các quốc gia Hồi giáo khu vực Đông Nam Á nằm trong khu vực rất thuận
lợi cho việc giao thương buôn bán, hầu hết là Đông Nam Á hải đảo. Việc giao thương
phát triển từ sớm, các dịng chảy văn hóa và pháp luật dễ tiếp cận và tư duy pháp lý cởi
mở, nhanh chóng cập nhật điểm mới hơn đến từ phương Tây. “Điểm chung của các quốc
gia Đơng Nam Á là tất cả đều có kinh nghiệm, trực tiếp hoặc gián tiếp, chủ nghĩa đế quốc
phương Tây và chủ nghĩa thực dân trong lịch sử hiện đại của họ, đã có tác động đáng kể
đến sự phát triển chính trị và hiến pháp của các quốc gia.” [30, 32].
Thứ hai, đi cùng với yếu tố vị trí địa lý, yếu tố lịch sử có ảnh hưởng nhất định đến
pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia Hồi giáo. Những yếu tố lịch sử sẵn có của
nội tại quốc gia cùng với bản sắc văn hóa truyền thơng được gây dựng qua hàng ngàn

năm là rào cản không nhỏ với các quốc gia Hồi giáo khi chịu những tác động đến từ các
yếu tố khác. Cũng từng có nghiên cứu cho rằng các hiến pháp và tư tưởng lập hiến bắt
nguồn từ nền văn minh phương Tây, sau đó được cấy ghép vào các xã hội và văn hóa ở


các nơi khác trên thế giới như Trung Đông, Châu Á và Châu Phi. Do đó, các hiến pháp ở
các quốc gia phương Tây có thể được gọi là hiến pháp nguyên sơ và những hiến pháp ở
các quốc gia nằm ngoài quỹ đạo của phương Tây được gọi là hiến pháp thứ cấp [78, 177].
Yếu tố lịch sử đóng vai trò quan trọng trong sự ảnh hưởng của những bản hiến pháp
nguyên sơ đến hiến pháp ngoài quỹ đạo phương Tây.
Thứ ba, con người là một trong những nhân tố quan trọng trong mọi vấn đề. Yếu tố
con người có ảnh hưởng rất lớn đến pháp luật và hiến pháp các quốc gia. Tính cách và sự
dễ thích nghi khiến việc tiếp nhận các luồng ý kiến, tư tưởng, học thuyết về pháp luật
nhanh nhạy hơn. Như đã lý giải ở trên, một trong những yếu tố khiến Hồi giáo ảnh hưởng
mạnh mẽ ở khu vực Đông Nam Á là do việc giao thương giữa con người với nhau. Khơng
chỉ vậy chính những cuộc hơn nhân chính trị cũng là nhân tố thúc đẩy việc ảnh hưởng của
Hồi giáo vào lối sống và pháp luật khu vực Đông Nam Á.
Thứ tư, bối cảnh thời đại cùng xu hướng thế giới là nhân tố có tầm ảnh hưởng đến
pháp luật nói chung và hiến pháp của các quốc gia Hồi giáo. “Thế giới phẳng” với sự san
bằng mọi ranh giới khiến việc thông tin, trao đổi ngày càng trở nên dễ dàng. Những biến
đổi không ngừng của thế giới, bản thân các quốc gia Hồi giáo muốn hội nhập trên cơ sở
sự tự nguyện và chủ động tham gia ký kết các điều ước quốc tế. Đó là một hệ quả tất yếu
của xu hướng tồn cầu hóa như hiện nay, nó khơng chỉ thúc đẩy cho nền kinh tế của các
quốc gia Hồi giáo phát triển mà còn làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước
tiếp cận thi trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế. Khơng chỉ vậy, các
quốc gia bên ngồi luôn gây sức ép buộc bản thân các quốc gia Hồi giáo phải thay đổi.
Các quốc gia Hồi giáo nhất là ở khu vực Trung Đơng - khu vực có khoảng 90% dân số
theo đạo Hồi, được mệnh danh là “kho vàng đen” khổng lồ của thế giới, do đó các quốc
gia này cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật của mình để có được một nền kinh tế
phát triển vững mạnh hơn.

Cuối cùng, xu hướng hội nhập khu vực, sự phát triển mạnh mẽ của pháp quyền, dân
chủ và nhân quyền,… trên thế giới đã có “gõ cửa” mạnh mẽ và ảnh hưởng không nhỏ đến
pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia Hồi giáo nói riêng. Sự ra đời của các tổ
chức khu vực, các cơng ước quốc tế, cùng với đó là các yêu cầu đảm bảo giá trị pháp


×