Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Phân cảnh trong kịch bản (2) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.05 KB, 8 trang )

Phân cảnh trong kịch bản

PHÂN CẢNH
Phân cảnh giản dị là chọn hình ảnh để kể câu chuyện mà bạn muốn kể trong
phim.
Phim có nhiều đoạn (sequence). Mỗi đoạn đoạn có nhiều cảnh (scene).
Cảnh có nhiều cú máy (shot). SCENE là đơn vị căn bản của phim. Dù phim truyện
dài với hơn 100 scene hay phim ngắn với 3 scene thì scene vẫn là đơn vị căn bản.
SHOT là đơn vị nhỏ nhất của phim. Trong bài đầu tiên này tôi xin nói về các yếu
tố cơ bản của SHOT.
Chúng ta thử tưởng tượng phim Trương Chi.
Sequence 1: Mỵ Nương nghe tiếng tiêu, yêu người thổi tiêu.
Sequence 2: vua rước Trương Chi vào cung cho MN gặp mặt. TC nghèo
xấu, MN đuổi đi.
Sequence 3: TC tương tư, chết, tim không tan.
Sequence 4: Ai đó lấy tim anh tạc thành cái ly đưa cho MN uống nước. MN
nhỏ một giọt nước mắt, ly tan.
Sequence 1 chia làm nhiều scene.
Người viết kịch bản sẽ viết giống giống như vầy (SCENE 001)
001 NỘI - CUNG HOÀNG TỘC / PHÒNG MỴ NƯƠNG - NGÀY
Phòng MỴ NƯƠNG ở trên lầu cao. MN (19 tuổi) ngồi trên chiếc ghế đặt
bên cửa sổ, cô đang đọc sách. Từ bầu trời bên ngoài vẳng lại tiếng tiêu réo rắt khi
còn khi mất. MN vừa đọc vừa mơ màng.
Cửa mở, một TỲ NỮ (16) mang khay trà bước vào, cúi chào MN. Cô chưa
kịp đặt khay xuống, MN đã hỏi.
MỴ NƯƠNG
Cứ mỗi chiều lúc sắp tắt nắng, người ấy lại thổi tiêu. Em nghe không?
CUNG NỮ
Không. À, mà có nghe. Ai mà rảnh thế nhỉ?
MỴ NƯƠNG
Hôm nào người ấy không thổi, ta không muốn ăn cơm, không muốn ngủ.



Phòng Mỵ Nương và đoạn thoại giữa MN và cung nữ là một SCENE. Biên
kịch chỉ viết SCENE chứ chưa đi vào đơn vị nhỏ hơn là SHOT.
Đạo diễn là người chia cảnh ấy ra thành nhiều SHOT. Công việc đó là
PHÂN CẢNH.
Thử 4 shot đầu nhé (4 shot này chỉ mới chừng 30 giây đầu tiên của phim.
Chưa có thoại gì hết):
Shot 01: (Rộng: Máy đặt trong phòng hướng về phía cửa sổ) MN ngồi ở
khung cửa và đang đọc một cuốn thơ. Tay cô lật qua trang.
Shot 02: (Cận) Những ngón tay rất đẹp của MN cầm lấy một góc trang để
lật trang sách, trên đó có in một bài thơ tựa là: Tương tư chiều.
Shot 03: (Trung: Máy vẫn hướng về phía cửa sổ, đặt gần MN hơn shot
001) Mỵ nương tiếp tục đọc, nhưng mơ màng nghe tiêu, có đọc được gì đâu. Có
tiếng mở cửa. MN quay ra mặt nhìn.
Shot 04: (Trung: Máy hướng về cửa vào phòng) Cung nữ ở ngưỡng cửa tay
bưng khay trà, bước vào phòng, ra khỏi khung.

Ráp các shot này lại, ta biết được khung cảnh mở đầu của chuyện. Mỗi shot
phải có 6 yếu tố sau:
1. SỰ THÚC ĐẨY
2. THÔNG TIN
3. BỨC ẢNH
4. ÂM THANH
5. SỰ THAY ĐỔI
6. SỰ LIÊN TỤC

Mỗi yếu tố đều quan trọng. Để đi sâu, cần có nhiều cuốn sách cho mỗi yếu
tố. Ở đây tôi chỉ nói sơ lược.

1. SỰ THÚC ĐẨY

Người xem phim sẽ cho là mạch phim tự nhiên liền lạc khi họ MONG được
xem cái gì, máy quay sẽ đưa mắt họ đến đó. Nếu những khung hình nối tiếp nhau
không có lý do sẽ làm cho câu chuyện có vẻ khúc mắc.
Bạn cho người ta xem một khung hình. Xem được vài giây, bạn đổi qua
một khung khác. Bạn làm như vậy không tùy hứng, mà vì bạn biết người xem
muốn xem cái khung kế đó. Tại sao họ muốn xem cái khung kế? Cũng là do chính
bạn, người kể chuyện, dẫn sự chú ý của họ tới đó. Rồi bạn cho họ xem cái họ
muốn xem. Điều này tạo sự mạch lạc. Nếu không có sự thúc đẩy, người dựng
phim sẽ hỏi bạn: Người xem đang nhìn cái này việc gì phải quay đầu nhìn qua kia,
việc gì tôi phải đổi SHOT?
Ví dụ xem SHOT 001 MN đang ngồi đọc sách. Chính vì nàng đưa mấy
ngón tay đẹp lên lật trang làm cho người xem MONG được nhìn gần hơn để thấy
những ngón tay của một công chúa nó đẹp như thế nào và công chúa đọc thứ sách
gì. Đó là lý do, là SỰ THÚC ĐẨY để cắt qua khung hình shot 002: Cận, cho thấy
bàn tay của nàng và tựa bài thơ nàng đang đọc. SỰ THÚC ĐẨY trong trường hợp
này được gây ra nhờ hình ảnh (công chúa lật trang). Có một SỰ THÚC ĐẨY do
ÂM THANH gây ra ở cuối SHOT 003: Shot này tả MN đang mơ màng nghe tiếng
sáo. Bỗng nhiên có tiếng mở cửa. Tiếng mở cửa làm cho người xem muốn biết AI
bước vào phòng. Vậy là bạn đã có lý do để cắt qua SHOT 004: Thì ra là cung nữ
mang bình trà vô cho công chúa uống.

2. THÔNG TIN
Một cú máy phải đem lại THÔNG TIN cho người xem, tiếp theo những
thông tin mà họ đã được biết từ cú máy trước đó. Thông tin này có thể nhờ hình
ảnh, hoặc nhờ âm thanh (thoại, chẳng hạn). Bạn khai mở câu chuyện. Thông tin có
thể đưa câu trả lời hoặc chỉ đưa ra câu hỏi.
Trong shot 001, bức hình của bạn trả lời các câu hỏi được trả lời:
- Căn phòng thế nào? Trang trí kiểu Việt xưa, vậy là chuyện này lâu rồi, ở
VN.
- Ai ngồi xem sách.? Trẻ mà tiền đâu mua áo quần đẹp quá, chắc là con nhà

giàu.
- Cô ấy ngồi như thế nào? Lưng thẳng, đài các mà, chắc con quan hay con
vua.
Và nó đem lại vài câu hỏi khác chưa có câu trả lời:
- Tiếng tiêu của ai vậy kìa?
- Cô gái đang nghĩ gì?
Những câu hỏi chưa có câu trả lời này khiến người ta muốn xem tiếp.

3. BỨC ẢNH
Mỗi SHOT đều được cân nhắc (sáng tác) thận trọng như họa sĩ vẽ một bức
tranh, nên tôi tạm gọi đây là một BỨC ẢNH. Nó bao gồm:
- Khung hình (frame): gồm có chiều ngang và chiều dọc đóng khung hình
ảnh lại.
- Chiều sâu (depth): chiều thứ ba, chiều sâu, thật ra chỉ là một ảo giác, được
tạo nên nhờ sự sắp đặt người, vật và đường nét trong khung, cách đặt máy, chọn
ống kính, và ánh sáng.
- Cảnh/diễn viên/đạo cụ
- Màu, ánh sáng.
Bức ảnh là điều quyết định thị giác và cảm giác của phim . Hôm nào có dịp
chúng ta có thể bàn rộng về BỨC ẢNH.

4. ÂM THANH
Nguyên tắc khi ghép ÂM THANH vào SHOT là: "Người xem PHẢI nghe
những gì họ THẤY, nhưng họ không cần thấy những gì họ NGHE. Nghĩa là nếu
THẤY cửa mở mà không NGHE tiếng cửa mở thì không được, nhưng họ vẫn có
thể NGHE tiếng sáo mà KHÔNG THẤY người thổi sáo.
Âm thanh rất quan trọng, cũng cần nhiều chương sách riêng về nó, Khi đạo
diễn đóng khung một bức ảnh với nhiều chi tiết, người xem có thể CHỌN nhìn cái
này kỹ hơn và bỏ qua cái kia, chứ âm thanh thì người xem không có sự chọn lựa
đó. Họ phải nghe tất cả những gì đạo diễn cho họ nghe, và ảnh hưởng tâm lý âm

thanh mang lại rất sâu rộng, đối với nhiều người, âm thanh quan trọng cho cảm
giác của phim hơn cả hình ảnh.

5. GÓC MÁY
Tốt nhất là mỗi lần đổi shot ta cũng nên đổi góc máy. Đổi góc máy là đổi
hướng nhìn, đem lại những thông tin mới và khác hoặc thêm vào cái người xem đã
thấy rồi.
Góc máy chính là hướng mắt của một người nào đó. Trong phim, chỉ có cái
nhìn của nhân vật (POV: point of view) và cái nhìn của người xem, tức là không
của ai cả. Bạn phải rất cẩn thận với cái nhìn của một người thứ ba. Chẳng hạn có
hai người đi từ sân vào nhà. Bạn chỉ có hai lựa chọn: góc máy từ hướng mắt của
nhân vật, hoặc góc máy là hướng mắt của khán giả. Nếu bạn quay hai người đi vào
nhà và thích đặt máy xuyên qua bờ dậu vì thấy nó ly kỳ, người xem sẽ hiểu lầm
rằng có một người thứ ba đang quan sát rình rập hai người kia từ sau bờ dậu, và
phim bị sai văn phạm.

6. SỰ LIÊN TỤC
Chuyển SHOT gọi là CUT. Có hai loại là CUT liên tục (continuous cut) và
không liên tục (jump cut). Sau một số continuous cut, đạo diễn có thể dùng jump
cut để cắt ngắn thời gian.
Nếu cả một đoạn phim ghép các SHOT không liên tục nhau để tả nhanh
nhiều biến cố của vài năm trong vòng một hai phút, thì người ta dùng tiếng Pháp
MONTAGE có nghĩa là chắp nối hình ảnh (trong khi trong tiếng Pháp,
MONTAGE có nghĩa là dựng phim). Sự liên tục của hình ảnh và âm thanh làm
cho người xem thấy mình đang quan sát THỰC diễn biến trên màn ảnh hơn là nó
được kể lại.
Cả hình ảnh và âm thanh đều cần có sự liên tục. Cần chú ý:
1. Nội dung
Thí dụ ở shot trước điếu thuốc của diễn viên hút đã hết, mà qua shot sau nó
còn dài thì sai, nó phải ngắn như ở shot trước.

2. Cử động
Bàn tay kéo điếu thuốc ra khỏi miệng của diễn viên trong shot sau phải tiếp
đúng cử động từ shot trước.
3. Vị trí và hướng
Một người chạy đang từ trái sang phải khung hình. Qua shot kế nếu đặt
máy ở vị trí đối diện khiến người này chạy từ phải sang trái sẽ làm người xem anh
ta đã đổi hướng và đang chạy đi bỗng chạy về.
4. Thoại
Phải có sự liên tục của thoại.

×