Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tiểu luận Tư tưởng HCM về CNXH và sự vận dụng sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.61 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẠI TPHCM
KHOA : LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Họ và tên : LÊ TRẦN BÍCH TRÂM MSSV : 1954020169 - 010100510220
BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CHỦ ĐỀ : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : ThS Ngơ Thị Thu Hồi


MỤC LỤC
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI : ........................................................................................... 3
CHƯƠNG 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ............. 4
1.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ............................................... 4
1.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan .......................................... 5
1.3 Một số đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa ..................................................... 7
CHƯƠNG 2 SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG THỜI
KỲ ĐỔI MỚI ............................................................................................................ 9
2.1 Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới ..................................................................................... 9
2.2 Xây dựng CNXH ở Việt Nam theo Tư tưởng Hồ chí Minh trong thời kỳ đổi mới
....................................................................................................................................
16
Kết luận....................................................................................................................... 22
Tài liệu tham khảo ...................................................................................................... 23

2




LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Người đã dành cả đời
của mình để tìm ra con đường giải phóng dân tộc , tìm ra chân lý vĩ đại, đưa nhân dân
Việt Nam thoát khỏi lầm than , nô lệ. Người là một tấm gương sáng về đạo đức của một
người chiến sĩ cách mạng. Người đã để lại cho chúng ta những tài sản quý báu khơng gì
sánh bằng , đó là những giá trị về tư tưởng, đạo đức , văn hóa , nhân văn , tinh thần cách
mạng giải phóng dân tộc mà các thế hệ về sau đã và đang học tập theo tấm gương chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại . Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một chân lý và
ý nghĩa, là con đường để nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập , tự do . Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản , xuyên suốt, của cách mạng
Việt Nam. Đảng và nhân dân ta đã kế thừa và phát huy những tư tưởng là di sản của Bác
suốt bao năm gìn giữ, bảo vệ, xây dựng đất nước,đưa nước Việt Nam sánh vai với cường
quốc năm châu như lời Bác đã dạy, khẳng định vị thế của nước ta trong từng lĩnh vực ,
nâng cao đời sống nhân dân, để cho nhân dân Việt Nam có cuộc sống ấm no, hạnh phúc
đúng nghĩa với một quốc gia Xã Hội Chủ Nghĩa.

3


CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những cuộc cách mạng tư bản, tuy thành công nhưng
không đến nơi, tiếng là cộng hịa và dân chủ, nhưng kỳ thực thì nó vẫn đi tước đoạt cơng
nơng, áp bức thuộc địa, nhân dân vẫn cực khổ, lo tính cách mạng lần nữa. Từ thực tiễn
sống động đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì
nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số

nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng
mới được hạnh phúc”.
Trong các tác phẩm của mình , Hồ Chí Minh không để lại một định nghĩa cố định
về chủ nghĩa xã hội . Với cách diễn đạt dung dị , dễ hiểu , dễ nhớ , khái niệm “ chủ nghĩa
xã hội ” được Người tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau bằng cách chỉ ra đặc trưng ở một
lĩnh vực nào đó ( như kinh tế , chính trị , văn hóa , khoa học – kỹ thuật , động lực , nguồn
lực , v.v. ) của chủ nghĩa xã hội ; song tất cả đều hướng đến mục tiêu cơ bản của nó mà
theo Người : “ Nói một cách tóm tắt , mộc mạc , chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm
cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng , làm cho mọi người có cơng ăn việc làm ,
được ấm no và sống một đời hạnh phúc ” , là làm sao cho dân giàu , nước mạnh . So
sánh các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử để thấy sự khác nhau về bản chất giữa chủ
nghĩa xã hội với các chế độ khác , Hồ Chí Minh viết : “ Trong xã hội có giai cấp bóc lột
thống trị , chỉ có lợi ích cá nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống trị là được
thỏa mãn , cịn lợi ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo . Trái trong chế
độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ , thì
mỗi người là một bộ phận của của tập thể , giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần
4


cơng lao trong xã hội . Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể , là một
bộ phận của lợi ích tập thể . Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của
cá nhân mới có điều kiện được thỏa mãn ” . Người khẳng định mục đích của cách mạng
Việt Nam là tiến đến chủ nghĩa xã hội , rồi đến chủ nghĩa cộng sản vì : Chủ nghĩa cộng
sản có hai giai đoạn . Giai đoạn thấp , tức là chủ nghĩa xã hội ; giai đoạn cao , tức là chủ
nghĩa cộng sản . Hai giai đoạn ấy giống nhau ở chỗ : Sức sản xuất đã phát triển cao , nền
tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều là của chung ; khơng có giai cấp áp bức bóc lột . Hai
giai đoạn ấy khác nhau ở chỗ : Chủ nghĩa xã hội vẫn cịn chút ít vết tích xã hội cũ . Xã
hội cộng sản thì hồn tồn khơng cịn vết tích xã hội cũ . Như vậy , theo Hồ Chí Minh :
‘ xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa . Mặc
dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng xã hội xã hội chủ nghĩa không cịn áp bức ,

bóc lột , xã hội do nhân dân lao động làm chủ , trong đó con người sống ấm no , tự do ,
hạnh phúc , quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất , vừa gắn bó chặt chẽ với
nhau.’ 1
1.2 Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác khẳng định sự phát triển của xã
hội loài người là quá trình lịch sử - tự nhiên . Theo quá trình này , “ Sự sụp đổ của giai
cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau ” . Vận dụng học thuyết
của C.Mác để nghiên cứu về tiến trình lịch sử , Hồ Chí Minh cho rằng : “ Cách sản xuất
và sức sản xuất phát triển và biến đổi mãi , do đó mà tư tưởng của người , chế xã hội , v
, v . , cũng phát triển và biến đổi . Chúng ta đều biết từ đời xưa đến đời nay , cách sản
xuất từ chỗ dùng cành cây , búa đá đã phát triển dần đến máy móc , sức điện , sức nguyên
tử . Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ , đến chế độ
phong kiến , đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang tiến
lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa . Sự phát triển và tiến bộ đó
khơng ai ngăn cản được ” . Tuy nhiên , ngay từ năm 1953 Hồ Chí Minh nhận thấy : Tùy

1

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh , Bộ giáo dục và Đào tạo ,trang 51,52.

5


hoàn cảnh , mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau . Có nước thì đi thẳng
đến chủ nghĩa xã hội như Liên Xơ . Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới , rồi
tiến lên chủ nghĩa xã hội như các nước Đông Âu , Trung Quốc , Việt Nam ta “ . Người
giải thích : Chế độ dân chủ mới là chế độ dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công
nhân , nhân dân đã đánh đổ đế quốc và phong kiến trên nền tảng công - nông liên minh
, nhân dân lao động làm chủ , nhân dân dân chủ chuyền chính theo tư tưởng của chủ
nghĩa Mác – Lênin ‘ . Tư tưởng trên đặt vào bối cảnh xã hội đương thời , Hồ Chí Minh

muốn khẳng định , lịch sử xã hội loài người phát triển qua các chế độ công xã nguyên
thủy , chiếm hữu nô lệ , phong kiến , tư bản chủ nghĩa rồi tiến lên xã hội chủ nghĩa , cộng
sản chủ nghĩa ; nhưng lộ trình này khơng bắt buộc đối với tất cả các nước mà nó diễn ra
theo hai phương thức : Có thể trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như Liên Xơ
và cũng có thể bỏ qua giai đoạn này như các nước Đông Âu , Trung Quốc , Việt Nam .
Như vậy , theo Hồ Chí Minh , tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu , tuân
theo những quy luật khách quan , trước hết là những quy luật trong sản xuất vật chất ;
song , tùy theo bối cảnh cụ thể mà thời gian , phương thức tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
mỗi quốc gia sẽ diễn ra một cách khác nhau ; trong đó , những nước đã qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa sẽ “ đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội . Những nước chưa qua
giai đoạn phát triển này có thể đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi đã “ đánh đổ đế quốc và
phong kiến ” dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản và được tư tưởng Mác Lênin dẫn đường
Với nhận định trên , Hồ Chí Minh đã cho thấy tính chất chung của các quy luật phát triển
xã hội và tính đặc thù trong sự thể hiện các quy luật đó ở những quốc gia cụ thể , trong
những điều kiện cụ thể . Đối với Việt Nam , hàng nghìn năm dưới ách thống trị tàn bạo
của chế độ phong kiến , thực dân , nhiều khuynh hướng cứu dân , cứu nước đã được thử
nghiệm nhưng đều không đem lại kết quả cuối cùng mà dân tộc khát khao đạt được . Chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới là nguồn gốc của tự do , bình đẳng , bác ái , xóa bỏ những bức
tường dài ngăn cản con người yêu đoàn kết , yêu thương nhau . Con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nhân loại nói chung , của Việt Nam nói riêng vừa là một tất yếu của

6


lịch sử , vừa đáp ứng được khát vọng của những lực lượng tiến bộ xã hội trong quá trình
đấu tranh tự giải phóng mình .:2
1.3 Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
Là xã hội có bản chất khác hẳn các xã hội khác đã tồn tại trong lịch sử , xã hội xã hội
chủ nghĩa có nhiều đặc trưng ; song , nếu tiếp cận từ những lĩnh vực lớn của xã hội , xã
hội xã hội chủ nghĩa có một số đặc trưng cơ bản sau

Thứ nhất , về chính trị : Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ . Chế độ
dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa được thể hiện trước hết là xã hội do nhân dân làm
chủ , nhân dân là chủ dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản trên nền tảng liên minh công
– nông . Trong xã hội xã hội chủ nghĩa , địa vị cao nhất là nhân dân . Nhà nước là của
dân , do dân và vì dân . Mọi quyền lợi , quyền lực , quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi
hoạt động xây dựng , bảo vệ đất nước , bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân ‘ .
Những tư tưởng cơ bản về đặc trưng chính trị trong xã hội xã hội chủ nghĩa nêu trên
không chỉ cho thấy tính nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh mà cịn cho thấy Hồ Chí Minh
nhận thức rất sâu sắc về sức mạnh , địa vị và vai trò của nhân dân ; về sự thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội khi Đảng lãnh đạo dựa vào nhân dân , huy động được nhân lực , tài lực
, trí lực của nhân dân để đem lại lợi ích cho nhân dân .
Thứ hai , về kinh tế : Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu , Theo
Hồ Chí Minh , chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản nên
xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của xã hội tư
bản chủ nghĩa , đấy là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ sở hữu
tư liệu sản xuất tiến bộ . Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện :
Công cụ lao động , phương tiện lao động trong quá trình sản xuất “ đã phát triển dần đến
máy móc , sức điện , sức nguyên tử ” ?. Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa
được Hồ Chí Minh diễn đạt là : Lấy nhà máy , xe lửa , ngân hàng , vv . làm của chung ;
2

Giáo trình Tư tưởng Hồ chí Minh , Bộ giáo dục và Đào tạo, trang 52,53.

7


là tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân . Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu
tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa .
Thứ ba , về văn hóa , đạo đức và các quan hệ xã hội : Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình

độ phát triển cao về văn hoá và đạo đức , bảo đảm sự công bằng , hợp lý trong các quan
hệ xã hội , Văn hóa , đạo đức thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống song trước hết
là ở các quan hệ xã hội . Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của xã hội xã hội chủ
nghĩa thể hiện : xã hội không cịn hiện tượng người bóc lột người , con người được tôn
trọng , được bảo đảm đối xử công bằng , bình đẳng và các dân tộc đồn kết , gắn bó với
nhau .Hồ Chí Minh cho rằng : Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới “ chú ý xem xét những lợi
ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn ” ; “ chỉ ở trong chế độ xã hội
chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình , phát huy
tính cách riêng và sở trường riêng của mình ” . Chủ nghĩa xã hội là cơ sở , là tiền đề để
tiến tới chế độ xã hội hịa bình , đồn kết , ấm no , tự do , hạnh phúc , bình đẳng , bác ái
, việc làm cho mọi người và vì mọi người ; khơng cịn phân biệt chủng tộc , khơng cịn
gì có thể ngăn cản những người lao động hiểu nhau và thương yêu nhau . Chủ nghĩa xã
hội bảo đảm tính cơng bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội . Đấy là xã hội đem lại
quyền bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân ; mọi cộng đồng người đồn kết chặt
chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ ; ai cũng phải lao động và ai cũng có
quyền lao động , ai cũng được hưởng thành quả lao động của mình trên ngun tắc làm
nhiều thì hưởng nhiều , làm ít thì hưởng ít , khơng làm thì khơng hưởng , tất nhiên là trừ
những người chưa có khả năng lao động hoặc khơng cịn khả năng lao động .
Thứ tư , về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội : Chủ nghĩa xã hội là cơng trình tập thể
của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản , Từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã
hội tư bản chủ nghĩa , cuộc đấu tranh của người lao động luôn diễn ra ngày càng quyết
liệt nhằm thủ tiêu chế độ người bóc lột người . Trong chế độ xã hội chủ nghĩa – chế độ
của nhân dân , do nhân dân làm chủ , lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của chế độ
xã hội nên chính nhân dân là chủ thể , là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự
vững mạnh của chủ nghĩa xã hội “ . Trong sự nghiệp xây dựng này , Hồ Chí Minh khẳng
8


định “ Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp cơng nhân ,
tồn tâm tồn ý phục vụ nhân dân . Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một

cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể
đưa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công ” 3

CHƯƠNG 2
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CNXH CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI .
2.1 Đảng Cộng Sản Việt Nam vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH
trong thời kỳ đơi mới ở nước ta
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo.
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một
nội dung cơ bản, cốt lõi, thể hiện sự sáng tạo rất lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi vận
dụng, quán triệt lý luận Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Bối cảnh trong
nước và quốc tế hiện nay đặt ra yêu cầu cấp thiết phải không ngừng bổ sung, phát triển
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trên cơ sở
bảo đảm các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
phù hợp với đặc điểm của dân tộc, với xu thế của thời đại
Thứ nhất, tư tưởng của V.I. Lê-nin là cơ sở lý luận, được vận dụng kiên định và sáng
tạo, từng bước định hình con đường và bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam.

3

Giáo trình Tư tưởng Hồ chí Minh , Bộ giáo dục và Đào tạo, trang 53,54,55.

9



Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin cho phù hợp với điều kiện mới của Việt Nam, từ đó đã đúc kết những luận điểm lý
luận phù hợp với mơ hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đó là những luận điểm lý luận
về mục tiêu và đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về con đường lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta.
Trong bước chuyển đổi từ “Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính sách kinh tế
mới” vào mùa xuân năm 1921, V.I. Lê-nin đã tự phê phán về những sai lầm nghiêm
trọng khi coi thường quy luật khách quan và yêu cầu cần thay đổi căn bản những quan
niệm, tư duy trước đây về chủ nghĩa xã hội. Lĩnh hội tinh thần đó, Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã tạo ra bước ngoặt trong đổi mới tư duy về
con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh
giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan là
khởi nguồn cho những sáng tạo của Đảng khi xác định mơ hình và bước đi trong q
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội thừa nhận sự tồn tại khách quan
của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong buổi đầu thời kỳ quá độ. Những quan
điểm đổi mới về tư duy kinh tế nêu trên Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989) khẳng
định và bổ sung với những bước tiến mới. Từ kinh nghiệm của 5 năm đổi mới, Đại hội
VII của Đảng (6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã xác định sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. So với sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã nêu ra, Đại hội
X đã bổ sung hai đặcTrưng là xây dựng “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh” và “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng (tháng 1- 2011) tiếp tục bổ sung và phát triển Cương lĩnh cho phù hợp
với thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó có những đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

10



Cương lĩnh năm 1991 đã vạch ra bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng xã
hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm
1991, từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhận thức về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, thể hiện ở tám phương hướng cơ bản nhằm thực hiện thành công mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của
chủ nghĩa xã hội và kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ
sở để đưa Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc.
Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Ðảng (tháng 1-2016) tiếp tục khẳng định và
phân tích sâu sắc hơn tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cho phù
hợp hơn với thực tiễn, bối cảnh mới. Đại hội XII rút ra ba kết luận quan trọng: 1- Những
thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới; 2- Những thành tựu đó khẳng định đường lối đổi mới của
Đảng là đúng đắn, sáng tạo; 3- Những thành tựu đó khẳng định con đường lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta đã nhận thức lại, thấm nhuần quan
điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể và phát triển nhằm khắc phục những cách hiểu, cách nghĩ,
cách làm giản đơn, siêu hình, giáo điều, duy ý chí, trái quy luật khách quan về thời kỳ
trước đổi mới, theo đúng tinh thần của V.I. Lê-nin. Đổi mới, do đó, khơng phải là xa rời
Hay từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa học mà trái lại, là sự
nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn, là sự phát triển sáng tạo hơn nữa bản chất khoa học
và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, của chủ nghĩa xã hội khoa học để tiến hành
xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn.
Thứ hai, tư tưởng của V.I. Lê-nin về NEP là cơ sở nền tảng để Đảng ta phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới
11



V.I. Lê-nin đã bổ sung, cụ thể hóa lý luận Mác về thời kỳ quá độ bằng thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tập trung phân tích về quá độ trong kinh tế. V.I.
Lê-nin đã chỉ ra năm thành phần kinh tế nước Nga đương thời, đồng thời chủ trương thực
hiện “những bước quá độ nhỏ”, bắc những “chiếc cầu nhỏ” để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong “Chính sách kinh tế mới”, cơ chế thị trường được sử dụng để kích thích sản xuất,
kêu gọi đầu tư tư bản dưới sự định hướng, kiểm sốt của Nhà nước; lợi ích của các chủ
thể được quan tâm đã có tác dụng phục hồi lực lượng sản xuất nhanh chóng, thúc đẩy
kinh tế phát triển, đời sống của công nhân, nông dân được cải thiện. Nhờ có chính sách
này mà đến cuối năm 1925, về cơ bản, Liên Xơ đã hồn thành việc khơi phục nền kinh
tế quốc dân.
Theo tinh thần NEP của V.I. Lê-nin, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới, trong đó có
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra động lực thúc đẩy các đơn vị kinh tế và quần
chúng lao động hăng hái phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
kinh tế. Tuy nhiên, phải 15 năm sau, khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” mới chính thức được xác định từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001). Đến Đại
hội XII (năm 2016), Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bước phát triển tư duy rất rõ nét về
kinh tế thị trường khi xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đại hội XII xác định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế
thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn
Phát triển của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản
lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy, từ sự thúc bách của cuộc sống, từ nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong
quá trình đổi mới cũng như nghiên cứu kế thừa tư tưởng các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, Đảng ta đã thực hiện đổi mới, sáng tạo thừa nhận kinh tế nhiều thành
phần, chấp nhận cơ chế thị trường và khẳng định nó khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội,
thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính V.I. Lê12



nin cũng đã từng nhấn mạnh: “Chúng ta khơng hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào
khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn
của chủ nghĩa tư bản đã thu được”.
Thứ ba, các nguyên lý của chủ nghĩa Mác, đặc biệt là tư tưởng của V.I. Lê-nin được
Đảng ta vận dụng, phát triển vào xây dựng, củng cố liên minh giai cấp và đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội
Trong giai đoạn lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lê-nin đã vận dụng sáng tạo
những quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về liên minh giai cấp vào thực tiễn cách
mạng nước Nga và xây dựng được liên minh giai cấp công – nơng bền vững, góp phần
to lớn vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đặc biệt, V.I. Lê-nin còn nhiều lần nhấn mạnh tới vai trị của trí thức và khẳng định,
muốn thu hút họ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cần phải “đảm bảo cho
các người trí thức những điều kiện lao động tốt nhất” .
Tư tưởng của V.I. Lê-nin được Đảng ta nghiên cứu thấu đáo, rút ra những kinh nghiệm
quý báu để xây dựng liên minh giai cấp, tầng lớp ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, đặc biệt là từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh năm 1991 rất coi trọng việc thực hiện liên minh giữa giai
Cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do giai cấp cơng nhân lãnh đạo
với ý nghĩa là nền tảng chính trị - xã hội của Nhà nước của dân, do dân, vì dân, là nền
tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2001) không
chỉ tiếp tục khẳng định tính tất yếu của liên minh cơng – nơng – trí thức trong sự nghiệp
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà còn đặc biệt coi trọng vấn
đề này, coi đây là động lực quan trọng trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn

13



kết tồn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh
đạo”.
Kế thừa và phát triển tinh thần đó trong bối cảnh mới, các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, XI và XII đều tiếp tục khẳng định vai trị, tính tất yếu của liên minh giữa
giai cấp cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức đối với việc củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có bổ sung
những quan điểm, định hướng và giải pháp mới.
Thứ tư, tư tưởng của V.I. Lê-nin về Đảng Cộng sản kiểu mới đã được vận dụng sáng tạo,
đem lại những thành tựu trong xây dựng và củng cố vai trò Đảng Cộng sản cầm quyền,
lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam – nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đi đến thắng lợi
Khi Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền thì năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào kỷ luật đảng và phẩm chất tiền phong của đảng viên.
Tháng 5-1920, trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”,
V.I.Lê-nin viết: “Những người Bơn-sê-vích sẽ khơng giữ được chính quyền, tơi khơng
nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa, nếu
đảng ta khơng có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thật sự”. Theo ơng, có ba kẻ
thù chính mà người cộng sản của đảng cầm quyền phải kiên quyết đấu tranh là “tính kiêu
Ngạo cộng sản chủ nghĩa; nạn mù chữ, sự ngu dốt, cản trở việc giáo dục chính trị và nạn
hối lộ, tham nhũng”. Thấm nhuần sâu sắc những tư tưởng này của V.I. Lê-nin, kể từ khi
thành lập đến nay, Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đảng đã ban
hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là cơ sở, tiền đề vững
chắc bảo đảm cho Đảng ln trong sạch, vững mạnh, hồn thành sứ mệnh lịch sử của
mình.Gần 35 năm qua, nhất là trong 10 năm gần đây, nhận thức về công tác xây dựng
Đảng có nhiều đổi mới. Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vị trí của
cơng tác xây dựng Đảng. Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,
là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng.
14



Nhận thức của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng ngày càng đầy đủ, khách quan và
khoa học; thể hiện sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lê-nin
về xây dựng Đảng – đội tiền phong của giai cấp công nhân – phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Đảng ta đã thực hiện lời di huấn của V.I. Lê-nin là phải dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội; đó phải là những tổ chức bộ
máy phục vụ chính trị chứ chính trị khơng phục vụ bộ máy. Theo V.I. Lê-nin, chính trị
được đề cập ở đây chính là cuộc sống của nhân dân, lợi ích của nhân dân, là số phận của
hàng triệu triệu con người.
Thứ năm, Đảng ta vận dụng tư tưởng của V.I. Lê-nin trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong nhận diện và xử lý mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ
Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, vấn đề xác định và phân định nhiệm
vụ lãnh đạo của Đảng với nhiệm vụ quản lý của Nhà nước được V.I. Lê-nin quan tâm và
chỉ rõ: Chừng nào mà Ban Chấp hành Trung ương Đảng và tồn Đảng cịn tiếp tục làm
cơng tác quản lý hành chính, nghĩa là quản lý nhà nước thì Đảng không thể gọi là người
lãnh đạo được. Năm 1922, V.I. Lê-nin cho rằng, giữa Đảng và các cơ quan Xơ-viết hiện
Nay có những quan hệ khơng đúng đắn và phải nâng cao uy quyền của Hội đồng dân ủy.
Vào những ngày tháng cuối đời, V.I. Lê-nin trăn trở rất nhiều về việc cải tổ bộ máy nhà
nước. Ông chỉ ra tình trạng bộ máy nhà nước vẫn ngày càng cồng kềnh, nặng nề; chức
năng và nhiệm vụ của các bộ phận không rõ ràng; quan hệ giữa Đảng và Nhà nước chưa
rành mạch hoặc có chỗ thiếu kết hợp, chưa hài hịa. V.I. Lê-nin phê phán nghiêm khắc
q trình cải tổ mang tính hình thức và kém hiệu quả, để cho bộ máy nhà nước lại rơi
vào quỹ đạo nhà nước cũ và tệ quan liêu bùng phát.
Thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự tham gia quản lý nhà nước của toàn thể nhân dân lao
động và nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, V.I. Lênin khẳng định: “Cần phải xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa uh sáng

15


kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời

sống của nhà nước, khơng có “sự giám sát” từ trên, khơng có quan lại”.
Trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng
sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, tăng cường phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát triển đất nước
trong điều kiện mới, sớm đưa Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu như tâm
nguyện của Bác Hồ.
2.2 Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời
kỳ đổi mới
Tư tưởng Hồ Chí Minh đem lại cho Đảng ta, dân tộc ta những chỉ dẫn vô cùng quý giá,
là chân lý bền vững của mn đời. Những chỉ dẫn đó khơng chỉ là lý luận mà cịn là
phương pháp, trước hết là phương pháp luận duy vật biện chứng mang đặc trưng thực
hành của nhà biện chứng thực hành Hồ Chí Minh; là cơ sở giúp chúng ta giải quyết mối
quan hệ, tác động lẫn nhau và sự thống nhất biện chứng giữa đổi mới, hội nhập và phát
triển. từ hội nhập kinh tế đến hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng – là điều kiện, là
phương thức tất yếu để đổi mới gắn liền với mở cửa, hướng ra bên ngồi, tìm kiếm các
ngoại lực nhằm tăng cường nội lực cho phát triển bền vững ở nước ta. Hội nhập tác động
tới tiến trình đổi mới, đặt ra yêu cầu thúc đẩy đổi mới toàn diện, đồng bộ, thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển.
Cuối năm 1986, tại Đại hội VI, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật”, Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng
định những mặt làm được, phân tích những sai lầm, khuyết điểm, đề ra đường lối đổi
mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tỏ rõ bản lĩnh vững vàng, ra sức khắc phục khó khăn,
giữ vững ổn định chính trị, giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách, từng bước
đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống. Đầu năm 1988 có nạn đói lớn ở nhiều vùng
16


và lạm phát còn ở mức 393,8%, nhưng từ năm 1989 trở đi nước ta đã bắt đấu xuất khẩu

được mỗi năm 1-1,5triệu tấn gạo; lạm phát giảm dần, đến năm 1990 cịn 67,4%. Việc
thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn đạt những tiến bộ rõ rệt. Nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bước đầu hình
thành. Đời sống của nhân dân được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc
phòng, an ninh được giữ vững; hoạt động đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi tình trạng vị
bao vây, cơ lập. Cơng tác xây dựng Đảng có tiến bộ. Lịng tin của nhân dân từng bước
được khôi phục.Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm
2000, Báo cáo chính trị và Điều lệ Đảng .Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát cho 5 năm
1991-1995 là: vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng
cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi
tình trạng khủng hoảng. Đại hội long trọng tuyên bố: Việt Nam muốn là bạn của tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển.
Những thành tựu mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã cùng phấn đấu đạt được trong
thời kỳ đổi mới
-

Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ
yếu của kế hoạch 5 năm.

Trong bối cảnh đất nước ta mn vàn khó khăn thì dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
,nước ta đã có bước nhảy vượt bật về kinh tế , là nất thang để đất nước đi lên, phát triển
như ngày hôm nay vào giai đoạn 5 năm 1991-1995.Hiện nay Việt Nam nằm trong danh
sách các nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh, khẳng định vị thế của ta trên trường năm
châu.Hoạt động khoa học và cơng nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường.Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn
với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa tiếp tục được xây dựng.


17


-

Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.

Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình
và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao động có việc
làm. Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả nông thôn
và thành thị. Mỗi người Việt Nam ddều được hưởng những quyền lợi của một cơng dân
, khơng phân biệt giàu nghèo.Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân
được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa,
nghệ thuật, thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều
hoạt động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ.Người lao động được giải
phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế khơng hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và
tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các
sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.Chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với người có
cơng với nước được tồn dân hưởng ứng, phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt
động từ thiện ngày càng mở rộng, đang trở thành một nét đẹp mới trong xã hội ta. Lòng
tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đát nước, vào Đảng và Nhà nước được nâng
lên.
-

Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.

Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và mơi trường hịa bình của
đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới.Đảng đã định rõ phương
hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc phịng, an ninh. Các nhu

cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt
hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và cơng an được nâng lên. Thế trận quốc
phịng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Cơng tác bảo vệ an ninh chính trị và
trật tự an tồn xã hội được tăng cường.
-

Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.

18


Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng và
chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội; đã ban
hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp
luật quan trọng, tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà những, tiếp tục xây
dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động, đạt hiệu quả thiết thực hơn. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hóa được phát huy. Các tầng lớp nhân dân, đồng
bào các dân tộc đồn kết, gắn bó trong sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh. Đồng bào ta ở nước ngoài cũng ngày càng hướng về quê hương vì đại nghĩa
ấy
-

Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích
cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.

Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công
nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ trên thế giới;

thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở rộng hoạt động đối ngoại
của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội. Phát triển quan hệ với các tổ chức phi chính
phủ trên thế giới.Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn nhiều nước trên thế
giới, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của nhiều nước và vùng lãnh
thổ đã đầu tư trực tiếp vào nước ta. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta viện
trợ khơng hồn lại hoặc cho vay để phát triển.Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một
nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hịa bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện
và nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước. Đó cũng là sự đóng góp tích cực của nhân ta vào sự nghiệp
chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.4
4

Những thành tựu đổi mới của đất nước , Văn kiện Đảng toàn tập , tập 55,tr.345-348, Nxb.Chính trị Quốc gia,
năm 2015

19


Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là xóa đói,
giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Dân chủ
trong xã hội tiếp tục được mở rộng, chính trị – xã hội ổn định, quốc phịng – an ninh
được giữ vững. Cơng tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu
quả, góp phần tạo mơi trường hịa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển
đất nước.Mạng lưới giáo dục, đào tạo được mở rộng, quy mô và chất lượng được nâng
lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo, thi
cử và kiểm định chất lượng có đổi mới Cùng với kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực. Chính sách an sinh xã hội
được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trên các lĩnh vực lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, người có cơng và bảo trợ xã hội. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm,
phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.Nhận thức của người dân về

tự bảo đảm an sinh xã hội có tiến bộ, huy động nguồn lực xã hội cho chính sách xã hội
tốt hơn. Đã hồn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Mở rộng
đối tượng thụ hưởng, nâng mức hỗ trợ và thực hiện đồng bộ nhiều chính sách đối với
người có cơng, giảm nghèo, trợ giúp xã hội, hỗ trợ nhà ở, tạo việc làm, đào tạo nghề, hỗ
trợ sản xuất, hỗ trợ tín dụng cho học sinh, sinh viên nghèo Cơng tác bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe nhân dân được chú trọng, đặc biệt chăm sóc và phát huy vai trị người cao tuổi;
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; cơng tác gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ
của phụ nữ đạt kết quả tích cực. Các giá trị văn hóa dân tộc, di tích lịch sử được quan
tâm bảo tồn, phát huy. Nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể được cơng nhận là di sản
văn hóa quốc gia và thế giới. Sản phẩm văn hóa, văn học – nghệ thuật ngày càng phong
phú..Nhà nước ln quan tâm thực hiện chính sách dân tộc, bảo đảm tự do tín ngưỡng,
tơn giáo. Cơng tác dân vận được chú trọng, vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
đoàn thể nhân dân được củng cố, phát huy. Các cơ quan báo chí, xuất bản đã làm tốt hơn
nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền.Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý tài
ngun, bảo vệ mơi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục được hồn thiện.
Cơng tác kiểm tra, thanh tra việc thực thi và xử lý vi phạm được chú trọng.Tiềm lực quốc
phòng – an ninh được tăng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các giải pháp phù hợp
20


để bảo vệ chủ quyền quốc gia và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định cho phát triển
kinh tế – xã hội.Việt Nam đã chủ động tham gia tích cực, có trách nhiệm trong các tổ
chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, đặc biệt là Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á
(ASEAN), Liên hiệp quốc. Kiên trì cùng ASEAN thúc đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố
về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) và tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử
trên Biển Đơng (COC). Tích cực triển khai các hiệp định, thỏa thuận thương mại đã có
và đàm phán, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để mở rộng, đa dạng
hóa thị trường, thúc đẩy phát triển và nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế. Vị thế của
nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên.


21


KẾT LUẬN
Cống hiến đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ ở chỗ khẳng định tính tất yếu
của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chủ nghĩa nhân văn và văn hóa, phát triển, tiến
bộ khơng ai ngăn cản được, mà còn sớm trả lời câu hỏi “chủ nghĩa xã hội là gì?”, đi đến
khẳng định đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Người, chủ nghĩa
xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng; là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; là làm cho mọi
người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do; là gắn với sự phát triển của khoa
học, kỹ thuật và văn hóa. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ khơng có người bóc lột người,
một xã hội bình đẳng, ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, trừ những người già cả, đau yếu và trẻ
con. Chủ nghĩa xã hội là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, địa vị cao nhất là dân;…
Chủ nghĩa xã hội trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội do nhân dân làm
chủ và là chủ, quyền lực thuộc về nhân dân; một xã hội vì con người, do con người; con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Ðảng phải có kế hoạch thật
tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần, bảo đảm tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội như vậy bao gồm
phát triển kinh tế, văn hóa, đạo đức, xã hội và mơi trường, cho hơm nay và mai sau. Với
tầm nhìn khởi xướng sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu, phát triển kinh tế đi liền
với tiến bộ và công bằng xã hội, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, chữa
bệnh, Hồ Chí Minh đặt nền móng cho phát triển bền vững khi Người chú trọng ba trụ
cột: kinh tế, xã hội và môi trường với những quan điểm về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng
cực, quan tâm giáo dục tiểu học, thực hiện bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ
nữ, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, phòng, chống bệnh tật, chăm lo sức khỏe cho bà mẹ và
nhân dân, hợp tác kinh tế quốc tế, thiết lập quan hệ đối tác tồn cầu vì phát triển. Di sản
Hồ Chí Minh đặt nền móng và là chỉ dẫn để Ðảng ta đề ra cương lĩnh, đường lối xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân

chủ công bằng, văn minh.
22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Giáo Dục và Đào Tạo 2019 , Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXb Chính trị quốc
gia Hà Nội
2. Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 55, tr.345-348, 02/12/2019 , Những thành tựu nổi bật
của đất nước sau 10 năm Đổi mới ,Nxb.Chính trị Quốc gia, năm 2015.
/>3. PGS, TS. VŨ TRỌNG LÂM ,05/06/2021, Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng
Trung ương – một phần tư thế kỷ không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động
Https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieudiem?zarsrc=30&utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo#
4 Những thành tựu đổi mới của đất nước , Văn kiện Đảng tồn tập , Nxb.Chính trị Quốc
gia, năm 2015
5 PGS, TS BÙI ÐÌNH PHONG 18-05-2021 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .
/>
23



×