Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

giao duc tieu hoc cd dh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.65 KB, 3 trang )

Họ và tên: Ngô Thị Thủy Tiên
Lớp : THA-K5
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PPDH TIẾNG VIỆT 1
Việc thực hiện 3 nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở trường tiểu học
Nguyên tắc phát triển tư duy
Trong mọi giờ học giáo viên đều chú ý rèn các thao tác tư duy cho học sinh bằng cách đặt ra câu
hỏi, các vấn đề mà học sinh phải tư duy, phải vận dụng các thao tác phân tích, so sánh, tổng hợp, tư
duy logic khác để khái quát hoá thành những khái niệm, những tri thức về ngôn ngữ. Và từ những
kiến thức đã thu nhận được, các em, một lần nữa, lại vận dụng năng lực tư dưy lơgích của mình để
sử dụng những kiến thức đó trong giao tiếp bằng ngơn ngữ.Ví dụ như trong giờ học vần :
+ Phân tích vần mới học gồm âm nào, âm nào đứng trước âm nào đứng sau
+ So sánh vần mới học với vần đã học
+…
Riêng về phẩm chất tư duy nhanh, chính xác và tích cực thì cịn hạn chế.Đa số các em làm được
điều này là các em học sinh giỏi khá, các em học sinh cịn lại thì cịn tư duy chậm, hay bị sai. Nhiều
trường hợp tư duy khá nhanh nhẹn nhưng các em lại rụt rè không muốn phát biểu, thụ động trong
giờ học.
Đa số học sinh vẫn chưa hiểu được ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ. Cách hiểu của các em vẫn cịn
mang tính trực quan, chưa sâu , do chỉ được hiểu và hình thành như một thói quen. Có trường hợp
ghi nhớ một cách máy móc thì thực ra vẫn chưa hiểu được.
Giáo viên luôn tạo điều kiện cho học sinh nắm nội dung, các vấn đề cần nói trong mơi trường giao
tiếp cụ thể. Như bằng cách đặt câu hỏi cho học sinh phát biểu hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài là hệ
thống câu hỏi phát huy hết năng lực của từng cá nhân học sinh trong lớp, tạo điều kiện để tăng số
lượng học sinh được tư duy và giao tiếp trong giờ học, hay cho các em làm việc theo nhóm, hay cho
học sinh tự nhận xét bản thân; nhận xét học sinh khác. Giúp các em tự tin mạnh dạn và biết cách thể
hiện nội dung này bằng phương tiện giao tiếp ngôn ngữ.
Nguyên tắc giao tiếp
-Trong suốt các tiết dạy giáo viên luôn lấy giao tiếp làm mục đích, tổ chức nhiều hoạt động để hình
thành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho hs. Nhiều hoạt động cịn kết hợp cả ba kĩ năng , khơng
những giúp học sinh phát triển được cả ba kĩ năng mà còn giúp các em biết phối hợp cả ba kĩ năng


để giải quyết vấn đề.
-Đa số các tiết học đều chú ý đưa các đơn vị ngôn ngữ nhỏ vào các đơn vị ngôn ngữ lớn hơn, để
xem xét xem chúng hoạt động như thế nào. Nhưng chủ yếu vẫn là đưa vào chứ chưa xem xét chúng
hoạt động như thế nào, có những ngun tắc ra sao. Ví dụ học sinh lớp 1
+ tiết học vần các em được học qua câu hay đoạn ứng dụng, được luyện nói theo chủ đề
luyện nói.
+ tiết tốn các em sẽ tự hình thành lời nói qua việc đặt ra bài toán phù hợp
+ các tiết học khác giáo viên cũng chú ý đặt câu hỏi để học sinh trả lời theo hiểu biết của
các em
Tuy nhiên ở lớp 1 do vốn từ của các em chưa nhiều, nên việc xem xét này chỉ chủ yếu dựa trên lời
nói.
Giao tiếp ln được xem như một hoạt động chủ đạo trong các tiết dạy ở tiểu học qua nhiều hình
thức khác nhau, chủ yếu qua hoạt động nói năng. Học sinh giao tiếp với giáo viên: giáo viên hỏi học


sinh trả lời. Học sinh giao tiếp với học sinh : thảo luận theo nhóm, nhận xét học sinh khác. Hay các
em được luyện nói qua các tiết luyện nói, kể chuyện trước lớp. Luôn tạo điều kiện cho các em hình
thành lời nói hồn chỉnh của mình trong các cuộc hội thoại, trong các hình thức học tập khác nhau:
cá nhân, nhóm, lớp…
Nguyên tắc chú ý đến tâm lý và trình độ Tiếng Việt vốn có của hs
- Giáo viên nắm bắt được tâm lý của học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng khi
chuyển tiếp từ mẫu giáo lên tiểu học với các hoạt đơng vui chơi là chính chuyển sang hoạt
động học tập . Nên trong các tiết học đặc biệt là tiết Tiếng Việt , giáo viên luôn chú ý lồng
ghép các trò chơi vào hoạt động kiểm tra bài cũ, dạy bài mới hay củng cố kiến thức để thu
hút sự chú ý của học sinh, giúp các em hứng thú khi học tập. Ngồi ra vì tư duy của các em ở
lứa tuổi tiểu học cịn mang tính trực quan cụ thể nên luôn phải sử dụng đồ dùng dạy học như
tranh, ảnh , mơ hình, hay vật thật để học sinh quan sát, tìm hiểu dễ dàng,
- Trong khi dạy học các giáo viên cũng luôn quan sát, nắm bắt tình hình trình độ tiếng Việt
vốn có của học sinh từng lớp để đưa ra kế hoạch, phương pháp dạy học phù hợp. Vốn tiếng
Việt của học sinh được hình thành từ rất nhiều nguồn, gắn liền với mơi trường sống và giao

tiếp của các em. Vì vậy, nó vừa không đồng đều ở mọi đối tượng học sinh lại vừa phức tạp
ngay trong tự thân. Nó khơng chỉ có những yếu tố tích cực mà cịn có cả yếu tố tiêu cực về sự
hình thành và sự dụng trong giao tiếp. Chú ý trình độ tiếng Việt của học sinh chính là điều
tra, phân loại nắm vững các đặc điểm vốn tiếng Việt của các em để trên cơ sở đó đề ra những
phương pháp thích hợp nhằm ý thức hố, tích cực hố, bổ sung hồn thiện vốn kinh nghiệm
tiếng Việt của học sinh
- Áp dụng phương pháp dạy học tích cực, giáo viên cũng ln tạo mọi điều kiện tốt nhất để
học sinh chủ động hơn trong giờ học. Giáo viên gợi mở vấn đề, học sinh chủ động tháo gỡ
giải quyết vấn đề tự hình thành kiến thức cho bản thân.
Băn khoăn, thắc mắc của bản thân
Giáo viên vẫn còn làm việc thay học sinh nhiều trong các tiết học, khiến cho các em học sinh thụ
động tiếp thu kiến thức một theo cách máy móc.
Giải pháp: Giáo viên có thể áp dụng, lựa chọn một số phương pháp dạy học tích cực như sau:
a. Phương pháp vấn đáp: Là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời,
hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung
bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn
đáp:
* Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời
dựa vào trí nhớ, khơng cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được xem là phương pháp có giá trị sư
phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.
* Vấn đáp giải thích - minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó, giáo viên lần lượt
nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này
đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe - nhìn.
* Vấn đáp tìm tịi: Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng học sinh
từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự
ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa thầy với cả lớp,
có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định.
b. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm
và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công



trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp
phải trong học tập, khơng chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một
mục tiêu giáo dục và đào tạo. Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt
và giải quyết vấn đề thường như sau:
* Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức
* Giải quyết vấn đề đặt ra
* Kết luận: - Thảo luận kết quả và đánh giá;
c. Phương pháp hoạt động nhóm: Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tùy
mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được
duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những
nhiệm vụ khác nhau.
Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm
của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi
người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm
những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ
giáo viên. Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên, vì vậy
phương pháp này cịn gọi là phương pháp cùng tham gia.
d. Phương pháp đóng vai
* Cách tiến hành có thể như sau:
- Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời gian chuẩn
mực, thời gian đóng vai.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai.
- Vì sao em lại ứng xử như vậy?
- Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử?
- Lớp thảo luận, nhận xét: Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp? Chưa phù hợp
ở điểm nào? Vì sao?

- Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.
e. Phương pháp động não
* Cách tiến hành
- Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to.
- Phân loại ý kiến.
- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×