Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Trình bày quan điểm của cá nhân em về nội dung qui định tại khoản 2, điều 2 hiến pháp việt nam năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.71 KB, 12 trang )

Mục lục
A.

Đặt vấn đề 3

B.

Giải quyết vấn đề 3

I.

Tóm tắt nội dung bài viết: “Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước”

của tác giả Nguyễn Minh Đoan (Tạp chí Luật học, số 1/2001)”, (Không quá 3
trang) 3
II. Chỉ ra sự giống và khác nhau trong cách hiểu về quyền lực nhà nước giữa
tác giả bài viết trên và tác giả Nguyễn Văn Năm trong bài viết “Quyền lực nhà
nước và việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992” (Tạp chí
Luật học, số 4/2001).

6

1. Sự giống nhau 6
2. Sự khác nhau

7

III.Trình bày quan điểm của cá nhân em về nội dung qui định tại khoản 2, Điều
2 Hiến pháp Việt Nam năm 2013:“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.8


C.

Kết luận:

9

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 10


A.

Đặt vấn đề
Nhà nước là tổ chức quyền lực của xã hội, chỉ nhà nước có quyền lực

cơng đặc biệt này. Chính vì vậy, đây ln là vấn đề được cả xã hội quan tâm.
Hiện nay mỗi người có một cách nhìn nhận và hiểu khác nhau về quyền lực nhà
nước. Em xin thơng qua bài viết: “Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước”
của tác giả Nguyễn Minh Đoan (Tạp chí Luật học, số 1/2001)” và bài viết
“Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm
1992” (Tạp chí Luật học, số 4/2001) của tác giả Nguyễn Văn Năm. Em sẽ phân
tích để tìm hiểu rõ hơn về vấn quyền lực nhà nước.
B.

Giải quyết vấn đề

I.

Tóm tắt nội dung bài viết: “Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước”

của tác giả Nguyễn Minh Đoan (Tạp chí Luật học, số 1/2001)”, (Khơng q 3

trang)
Thơng qua bài viết tạp chí Luật học của tác giả Nguyễn Minh Đoan đã
trình bày những nhận thức cơ bản, chung nhất về quyền lực Nhà nước. Theo tác
giả thì quyền lực là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc các cá nhân
hay tổ chức khác phải phục tùng ý chỉ của mình.quyền lực sinh ra từ nhu cầu
phân công lao động xã hội và quản lí xã hội. Theo như tác giả viết thì quyền
lực Nhà nước là điều kiện, phương tiện cần thiết khách quan để đảm bảo sự
hoạt động bình thường của bất kì cộng đồng nào. Quyền lực thể hiện ở sự áp
đặt ý chí của chủ thể có quyền đối với chủ thể dưới quyền, mặt khác sức mạnh


của nó được xác định ở mức độ phụ thuộc, phục tùng của chủ thể dưới quyền
đối với ý chí của chủ thể có quyền. Trong đó cưỡng chế vừa là yếu tố của nội
dung quyền lực vừa là phương pháp mang tính quyết định để thực hiện quyền
lực ấy có sự kết hợp chặt chẽ với phương pháp thuyết phục. Quyền lực tổn tại ở
mọi cộng đồng có tổ chức, có mục đích của con người trong xã hội có giai cấp
hoặc khơng có giai cấp. Do vậy, trong xã hội tồn tại nhiều loại quyền lực khác
nhau. Mỗi chủ thể thường nằm trong nhiều mối quan hệ quyền lực khác nhau.
Quyền lực có quan hệ mật thiết với hoạt động quản lý. Theo như tác giả
Nguyễn Minh Đoan thì quyền lực Nhà nước là dạng quyền lực xã hội mang
tính ý chí, gắn với chủ quyền quốc gia, được thể hiện thông qua những định chế
nhà nước - pháp luật. Nó mang tính giai cấp và mục đích chính trị rõ ràng.
Quyền lực Nhà nước được biểu hiện cụ thể ở hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà
nước và những nguyên tắc vận hành của hệ thống đó tạo nên cơ chế thực hiện
quyền lực Nhà nước. Cơ chế đó hình thành và phát triển cùng với sự phát triển
của văn minh nhân loại, được cụ thể hóa ở mỗi quốc gia và phải tùy thuộc vào
điều kiện ở mỗi thời kỳ phát triển.Trong lịch sử đã có nhiều hình thức và cơ chế
thực hiện quyền lực nhà nước khác nhau. Trong chế độ quân chủ chuyên chế
thì thường dẫn đến sự độc đốn, lạm quyền, chun quyền. Khi quyền lực Nhà
nước phân định theo chiều dọc thì dẫn đến tình trạng phân quyền cát cứ. Để

tránh ba tình trạng ấy, phân chia quyền lực đã ra đời. theo đó, nhà nước ở trung
ương chia thành nhiều quyền mà chủ yếu chia thành ba quyền là lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Các quyền này giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau nắm
giữ và thực hiện để kiểm soát, chế ước lẫn nhau. Tuy nhiên, cơ chế phân quyền
của các nhà sản có sự khác nhau đã dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, xung đột
giữa các nhánh quyền lực và việc giải quyết những mâu thuẫn xung đột đó cịn
rất phức tạp và tốn kém. Để khắc phục những tình trạng trên và phù hợp với


bản chất, nhà nước xã hội chủ nghĩa đã tổ chức quyền lực theo nguyên tắc tập
trung thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp thực hiện quyền lực giữa
các cơ quan nhà nước một cách hợp lý. Thơng qua đó, tác giả Nguyễn Minh
Đoan đã nêu ra một số vấn đề nhận thức về nguyên tắc này thực hiện như thế
nào ở Việt Nam. Một số nhà khoa học cho rằng quyền lực nhà nước ở nước ta
tập trung thống nhất ở nhân dân. Còn một số nhà khoa học khác lại cho rằng
quyền lực nhà nước lại tập trung ở Quốc hội. Theo các quy định của Hiến pháp
và các đạo luật nước ta thì quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giai cấp công nhân với nông dân với tầng lớp trí thức. Tác giả đã
dẫn chiếu Điều 6 Hiến pháp 1992, tác giả đã nêu lên cơ chế ủy quyền, nhân dân
ủy nhiệm quyền lực của mình cho Quốc hội mà cịn có cả Hội đồng nhân dân
các cấp. Nhưng quyền lực tối cao của Nhà nước lại trao cho Quốc hội, do đó
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bởi vì quốc hội thay mặt
nhân dân quyết định những vấn đề cơ bản, trọng đại nhất của đất nước. Bên
cạnh hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước cịn có các cơ quan khác của Nhà
nước cùng thực hiện quyền lực nhà nước. Nhằm đảm bảo sự thống nhất, không
phân chia quyền lực, nên pháp luật nước ta quy định tất cả các cơ quan khác
của Nhà nước đều do hệ thống cơ quan quyền lực thành lập. Nhưng mà các cơ
quan này chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Với
cách tổ chức này, quyền lực nhà nước xét theo chiều ngang đảm bảo được sự
tập trung, thống nhất vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Nhờ vào sự

tập trung cần thiết đã đảm bảo được sự thống nhất của cơ chế thực hiện quyền
lực nhà nước và đã tránh được những mâu thuẫn xung đột giữa các cơ quan nhà
nước. Để đảm bảo việc quản lý toàn diện, thống nhất tất cả các mặt quan trọng
của đời sống xã hội cần thiết lập hệ thống các cơ quan nhà nước từ Trung ương
đến địa phương kết hợp theo ngành và theo lãnh thổ. Những cơ quan này thay


mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước ở các địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân. Để khơng dẫn đến tình trạng
phân quyền cát cứ như đã tồn tại trong chế độ phong kiến, thì phải đảm bảo sự
tập trung, thống nhất quyền lực từ trung ương đến địa phương. Nhờ vào những
quy định trên cho thấy quyền lực nhà nước được bảo đảm sự tập trung thống
nhất ở trung ương và bảo đảm sự bao trùm, rộng kháo địa phương. Pháp luật
quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước không phải “của
địa phương” mà ở địa phương”. Hội đồng nhân dân không chỉ chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương mà còn chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước
cấp trên. Như vậy tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhưng nhân dân
sử dụng quyền lực của mình thơng qua cơ quan Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp. Theo như tác giả thì quyền lực nhà nước địi hỏi phải được biểu
hiện cụ thể thơng qua mơ hình và cơ chế vận hành xác định. Đó là hệ thống các
cơ quan nhà nước và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động được pháp luật quy
định. Ở nước ta, xác định chủ thể cả quyền lực nhà nước là nhân dân chỉ là cái
gốc, điểm xuất phát của quyền lực nhà nước từ nhân dân. Nhưng chủ thể trực
tiếp mang và thực hiện quyền lực đó là Nhà nước. Nếu khơng có bộ máy nhà
nước thì quyền lực của nhân dân chưa phải là quyền lực nhà nước. Tác giả
Nguyễn Minh Đoan đã chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước tập trung thống nhất ở
nhân dân thì dẫn đến trong các nước có chính thể cộng hịa, nên quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân nhưng tập trung cơ quan đại diện cao nhất.
Theo ý kiến của một số nhà khoa học lại cho rằng quyền lực nhà nước
là không thể phân chia. Tác giả cho rằng nếu theo quan điểm này thì khơng nên

nói bộ máy nhà nước tư sản tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực. Là
thiết chế, mỗi cơ quan nhà nước đều thể hiện quyền năng của mình trong phạm
vi thẩm quyền của mình. Do đó nếu nói quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp


chỉ là quyền năng thì khơng có cơ sở thực tiễn. Theo đó, tác giả cho rằng chủ
quyền nhân dân thì khơng thể phân chia nhưng quyền lực mà các cơ quan nhà
nước mang và thực hiện thì có thể phân chia theo các yếu tố khác nhau, phải có
sự phân công, phối hợp với nhau. Điều này sẽ giữ vững được sự tập trung
thống nhất quyền lực, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của địa phương,
các cấp, các ngành, chống tình trạng quan liêu, chống tình trạng phân quyền cát
cứ. Trong bài viết, tác giả đã nêu ra những vấn đề mà cần hoàn thiện hơn nữa
bộ máy nhà nước ta hiện nay, đồng thời tác giả cũng đưa ra các giải pháp như:
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà
nước của nhân dân, nghiên cứu kỹ vấn đề quyền lực nhà nước để tìm ra được
cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước đảm bảo sự kiểm soát của nhân
dân với quyền lực nhà nước của mình; cải tiến cơng tác bầu cử làm cho q
trình bầu cử thực sự dân chủ; hồn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước
theo hướng cần phân công chuẩn xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho các
cơ quan nhà nước, xác định mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan với nhau,
giữa cơ quan nhà nước với nhân dân, với các tổ chức chính trị xã hội khác. Kết
thúc tạp chí, tác giả Nguyễn Minh Đoan đã khẳng định vấn đề quyền lực là vấn
đề phức tạp và việc vận dụng lý thuyết về quyền lực vào thực tiễn tổ chức và
thực thi quyền lực lại càng khó khăn và phức tạp hơn.
II. Chỉ ra sự giống và khác nhau trong cách hiểu về quyền lực nhà nước giữa
tác giả bài viết trên và tác giả Nguyễn Văn Năm trong bài viết “Quyền lực nhà
nước và việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992” (Tạp chí
Luật học, số 4/2001).
1. Sự giống nhau



Điểm giống nhau đầu tiên giữa hai tác giả Nguyễn Văn Nam và Nguyễn
Minh Đoan đó chính là khái niệm về quyền lực Nhà nước. Mặc dù hai tác giả
diễn đạt theo hai cách khác nhau, nhưng tóm gọn lại thì cả hai tác giả đều đưa
ra cách hiểu về quyền lực nhà nước nghĩa là khả năng của Nhà nước có thể
buộc các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải phục tùng ý chí của mình. Hai tác
giả mặc dù diễn đạt theo hai cách khác nhau, nhưng đều hướng về mục đích
làm rõ quyền lực nhà nước cũng tồn tại trong mối quan hệ giữa nhà nước với
các thành viên cũng như các cơ quan của nó, trong đó thành viên phải phục tổ
chức, cấp dưới phải phục tùng cấp trên. Không chỉ vậy, quyền lực ấy ln
mang tính giai cấp và mục đích chính trị rõ ràng, mà còn thuộc về giai cấp
thống trị và chủ yếu phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị. Khơng những thế hai
tác giả cịn chỉ ra quyền lực thể hiện sự áp đặt ý chí của chủ thể có quyền đối
với chủ thể dưới quyền, mặt khác, sức mạnh của nó được xác định ở mức độ
phụ thuộc, phục tùng của chủ thể dưới quyền đối với ý chí của chủ thể có
quyền.
Từ đây, hai tác giả cũng đã đưa ra những quan điểm về vấn đề quyền
lực Nhà nước là do chủ thể nào nắm giữ trực tiếp. Từ những quan điểm của hai
tác giả thì quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ Nhân dân ra, xuất phát từ nhân
dân chứ khơng phải cái vốn có của nhà nước, từ nhân dân giao quyền, nhân dân
ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho Nhà nước. Tác giả Nguyễn Minh
Đoan cho rằng tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhưng nhân dân sử
dụng quyền lực của mình thơng qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp,
còn tác giả Nguyễn Văn Năm thì lại diễn đạt rằng quyền lực nhân dân ln tồn
tại, trong xã hội chủ nghĩa nhân dân là người chủ của xã hội, có quyền quyết
định mọi vấn đề của xã hội. Nhưng không phải mọi vấn đề của cộng đồng xã
hội đều có thể đưa ra cho tồn thể cộng đồng xem xét, mà chỉ có thể quyết định


những vấn đề trọng đại của đất nước, còn những việc khác giao cho Nhà nước.

Từ đây hình thành sự ủy quyền của Nhân dân cho Nhà nước, nhân dân ủy
quyền cho nhà nước tổ chức và quản lí mọi mặt đời sống xã hội. Tuy hai tác giả
diễn đạt theo hai cách khác nhau về vấn đề để ngăn chặn nền độc tài chuyên
chế phong kiến thì hai tác giả đều chỉ cách khắc phục hai vấn đề này. Hai tác
giả đều chỉ rằng quyền lực nhà nước ở nhà nước là trong quá trình thực thi
quyền lực nhà nước thì giữa các cơ quan nhà nước phải có sự phân công phối
hợp với nhau.
2. Sự khác nhau
a. Cách hiểu về quyền lực Nhà nước
Tác giả Nguyễn Văn Năm cho rằng cần phải phân biệt rõ ràng hai khái
niệm là quyền lực nhà nước và quyền lực nhân dân. Quyền lực Nhân dân là
khả năng của nhân dân có thể bắt buộc nhà nước, các tổ chức khác của nhân
dân có thể bắt buộc nhà nước, các tổ chức khác của nhân dân hay mỗi thành
viên của cộng đồng phải phục tùng. Trong quyền lực này thì chủ thể của quyền
lực ở đây là nhân dân, đối tượng của quyền lực ấy là Nhà nước, Nhà nước phải
phục tùng Nhân dân. Còn quyền lực Nhà nước hiểu đúng nghĩa thì đó là quyền
lực của Nhà nước. Ở đây, trong mối quan hệ giữa cá nhân, tổ chức trong xã hội
thì nhà nước là chủ thể của quyền lực, cịn các cá nhân tổ chức là đối tượng của
quyền lực ấy. Tuy vậy Nhà nước chỉ có thể thực hiện được những công việc
nhất định. Mặc dù, tác giả Nguyễn Văn Năm cho rằng cần phải phân biệt rõ hai
khái niệm quyền lực nhà nước và quyền lực nhân dân, thì tác giả Nguyễn Minh
Đoan chỉ đưa ra khái niệm về quyền lực nhà nước.
b. Cách nhìn nhận khác nhau về bản chất của quyền lực Nhà nước.


Trong khi tác giả Nguyễn Minh Đoan cho rằng quyền lực nhà nước là
quyền lực thuộc về Nhân dân nhưng nhân dân thực hiện quyền lực ấy thông
qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Như vậy, nếu cho rằng quyền lực
của nhà nước ở nước ta tập trung thống nhất nhân dân chứ không phải ở Quốc
hội. cịn tác giả Nguyễn Văn Năm lại có quan điểm khác. Chính từ vấn đề

quyền lực nhà nước và quyền lực nhân dân mà tác giả đã chỉ ra bản chất của
quyền lực nhà nước là khi thực hiện quyền của mình, nhân dân dùng nhà nước
làm cơng cụ thay mặt nhân dân tổ chức và quản lí đời sống xã hội. Muốn thực
hiện quyền lực đó nhà nước phải có quyền lực, đó là quyền lực nhà nước, nhà
nước là chủ thể quyền lực ấy. Còn quyền lực nhân dân là loại quyền lực thuộc
về nhân dân, quyền lực Nhân dân thì ln ln tồn tại, là quyền lực tối thượng.
c. Vấn đề quyền lực nhà nước có thể phân chia hay khơng.
Vấn đề quyền lực nhà nước có thể phân chia hay không là vấn đề mà hai
tác giả đã nhìn nhận một cách khác nhau, mỗi tác giả đã đưa ra một quan điểm
riêng về vấn đề này như: Theo nhận thức của tác giả Nguyễn Văn Năm, sự
phân biệt lập pháp, hành pháp và tư pháp hồn tồn khơng phải là sự phân chia
quyền lực, mà đó chỉ là sự phân chia các khâu trong quá trình thực hiện quyền
lực nhà nước. Mặt khác tác giả Nguyễn Minh Đoan thì cho rằng quyền lực
nhân dân khơng thể phân chia nhưng có thể phân chia theo đơn vị lãnh thổ giữa
trung ương và địa phương hoặc giữa các cơ quan nhà nước theo chiều ngang.
Mặc dù hai tác giả Nguyễn Văn Năm, Nguyễn Minh Đoan đưa ra nhưng
nhận thức cũng như các quan điểm khác nhau về quyền lực nhà nước. nhưng
những quan điểm của cả 2 tác giả đều dựa trên luận cứ có cơ sở và đúng đắn.
Từ đó, cho chúng ta nhìn nhận một cách toàn diện hơn, chuẩn xác hơn


III. Trình bày quan điểm của cá nhân em về nội dung quy định tại khoản 2,
Điều 2 Hiến pháp Việt Nam năm 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.
Thực tế Điều 2 Hiến pháp Việt Nam năm 2013: “Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân”. Cho thấy, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân

với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức. Do vậy, Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do dân, vì nhân dân. Không
những vậy nguyên tắc tại khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng
định nền tảng quyền lực nhà nước này chính là sự liên minh giữa giai cấp cơng
nhân với nơng dân và đội ngũ trí thức, cả ba tầng lớp này cùng đoàn kết, liên
minh với nhau thì mới có thể tạo nên quyền lực nhà nước, mới có thể thực sự
làm chủ được đất nước. Nếu thiếu một trong ba thành phần này, quyền lực nhà
nước không thực hiện trọn vẹn, đầy đủ. Điều này cũng nêu lên trách nhiệm của
Nhà nước là phải phục vụ lợi ích của nhân dân, mà trước hết là tầng lớp Nhân
dân lao động. Nhà nước phải là của tồn thể nhân dân mà khơng phải là của
riêng giai cấp, tầng lớp nào. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân nên quyền lực
của nhà nước cũng như của mọi cơ quan nhà nước đều nhận từ nhân dân, do
nhân dân ủy quyền cho nhà nước, nhà nước chỉ là công cụ để đại diện và thực
hiện quyền lực của tồn thể nhân dân. Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước do nhân dân, nói cách khác, nhân dân Việt Nam gồm
giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức và những người lao
động khác tổ chức thành nhà nước, Nhân dân Việt Nam trực tiếp bầu ra đại


biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân theo ngun tắc phổ thơng, bình
đẳng. trực tiếp và bỏ phiếu kín là những cơ quan đại biểu của nhân dân, đại
diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm
trước nhân dân, để phục vụ lợi ích của nhân dân. Nhân dân khơng chỉ lập ra các
cơ quan nhà nước mà cịn có thể trực tiếp làm việc trong các cơ quan đó để trực
tiếp nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước. Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm
2013 còn cho thấy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
vì nhân dân, tất cả mọi chính sách, pháp luật, hoạt động, mọi cố gắng của Nhà
nước Việt Nam vì lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân. Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân thì sẽ vì nhân dân, do vậy, các cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước Việt Nam phải luôn tôn trọng nhân dân, tận tụy

phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của nhân dân
C.

Kết luận:
Qua bài luận trên, em thấy được quyền lực nhà nước là thuộc về nhân

dân, do nhân dân ủy quyền cho nhà nước. Vấn đề này là một vấn đề phức tạp
và cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ các khía cạnh của quyền lực nhà nước và
để đạt được sự thống nhất về nhận thức là rất cần thiết.

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.“Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước” của tác giả Nguyễn Minh Đoan
(Tạp chí Luật học, số 1/2001).
2. Hiến pháp Việt Nam 2013.


3. “Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp
năm 1992” (Tạp chí Luật học, số 4/2001.
4 />5 Giáo trinh lí luận chung về nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản tư pháp,
trường đại học Luật Hà Nội
6

GT Luật hiến pháp, Nhà xuất bản tử pháp, Trường đại học Luật Hà nội
7

/>
nhung-diem-moi-trong-hien-phap-2013-ve-nha-nuoc-phap-quyen-o-vietnam.html




×