TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH
--------------
BÀI THẢO LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tên đề tài: Trình bày cơ sở hình thành TTHCM. Trong
các nhân tố tạo thành TTHCM, nhân tố nào đóng vai trị
quyết định đối với bản chất KH và CM của TTHCM
Nhóm thực hiện: 01
Mã lớp học phần: 2187HCMI0111
Giảng viên:
Hà Nội – 2021
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta, con người Việt Nam ta đang được sống dưới mái nhà bình yên, được
độc lập tự do, từ đâu mà chúng ta có được điều đó đây? Đó chính là nhờ cơng lao to
lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta, Người đã
vạch ra con đường cứu nước đúng đắn, Người không chỉ khai thơng bế tắc trong
đường lối giải phóng dân tộc, mà còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực
hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu nhất của cách mạng nước ta. Chính đường lối cách
mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Người đã tạo nên sức mạnh
tổng hợp và phát huy tác dụng, đưa tới những thắng lợi rực rỡ của cách mạng nước ta.
Nói đến Hồ Chí Minh là nói đến những điểm tương đồng mẫu số chung của nhân loại
dù trong thời kỳ giải pháp chế độ thực dân giải phóng thuộc địa hay trong cơng cuộc
kiến thiết đất nước xây dựng xã hội mới dù trong thời kỳ “chiến tranh lạnh” hay trong
thế giới tồn cầu hóa. Rõ ràng là trong thế giới ngày nay khó tìm đâu ra một nhân vật
đã trở thành “huyền thoại hay khi còn sống” một con người hội đủ khát vọng của các
dân tộc dù màu da tiếng nói chủng tộc tơn giáo văn hóa khác nhau. Cả cuộc đời của
Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, về phẩm chất, phong cách của
người chiến sĩ cộng sản, luôn lo trước nỗi lo của nhân dân, vui sau niềm vui của nhân
dân. Di sản của Người - tư tưởng Hồ Chí Minh là kho tàng quý báu của Đảng và dân
tộc Việt Nam. Được hình thành và phát triển, đáp ứng đòi hỏi tất yếu khách quan của
dân tộc và thời đại, của với thực tiễn ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn ln có giá
trị bền vững và đúng đắn. Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô giá sẽ mãi mãi
soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta của nhân dân ta chúng ta phải tiến
hành cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” một cách
sâu rộng thực thiết thực hiệu quả trong hệ thống chính trị và trong tồn xã hội khơi
dậy và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp cạnh đấu tranh khắc phục sự
3
suy thối về chính trị tư tưởng đạo đức lối sống chặn đứng đẩy lùi tệ quan để lùi tệ
quan liêu tham nhũng lãng phí và các tệ nạn xã hội. Chính vì vậy, nhóm 1 đã tiến hành
nghiên cứu đề tài “ Trình bày cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong các nhân
tố tạo thành tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân tố nào đóng vai trị quyết định đối với bản
chất khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh ” để làm sáng tỏ vấn đề trên.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Theo nghĩa phổ thông nhất, tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu
hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh. Trong thuật ngữ tư tưởng Hồ Chí
Minh khái niệm tư tưởng ở đây khơng phải là ý thức tư tưởng của một cá nhân một
cộng đồng mà có nghĩa là một hệ thống những quan điểm quan niệm luận điểm được
xây dựng trên một nền tảng triết học thế giới quan và phương pháp luận nhất quán đại
biểu cho ý chí nguyện vọng của giai cấp một dân tộc được hình thành trên cơ sở lý
luận chính đáng và tồn diện.
Trải qua bao nhiêu năm dân tộc ta kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm cho đến
thời bình, chúng ta lại phải đối mặt với giặc đói, giặc dốt và các thế lực phản động
ln âm mưu tìm cách đánh đổ Đảng ta. Bên cạnh đó đất nước cũng ngày một “thay
da đổi thịt”, đã hịa mình vào dịng chảy của Thế giới. Và trong một thời đại mới
chúng ta vẫn thấy được vai trò của Đảng lãnh đạo dưới sự soi sáng của Tư tưởng
HCM. Có thể nói TTHCM chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể của đất nước ta. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam từ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa là kết quả của sự vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta đồng thời là
sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp
giải phóng con người”
Từ khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh ta có thể hiểu rõ ràng rằng tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc. Tư tưởng của Người là một
4
hệ thống thống nhất như một cơ cấu hoàn thiện, trong đó bao gồm các luận cứ, luận
điểm về các giai đoạn cách mạng Việt Nam. Các quan điểm đó bao gồm:
- Tư tưởng về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
- Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. - Tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế .
- Tư tưởng về dân chủ và xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Tư tưởng về văn hóa , đạo đức và xây dựng con người mới.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Cơ sở thực tiễn
2.1.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia phong kiến độc lập
với nền nơng nghiệp lạc hậu, trì trệ. Quyền lực nhà nước tập trung trong tay vua, quan
lại phong kiến và hệ thống bộ máy trấn áp nhân dân, quyền chiếm hữu ruộng đất và
bóc lột địa tơ hồn tồn do địa chủ, cường hào trực tiếp nắm giữ. Năm 1858 thực dân
Pháp xâm lược nước ta. Sau một thời gian kháng cự yếu ớt, triều đình nhà Nguyễn đã
kí với Pháp các hiệp ước: Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), Hiệp ước Giáp Tuất (1874),
Hiệp ước Harmand (1883) và Hiệp ước Patenơtre (1884). Với những hiệp ước trên,
tồn bộ lãnh thổ và quyền hành của Việt Nam mà đại diện là Triều đình Huế đều rơi
vào tay thực dân Pháp. Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và
giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân
dân ta mất nước trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vơ cùng khổ cực. Chúng
dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp, khủng bố
mọi sự chống đối; dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ với ba chế
độ thống trị khác nhau. Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập các đồn
điền cao su, cà phê, chè...) và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sắt, thiếc, vàng...) để
thu lợi nhuận nhiều và nhanh. Tư bản Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường
bộ, đường sắt, phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến; độc quyền ngoại thương.
Ngân hàng Đông Dương của Pháp độc quyền tài chính, đặt ra hàng trăm thứ thuế, tàn
5
ác nhất là thuế thân; thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi. Kết quả là nền kinh
tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ nghĩa nhưng là nền
kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp. Thực dân Pháp thực hiện chính
sách nơ dịch văn hố; xố bỏ hệ thống giáo dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục
thực dân hạn chế. Pháp mở nhà tù, trại giam nhiều hơn trường học; khuyến khích các
hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, hạn chế xuất bản sách báo, gây tâm lý
tự ti dân tộc. Kết quả là hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thơng tin tiến
bộ từ bên ngoài. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, Việt Nam từ một quốc gia
phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến với hai mâu thuẫn cơ
bản: mâu thuẫn dân tộc (giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai);
mâu thuẫn giai cấp (giữa nông dân với địa chủ, công nhân với tư sản,...)
Với truyền thống yêu nước nồng nàn, ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược,
nhân dân ta đã liên tục đứng lên chống lại bọn cướp nước và bè lũ bán nước; Các
phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ yếu diễn ra theo hệ tư tưởng
phong kiến và hệ tư tưởng tư sản, tiêu biểu có phong trào Cần Vương, phong trào
nông dân Yên Thế (theo hệ tư tưởng phong kiến), phong trào Đông Du, phong trào
Duy Tân (theo hệ tư tưởng tư sản),v.v... Các phong trào này đều thể hiện sự tiếp nối
truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân ta, nhưng đều đi đến kết cục thất bại;
Nguyên nhân thất bại là do thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, do khủng hoảng
về giai cấp lãnh đạo,v.v..). Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm
trọng về đường lối cứu nước. Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn
bị thành lập Đảng và phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.
2.1.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Trong khi con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi tới, việc cứu
nước như trong đêm tối “khơng rõ đường ra” thì lịch sử thế giới trong giai đoạn này
lại đang có những chuyển biến to lớn. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa
tư bản trên thế giới đã phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa. Một số nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Nga, Nhật
Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan v.v… đã chi phối tồn bộ tình hình thế giới. Ngày 1-81914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh này gây ra những hậu
6
quả đau thương cho nhân dân các nước (khoảng 10 triệu người chết và 20 triệu người
tàn phế do chiến tranh). Phần lớn các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh đã
trở thành thuộc địa và phụ thuộc vào các nước đế quốc.
Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lịng chủ nghĩa tư bản là
mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc
với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc.
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh đặt
ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng
của giai cấp cơng nhân đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ
nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác- Lênin.
Sang đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn này ngày càng phát triển gay gắt. Giành độc
lập cho dân tộc thuộc địa không chỉ là đòi hỏi của riêng họ, mà còn là mong muốn
chung của giai cấp vơ sản quốc tế; tình hình đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới phát triển. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là
thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác - Lênin ở một nước lớn rộng một phần sáu thế
giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ
phong kiến, lập nên một xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Cách mạng Tháng Mười Nga
mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên
thế giới.
Ngày 2/3/1919, Quốc tế Cộng sản ra đời ở Mát-xcơ-va trở thành Bộ tham mưu
lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới. Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa
thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ
nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công
bố tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh
giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức
trên lập trường cách mạng vô sản. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc tế cộng sản đẩy
mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười
Nga ra khắp thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ của các
Đảng cộng sản ở nhiều nước. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của
7
nhà nước Xô Viết, Quốc tế cộng sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản, cơng nhân và phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra
thế giới tìm mục tiêu và con đường cứu nước.
2.2. Cơ sở lí luận
2.2.1. Giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam
Trong những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì tinh thần yêu
nước Việt Nam là truyền thống tốt đẹp nhất, là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân
tộc, là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần Việt Nam, là sức mạnh, là lẽ sống,
niềm tự hào và là đạo lý làm người của con người Việt Nam, như có lần Chủ tịch Hồ
Chí Minh tổng kết: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi
nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Chủ nghĩa yêu
nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó
là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại vượt qua mọi khó khăn trong
dựng nước và giữ nước mà phát triển. Chính chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng,
điểm xuất phát và động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước, và tìm
thấy ở chủ nghĩa Mác Lê-nin con đường cứu nước, cứu dân. Hồ Chí Minh đã chú ý kế
thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập, tự do của Tổ quốc
nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam. Trong Tun ngơn độc lập, Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới :
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự
do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Khơng có gì quý hơn độc lập
tự do – chân lý lớn của thời đại được Hồ Chí Minh khẳng định, đồng thời cũng chính
là một điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong lãnh đạo nhân dân Việt Nam
xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí Minh hết sức chú trọng kế thừa, phát triển
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là yêu nước gắn liền với u
dân, có tinh thần đồn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng và hoà hiếu với các
8
dân tộc lân bang; tinh thần cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương
người của dân tộc Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất,
là nhân tố quyết định thành công của cách mạng, dân là gốc của nước, nước lấy dân
làm gốc, gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân, đoàn kết dân
tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế là một nguyên tắc chiến lược quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm
tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán và những giá
trị tốt đẹp khác của dân tộc. Đó chính là một cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm chất
của nhà văn hố kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hoá là mục tiêu, động lực
của cách mạng, cần giữ gìn cốt cách văn hố dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại, xây dựng nền văn hố mới của Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh là một
biểu tượng cao đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hố phương Đơng và phương Tây.
2.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
a. Tinh hoa văn hóa phương Đơng
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo như: triết
lý hành động, tư tưởng nhập thể, hành đạo giúp đời, là tư tưởng về một xã hội bình trị,
là triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính, ai cũng lấy tu thân làm gốc, là tư tưởng đề cao
văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học
Về Phật giáo: Người đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị tha, từ
bi, bác ai, cứu khổ cứu nạn, là nếp sống có đạo đức, trong sạch giản dị, chăm lo làm
điều thiện, là tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt
đẳng cấp, là đề cao lao động chống lười biếng, không xa lánh việc đời mà gắn với
nhân dân, gắn với đất nước, tham gia vào cộng đồng, tham giao và đấu tranh cùng
nhân dân chống kẻ thù dân tộc. Đây là cái đẹp, điều cốt lõi của Phật giáo.
Đối với Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử,
khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên, hơn nữa
phải biết bảo vệ mơi trường sống. Người cịn chú ý kế thừa phát triển tư thưởng thoát
mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão giáo: khuyên cán bộ, đảng viên ít lịng
tham muốn về vật chất, thực hiện cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư; hành động theo
đạo lí với ý nghĩa là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội.
9
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư tưởng, văn hóa
phương Đơng của Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quân Tử...để giải quyết những vấn đề thực
tiễn của cách mạng Việt Nam thời hiện đại. Và, Hồ Chí Minh cũng chú ý tìm hiểu
những trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa
Găngđi, chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo
các quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng
dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập – Tự do – Hạnh phúc của con
người và dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản.
b. Tinh hoa văn hóa phương Tây
Ở Mỹ: Hồ Chí Minh tiếp thu ý chí và tinh thần đấu tranh vì độc lập của nhân dân
Mỹ, tiếp thu các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong
Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776. Ở Anh, Pháp: Người rèn luyện trong
phong trào công nhân, tiếp thu với nhiều tác phẩm của các nhà tư tưởng tiến bộ. Tiếp
thu các tư tưởng về bình đẳng, tự do, bác ái qua các tác phẩm của các nhà khai sáng.
Tiếp thu các giá trị của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của đại cách mạng
Pháp. Ngoài ra, Nguyễn Ái Quốc còn tiếp thu được tư tưởng dân chủ và hình thành
được phong cách dân chủ của mình trong thực tiễn. Và Người khơng đồng nhất chủ
nghĩa đế quốc Pháp với dân Pháp u chuộng hịa bình. Đó là cơ sở quan trọng của
đồn kết quốc tế.
2.2.3. Chủ nghĩa Mác- lênnin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu tư tưởng vĩ đại của nhân loại do C. Mác và Ph.
Ăngghen đặt nền móng vào đầu thế kỷ XIX, được V.I. Lênin kế tục, phát triển từ cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác - Lênin phơi bày bản chất sâu xa nhất,
những mâu thuẫn cố hữu nhất tồn tại trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dự đốn chính
xác xu hướng vận động của các hình thái kinh tế - xã hội để đi đến khẳng định tương
lai của nhân loại là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, đây là học thuyết khoa học,
cách mạng và nhân văn duy nhất đề ra mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,
giải phóng con người và chỉ rõ lực lượng, con đường, phương thức nhằm đạt được
mục tiêu đó.
10
Kế thừa những thành tựu lý luận vĩ đại của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, trên cơ sở kế thừa và phát huy
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Chủ nghĩa
Mác - Lênin đưa Hồ Chí Minh đến với con đường cách mạng vô sản. Người đã từng
khẳng định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và
nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim
chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi
tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Cho đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin
cùng những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh vẫn giữ vai trị quyết định tới quá trình
Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới tại Việt Nam bởi nó
tiếp tục soi sáng những vấn đề lý luận để giải quyết kịp thời các vấn đề thực tiễn đặt
ra, đưa nước ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội.
2.3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
2.3.1. Phẩm chất Hồ Chí Minh
Đặc trưng cơ bản và thiết yếu ở nhân cách của Hồ Chí Minh được thể hiện ở sự
khâm phục, đánh giá cao của xã hội, ở niềm tin và sức sống bất diệt bởi những giá trị
làm người, giá trị xã hội mà nhân cách Hồ Chí Minh đã được các thế hệ người Việt
Nam và nhân loại trên hành tinh chúng ta thừa nhận Người là vị lãnh tụ tối cao của
dân tộc Việt Nam; là người anh hùng dân tộc vĩ đại; là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế; là danh nhân văn hóa kiệt xuất; chính khách vĩ đại và
tiêu biểu. Hồ Chí Minh đã đi gặp C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin hơn bốn thập kỉ;
song nhân cách làm người đạt đến chiều sâu nhất là nhân cách văn hố Hồ Chí Minh
vẫn tỏa sáng, sống mãi trong nhận thức, tình cảm và hành động của hàng triệu con
người. Phẩm chất tiêu biểu thứ hai ở nhân cách văn hố Hồ Chí Minh là chí hướng,
nhân sinh quan, thế giới quan khoa học, lý tưởng sống, niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp
cứu dân, cứu nước, sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân lao
động toàn thế giới. Chí hướng ấy, niềm tin ấy bộc lộ ngay khi Người ra đi tìm đường
11
cứu nước cho đến khi Người từ biệt chúng ta trở về cõi vĩnh hằng. Chí hướng ấy, niềm
tin ấy đã được chính Người, những bạn bè và đồng chí của Người, được nhân dân Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Người, biến thành sự thật. Phẩm chất nhân cách văn hố
thứ ba ở Hồ Chí Minh là tình u quê hương, đất nước, yêu nhân dân sâu sắc gắn liền
với lý tưởng và tình cảm cách mạng của Người. Vì quê hương, đất nước, vì nhân dân
mà Người làm cách mạng, làm chính trị. Mặt khác, Người cũng xác định rõ ràng là chỉ
có làm cách mạng, làm chính trị mới đảm bảo thực sự cho lý tưởng vì nước, vì dân
được thực hiện. Với chí hướng và lập trường như vậy, cho nên trong cuộc đời hoạt
động cách mạng, hoạt động chính trị của mình, Hồ Chí Minh có quan niệm thống nhất
và cách giải quyết đúng đắn, thành công giữa vấn đề dân tộc và giai cấp; quốc gia và
quốc tế. Đây cũng là cơ sở để chúng ta hiểu được vì sao cả nhân loại (ngay cả kẻ thù
của cách mạng) cũng phải khâm phục, kính trọng Người, đánh giá rất cao về Người.
Nét đặc sắc nhất ẩn chứa trong nhân cách Hồ Chí Minh làm thành nét chói sáng tiêu
biểu của tư tưởng Hồ Chí Minh là tính đồng bộ, hệ thống. Hệ thống đồng bộ trong
những quan hệ tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, chuyển hóa thành nhau của
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tức là các chiều cạnh của cuộc sống xã hội. Đây
chính là khái niệm mới về nền văn minh. Trong những phẩm chất tạo nên nhân cách
văn hố ở Hồ Chí Minh là tầm vóc và hiểu biết cao về lý luận cách mạng; khả năng
vận dụng lý luận vào thực tiễn một cách sáng tạo là một phẩm chất cơ bản và cốt lõi.
Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân loại một di sản lý luận to lớn, sâu sắc bao trùm nhiều
lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục. Những tư tưởng, quan niệm
của Người thường rất khái quát, rõ ràng và cụ thể; dễ giúp cho mọi người học tập, vận
dụng vào thực tiễn. Di sản ấy là kết quả của việc tiếp thu những tinh hoa của văn hóa
dân tộc và nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhân cách văn hố Hồ Chí Minh là
nhân cách của một chiến sĩ cách mạng bình dị nhưng cao đẹp, tiêu biểu và vĩ đại.
Nghiên cứu nhân cách văn hố Hồ Chí Minh là một cơng việc khó và địi hỏi phải có
thời gian, song là một công việc hết sức cần thiết cho công cuộc đổi mới đất nước
hôm nay. Cũng như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định: Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động. Nhân cách văn hố Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ sống mãi trong sự nghiệp
cách mạng dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ.
12
2.3.2. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lí luận
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ toàn tài. Vừa tài vừa đức. Tài năng của
Người được thể hiện trên quá trình hoạt động cách mạng, tìm ra con đường giải phóng
dân tộc, người cầm lái vĩ đại, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao
thác ghềnh, đưa nước ta từ một nước thuộc địa thành một quốc gia độc lập, tự do. Đầu
tiên phải kể đến sự am hiểu sâu sắc của Người về chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực
dân. Người hoạt động ở nước ngoài 30 năm, nghiên cứu và tìm hiểu từ tài liệu, sách,
báo, ra-đi-ơ,... Nhưng những hiểu biết của người khơng chỉ dừng lại ở đó, mà còn ở
cuộc sống và các hoạt động thực tiễn của các nước đế quốc, thực dân. Người nhìn thấu
được bản chất, thủ đoạn của chúng, và Người cũng hiểu được hoàn cảnh của người
dân các nước thuộc địa châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh. Sau gần 10 năm ở nước ngồi,
Hồ Chí Minh đã nắm bắt được chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại
mình. Khơng chỉ hiểu rõ, người cịn trực tiếp tham gia vào phong trào giải phóng xã
hội, bằng việc tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, hoạt động trong Đảng cộng sản
Trung Quốc, phong trào cộng sản quốc tế ở nhiều nước, chuẩn bị nhiều mặt cho sự ra
đời của Đảng cộng sản Việt Nam sau này,... Không chỉ vậy, Người cịn có khả năng
tổng kết và phát triển lý luận từ thực tiễn mà mình nhìn ra được. Trong hành trình tìm
đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình trên thế
giới và rút ra kết luận: Một cuộc cách mạng thành công thì “quyền phải giao cho dân
chúng số nhiều”, “chớ để trong tay một bọn ít người” và dân chúng phải “được hưởng
cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật” (“Đường kách mệnh”, 1927)
Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ bản chất, giá trị cốt lõi của Chủ nghĩa Mác-Lênin là
làm cách mạng để đi đến xây dựng một chế độ xã hội, trong đó “nhân dân là người
chủ” .Nhờ con mắt xa rộng có tầm bao quát lịch sử và thời đại đó, Người đã khai phá
ra con đường cách mạng chưa từng có trong cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc – con đường gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, từ đó
khơi dậy được tồn bộ sức mạnh trí tuệ, tài năng của dân tộc và của thời đại, đưa tới
thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam và mở ra cao trào giải phóng
dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX. Người là một con người tồn tài, lỗi lạc, một
thiên tài trí tuệ hiếm có, với sự nắm vững khoa học Mác – Lê-nin – quy luật vận động
13
và phát triển của lịch sử, những hoạt động thực tiễn phong phú trên nhiều lình vực cả
trong và ngồi nước là tiền đề quan trọng hình thành nên hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh.
CHƯƠNG 3: NHÂN TỐ ĐĨNG VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH ĐỐI VỚI
BẢN CHẤT KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
14
Chủ nghĩa Mác- Lênin chính là nhân tố quan trọng nhất, giữ vai trị quyết định
trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận điểm này được
chứng minh qua các lý do sau:
3.1. Chủ nghĩa Mác lênin là một hệ thống lí luận khoa học thống nhất
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học thống nhất của ba bộ
phận cấu thành không thể tách rời là Triết học Mác - Lênin; Kinh tế chính trị học Mác
- Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Triết học là khoa học về những quy luật phổ biến chung nhất của sự vận động, phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; trang bị cho con người thế giới quan
duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật đúng đắn để nhận thức và cải
tạo thế giới.
Kinh tế chính trị học nghiên cứu quan hệ giữa người với người trong q trình sản
xuất để thấy được bản chất bóc lột của chủ nghĩa Tư bản đối với giai cấp công nhân,
xóa bỏ bóc lột gắn liền với xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự chuyển
biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến xã hội tư bản
chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa và phương hướng xây dựng xã hội mới vạch ra
quy luật phát sinh, hình thành, phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa, những điều kiện, tiền đề, nguyên tắc, con đường, học thức, phương pháp của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động để thực hiện sự chuyển biến xã hội từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cộng sản.
Như vậy, Chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, của các Đảng cộng sản và cơng nhân trong đấu tranh xóa bỏ mọi
áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ
nghĩa Mác - Lênin với bản chất Cách mạng và khoa học của nó giúp Hồ Chí Minh
chuyển biến từ chủ nghĩa u nước khơng có khuynh hướng rõ rệt thành người cộng
sản, chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, thấy vai trò của quần chúng nhân dân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
15
cơng nhân, liên minh cơng – nơng - trí thức và vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản
trong cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng
con người, bảo đảm thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
3.2. Chủ nghĩa Mác-lênin là thế giới quan, phương pháp luận của tư tưởng Hồ
Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin, mà hạt nhân lý luận là triết
học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ
sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguyễn Ái Quốc đã
vận dụng thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng trong việc tiếp thu,
kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại và chuyển hóa được những điều hiểu biết quý báu
đó để xây dựng được hệ tư tưởng riêng của mình.
Hồ Chí Minh đã khơng rập khn những tư tưởng cũ bởi chúng có chứa đựng
những yếu tố duy tâm, lạc hậu nhưng Người cũng khơng “phủ định sạch trơn” vì
những tư tưởng ấy cịn có cả những yếu tố duy vật, tích cực, như vậy Hồ Chí Minh đã
tiếp thu một cách có kế thừa và phát triển, theo đúng tinh thần của chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của mình đối với việc học tập, tiếp thu
những học thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã hội, tơn giáo trong lịch sử. Người nói:
"Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo Giê-su
có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm
việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp
với điều kiện nước ta…". Hồ Chí Minh đã phê phán, gạt bỏ tư tưởng đẳng cấp, khinh
lao động chân tay, khinh phụ nữ,…của Nho giáo nhưng Người cũng đã tiếp thu triết lý
hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời,…; trong nội dung xây dựng nền
đạo đức mới, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của các tư tưởng
đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho giáo như: trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần,
kiệm, liêm, chính,… và đạo đức phương Tây từ thời cổ đại Hy Lạp – La Mã, như: dân
chủ, tự do, công bằng, bác ái,…, nhưng đã đưa vào đó những nội dung mới, cùng là
“Trung”, “Hiếu” nhưng nếu trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương
Đông, trung là trung với vua, hiếu là hiếu với cha, mẹ thì với Hồ Chí Minh, trung là
trung với nước – trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước của dân tộc, hiếu
16
là hiếu với dân – gắn bó với dân, kính trọng dân, giúp đỡ dân, phục vụ và hướng dẫn
nhân dân. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới
thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại.”
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo ra bước chuyển trong nhận thức của Hồ Chí Minh, từ
đó Người tìm ra con đường giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn các vấn đề thực
tiễn đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đối với Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng có nghĩa là đến với con đường cách mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm
thấy con đường cứu nước chân chính, triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc,
khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản" và "chỉ có giải phóng
giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể
là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới". Sơ thảo lần thứ nhất
nhưng luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin đã diễn đạt một cách
đầy đủ và sâu sắc những điều mà Hồ Chí Minh lúc bấy giờ đang nung nấu, đã giúp
Người tìm ra con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó
là bước chuyển lịch sử trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân
tộc mình trong sự nghiệp giải phóng tất cả các dân tộc, đồng thời cũng đánh dấu bước
ngoặt mới của cách mạng nước ta, mở ra bước chuyển biến cho bao thế hệ người Việt
Nam: từ người yêu nước thành người cộng sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin, những phạm trù cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận Mác-Lênin,
đó là quan điểm về vấn đề dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc, chủ nghĩa xã hội,
con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, về Đảng Cộng sản, về Nhà nước,…
3.3. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong tư tưởng Hồ
Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là “kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, nhưng Người khơng tiếp thu một cách máy móc mà
17
có sự chọn lọc, kế thừa những giá trị tốt đẹp. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của
mình đối với việc học tập, tiếp thu những học thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã hội,
tơn giáo trong lịch sử. Người nói: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng
đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác
có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm
là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê-su, C. Mác, Tôn
Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc
cho loài người, mưu hạnh phúc lợi cho xã hội...". Tơi cố gắng làm người học trị nhỏ
của các vị ấy". Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lênin,
bắt nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với
chủ nghĩa Mác - Lênin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa truyền
thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác - Lênin, trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngay từ năm 1924, sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở
thành một cán bộ của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã
vạch rõ sự khác nhau giữa thực tiễn của các nước tư bản phát triển ở châu Âu mà C.
Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đã chỉ ra với thực tiễn Việt Nam - một nước thuộc
địa, nửa phong kiến, nông nghiệp, lạc hậu ở phương Đơng. Do đó, cần bổ sung, phát
triển chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử phương Đông. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung
Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản, Người viết: "Cuộc đấu tranh giai cấp không
diễn ra giống như ở phương Tây... Dù sao thì cũng khơng thể cấm bổ sung "cơ sở lịch
sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình
khơng thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định
của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là
tồn thể nhân loại... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phương Đơng. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xơ viết đảm nhiệm".
Việc tiếp thu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh là cả q
trình gắn với hoạt động thực tiễn, kết hợp lý luận với thực tiễn, xuất phát từ những yêu
cầu của thực tiễn. Người nhấn mạnh rằng, việc học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin, trước hết phải nắm vững "cái cốt lõi", "linh hồn sống" của nó là phương pháp
18
biện chứng; học tập "tinh thần, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa
Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho
tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta". Từ những vấn đề có
ý nghĩa phương pháp luận thể hiện tư duy độc lập, sáng tạo, Hồ Chí Minh trong suốt
cuộc đời của mình đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam và tạo ra một hệ thống luận điểm mới, sáng tạo, hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh. Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm
về chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người là
"Bản án chế độ thực dân Pháp" và "Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương" đã
vạch trần bản chất và những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man của chủ nghĩa
thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ nỗi đau khổ, của kiếp nô lệ,
nguyện vọng khát khao được giải phóng và những cuộc đấu tranh của các dân tộc
thuộc địa. Đây là những tài liệu “có một khơng hai” về chủ nghĩa thực dân; ở đó, sự
phân tích về chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí Minh đã vượt hẳn những gì mà những
nhà lý luận mác-xít đề cập đến. Hồ Chí Minh là người chiến sĩ tiên phong trong phê
phán chủ nghĩa thực dân, đồng thời cũng là người lãnh đạo dân tộc mình thi hành bản
án chơn vùi chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa
thực dân trên toàn thế giới
Thứ ba, Hồ Chí Minh đã bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác –
Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh có những đóng góp, bổ sung quan trọng, góp phần làm
phát triển, phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin, thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:
- Hồ Chí Minh đã khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa khơng hồn tồn phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở các nước chính quốc, nhân
dân các dân tộc ở các nước thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình và
cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước. Đây là những cống hiến quan trọng vào kho
tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Xuất phát từ tình hình ở các nước tư bản, Lênin đã nêu luận điểm Đảng Cộng sản
là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào cơng nhân. Xuất phát từ
tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy việc ra đời của Đảng Cộng sản ở đây nếu
chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào cơng nhân thì chưa đủ, vì giai cấp
19
cơng nhân cịn nhỏ bé và phong trào cịn non yếu, do đó phải kết hợp cả với phong
trào yêu nước rộng lớn của các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đây là những luận điểm mới của Hồ
Chí Minh, bổ sung vào học thuyết về Đảng Cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Các Mác, Ăng-ghen xác định, quần chúng làm cách mạng là giai cấp công nhân,
nông dân. Lênin, trong cách mạng vô sản Nga, xác định quần chúng cách mạng là
công nhân, nông dân và binh lính. Đối với Hồ Chí Minh, lực lượng cách mạng là toàn
thể quần chúng nhân dân. Quan điểm này của Người khơng chỉ đúng trong cách mạng
giải phóng dân tộc mà còn trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay.
- Hồ Chí Minh chỉ rõ giải phóng dân tộc trước hết nhưng theo con đường cách mạng
vô sản, tức là độc lập dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH.
- Sáng tạo của Hồ Chí Minh là cụ thể hóa quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận
của V. I. Lênin trong điều kiện cụ thể của một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế kém
phát triển.
20
LỜI KẾT LUẬN
Tính khoa học và tính cách mạng sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được lịch
sử kiểm chứng. Trải qua những biến động của thời cuộc, tư tưởng Hồ Chí Minh càng
chứng tỏ giá trị và sức sống mãnh liệt của nó. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tinh hoa của
dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của Đảng ta và nhân dân ta. Dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân càng vững tin vào
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo. Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới ở
nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, những biến chuyển trên thế giới ngày càng lớn,
những vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng nhiều, đòi hỏi phải làm sáng
tỏ, thì việc nghiên cứu, học tập, bảo vệ, vận dụng và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
vào thực tế cuộc sống, trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong cơng tác chính
trị, tư tưởng, lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta…
Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã từng bước
đi vào nền nếp, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của mỗi cấp ủy, tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên, đóng góp quan trọng vào cơng tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, thúc đẩy việc tự giác nêu gương của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, nhất là
vai trò tiên phong, gương mẫu của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí
thư và Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; góp phần kiềm chế, ngăn chặn tình trạng
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến," "tự
chuyển hóa" trong nội bộ, tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Những kết quả nêu trên là nhân tố quan trọng, góp
phần vào sự thành cơng Đại hội XIII của Đảng, của công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là tài sản tinh thần quý báu của Đảng và
dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng
lợi.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mạch Quang Thắng, giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, 8/2019
2. Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Trị, Chuyên đề Quá trình thực dân Pháp
xâm lược Việt Nam và cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống Pháp
(1858-1884)
3. Kho tư liệu lịch sử, Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
4. />
mac-lenin-tu-tuong-ho-chi-minh-nen-tang-tu-tuong-kim-chi-nam-chohanh-dong-cach-mang-cua-dang-cong-san-viet-nam-4097.html