Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Pháp luật và đạo đức báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân trong luật báo chí năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.53 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Báo chí là sản phẩm thơng tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã
hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định
kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo cơng chúng thơng qua các loại hình
báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.
Báo chí ở nước ta là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã
hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của Nhân dân.
Trong hoạt động báo chí, có rất nhiều vấn đề thu hút được sự quan tâm
của mọi người, trong đó đặc biệt có liên quan đến các quyền của các công
dân, các nhà báo trong Báo chí. Do vậy đapps ứng những vấn đề mới đó, Luật
báo chí đã có những quy định mới nhằm đáp ứng được với những đòi hỏi của
thực tế khách quan trong hoạt động của các nhà báo và các tờ báo trong cả
nước trong giai đoạn hiện nay cũng như trong thời gian tới.
Quyền tự do ngôn luận trên báo chí của cơng dân là một trong những
nội dung cơ bản và quan trọng trong các quyền của mỗi một cơng dân trong
đất nước Việt Nam cũng như đóng góp một phần khơng hề nhỏ nhằm giúp
cho thực tiễn hoạt động báo chí của nước ta có được những căn cứ nhằm có
thể giải quyết các vấn đề trong thực tiễn khách quan.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn do vậy em đã lựa
chọn đề tài: “Quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân trong Luật
Báo chí năm 2016” để làm đề tài tiểu luận kết thúc môn với mong muốn sẽ
làm rõ được những vấn đề về quy định cũng như những điểm mới trong Luật
báo chí năm 2016.

1


NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT BÁO CHÍ NĂM 2016


1. Khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của báo chí
Báo chí là sản phẩm thơng tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã
hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định
kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo cơng chúng thơng qua các loại hình
báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí đó là:
Báo chí ở nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện
thơng tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan
Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của
Nhân dân.
Báo chí có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Thơng tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi
ích của đất nước và của Nhân dân;
Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước
và thế giới theo tơn chỉ, Mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn định
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn
hóa lành mạnh của Nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền
tự do ngôn luận của Nhân dân;
Phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới, điển hình tiên
tiến; đấu tranh phịng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng
tiêu cực trong xã hội;
2


Góp phần giữ gìn sự trong sáng và phát triển tiếng Việt, tiếng của các
dân tộc thiểu số Việt Nam;

Mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc, tham gia
vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, hữu nghị,
hợp tác, phát triển bền vững.
2. Khái quát về Luật Báo chí 2016
Luật Báo chí 2016 được Quốc hội khố XIII, kỳ họp thứ 11 thơng qua
ngày 5-4-2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2017. Luật Báo chí mới sẽ
tạo hành lang pháp lý quan trọng cho sự phát triển bền vững của sự nghiệp
báo chí cách mạng Việt Nam, đóng góp ngày càng xứng đáng vào cơng cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Luật Báo chí mới gồm 6 chương, 61 điều, tăng 25 điều so với Luật Báo
chí năm 1999. Cụ thể, Luật Báo chí 2016 có 32 điều xây dựng mới và sửa
đổi, bổ sung 29 điều. Về kết cấu, Luật Báo chí mới bỏ chương Quản lý nhà
nước về báo chí, thay đổi kết cấu chương III (Nhiệm vụ quyền hạn của báo
chí), chương IV (Tổ chức báo chí và nhà báo) của Luật Báo chí năm 1999
thành chương III (Tổ chức báo chí) và chương IV (Hoạt động báo chí).
So với Luật Báo chí trước đây, Luật Báo chí 2016 có nhiều điểm mới
cơ bản, gồm: Quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên
báo chí của cơng dân; đối tượng thành lập cơ quan báo chí; quyền tác nghiệp
của báo chí; đạo đức nghề nghiệp của người làm báo; liên kết trong hoạt động
báo chí; hoạt động kinh doanh dịch vụ của cơ quan báo chí; cải chính và xử lý
vi phạm trong lĩnh vực báo chí.
Về quy định quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí
của cơng dân: Luật Báo chí mới đã kết cấu Chương II với 4 điều quy định cụ
thể về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân,
trong đó quy định cơng dân có quyền: Sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp
thơng tin cho báo chí; phản hồi thơng tin trên báo chí; tiếp cận thơng tin báo
chí; liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; in và phát hành
3



báo in; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với
các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị - xã hội, nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và
các tổ chức, cá nhân khác.
Về đối tượng thành lập cơ quan báo chí: Ngồi các đối tượng thành lập
cơ quan báo chí theo luật trước đây, Luật Báo chí mới đã bổ sung một số đối
tượng được thành lập tạp chí khoa học, như: Cơ sở giáo dục đại học theo quy
định của Luật Giáo dục đại học; tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức Viện Hàn
lâm, Viện theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ; bệnh viện từ cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư hoặc tương đương trở lên.
Về quyền tác nghiệp của báo chí: Ngồi những quy định của Luật Báo
chí cũ, Luật Báo chí 2016 quy định cụ thể về trách nhiệm cung cấp thông tin
cho báo chí của cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm; những thơng tin cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có quyền từ chối cung cấp thơng tin
cho báo chí. Đặc biệt, để bảo vệ nguồn tin báo chí và quyền tác nghiệp của
nhà báo, so với luật trước đây, Luật Báo chí mới đã quy định giới hạn việc cơ
quan báo chí, nhà báo chỉ phải tiết lộ người cung cấp thơng tin khi có u cầu
bằng văn bản của Viện trưởng Viện KSND, Chánh án TAND cấp tỉnh và
tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Đồng thời, Viện trưởng Viện KSND, Chánh án
TAND cấp tỉnh và tương đương trở lên có trách nhiệm tổ chức bảo vệ người
cung cấp thông tin sau khi tên của họ được tiết lộ.
Về quy định đạo đức người làm báo: Cùng với quy định rõ quyền hạn,
nghĩa vụ đối với nhà báo, Luật Báo chí mới cịn bổ sung, luật hoá những quy
định bắt buộc về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo nhằm nêu cao vai
trò, trách nhiệm cơng dân của người làm báo; trong đó quy định Hội Nhà báo
Việt Nam có nhiệm vụ ban hành và tổ chức thực hiện quy định về đạo đức
nghề nghiệp của người làm báo; nhà báo có nghĩa vụ tuân thủ quy định về đạo
đức nghề nghiệp của người làm báo.

4


Về quy định liên kết trong hoạt động báo chí: Luật Báo chí mới bổ
sung quy định về liên kết trong hoạt động báo chí, trong đó quy định cụ thể
lĩnh vực, nội dung các cơ quan báo chí được phép liên kết với cơ quan báo chí
khác, pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh phù hợp với lĩnh vực liên kết
theo quy định của pháp luật; thời lượng tối đa được phép liên kết trong kênh
phát thanh, kênh truyền hình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thơng tin tuyên
truyền thiết yếu theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thơng và kênh thời
sự - chính trị tổng hợp; thời lượng tối đa mà cơ quan báo nói, báo hình có hoạt
động liên kết sản xuất tồn bộ kênh phát thanh, kênh truyền hình. Cơ quan
báo chí chủ động thực hiện, chịu trách nhiệm mà không phải xin phép cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí, nhằm cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan báo chí.
Về hoạt động kinh doanh dịch vụ của cơ quan báo chí: Luật Báo chí
mới quy định mở hơn Luật Báo chí trước đây về hoạt động kinh doanh, dịch
vụ của cơ quan báo chí, thể hiện tại điểm c khoản 2 điều 21 quy định: Nguồn
thu của cơ quan báo chí gồm thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ của cơ
quan báo chí, các đơn vị trực thuộc cơ quan báo chí.
Về những hành vi bị cấm trong hoạt động báo chí: Điều 9 Luật Báo chí
mới quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn một số hành vi bị cấm trong hoạt động
báo chí so với Luật Báo chí cũ, có bổ sung một số hành vi như: Thơng tin quy
kết tội danh khi chưa có bản án của tịa án, thơng tin ảnh hưởng đến sự phát
triển bình thường về thể chất và tinh thần của trẻ em, thơng tin về những
chuyện thần bí gây hoang mang trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an
toàn xã hội và sức khỏe của cộng đồng... Mặt khác, những hành vi cấm đăng,
phát thông tin quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 9 đã có sự tương thích với
các quy định tại Bộ Luật hình sự năm 2015, các hành vi bị cấm khác đã tương
thích với Bộ Luật Dân sự và các luật khác, bảo đảm tính khả thi trong thực tế.

Về cải chính và xử lý vi phạm: Nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị báo chí thơng tin sai sự thật, Luật Báo chí
5


mới đã bổ sung một số quy định mới về cải chính như: Báo chí điện tử, ngồi
việc đăng, phát lời cải chính, xin lỗi cịn phải gỡ bỏ ngay thông tin sai sự
thật đã đăng, phát. Các cơ quan báo chí, trang thơng tin điện tử tổng hợp đã
đăng, phát thơng tin của cơ quan báo chí khác có nội dung phải cải chính,
xin lỗi cũng phải thực hiện đăng lại nội dung cải chính, xin lỗi của cơ quan
báo chí vi phạm.
Luật Báo chí mới đã pháp điển hóa quy định tại các Nghị định của
Chính phủ để đưa vào luật, đồng thời bổ sung một số quy định mới để điều
chỉnh hoạt động báo chí, cụ thể là các quy định về: Chính sách của Nhà nước
về phát triển báo chí; thay đổi cơ quan chủ quản của cơ quan báo chí; hoạt
động hợp tác của báo chí Việt Nam với nước ngồi; hoạt động báo chí của báo
chí nước ngồi, cơ quan đại diện nước ngồi, tổ chức nước ngoài tại Việt
Nam; bảo vệ nội dung các chương trình phát thanh, chương trình truyền hình,
báo điện tử; phản hồi thơng tin.
Cùng với Luật Baoas chí, ngày 16-12-2016, Hội Nhà báo Việt Nam đã
công bố 10 điều quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam.
Quy định này cũng chính thức có hiệu lực thi hành cùng Luật Báo chí mới,
bắt đầu từ 1-1-2017.

6


Chương 2: QUYỀN TỰ DO NGƠN LUẬN TRONG
LUẬT BÁO CHÍ NĂM 2016
2.1. Quy định của Luật Báo chí về quyền tự do ngơn luận

Luật Báo chí năm 2016 có rất nhiều điểm mới đáng chý ý đối với các
nội dung được quy định, trong đó một trong những điểm mới, nổi bật được đề
cập tại Luật Báo chí năm 2016 là việc khẳng định và đưa ra quy định luật
pháp để công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí.
Tại Luật Báo chí năm 2016, trong Chương II về Quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân tại Điều 11 - Quyền tự di
ngơn luận trên báo chí của cơng dân đã quy định về vấn đề này đó là:
1. Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới.
2. Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
3. Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối
với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác.
2.2. Phân tích các nội dung về quyền tự do ngơn luận
Với Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999, quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngơn luận trên báo chí là một trong các cơ sở, một trong các yếu
tố bảo đảm xây dựng “quy định chế độ báo chí”. Với Luật Báo chí năm 2016
(có hiệu lực từ ngày 1-1-2017), việc khẳng định quyền tự do ngôn luận trên
báo chí đã được xây dựng thành điều luật cụ thể, đó là: “Điều 1. Phạm vi Điều
chỉnh: Luật này quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên
báo chí của cơng dân; tổ chức và hoạt động báo chí; quyền và nghĩa vụ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân tham gia và có liên quan đến hoạt động báo chí; quản
lý nhà nước về báo chí”. Đây là một điểm mới, một bước tiến quan trọng để
luật hóa quyền tự do ngơn luận trên báo chí; từ đó xác lập các nội dung luật
pháp tương ứng nhằm vừa tạo điều kiện, vừa bảo đảm để quyền tự do ngôn
7


luận trên báo chí được tổ chức, quản lý một cách dân chủ, công bằng, văn

minh, phù hợp với yêu cầu của tiến trình xây dựng, phát triển đất nước.
Điểm mới và bước tiến trong Luật Báo chí 2016 đó chính là cụ thể hóa
một nội dung quan trọng của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam đã được
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII thơng qua ngày 28-11-2013 tại
Kỳ họp thứ 6, được khẳng định tại Điều 25: “Công dân có quyền tự do ngơn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực
hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Với tính cách “luật cơ bản” của
quốc gia, Hiến pháp là cơ sở để xây dựng, ban hành các luật, pháp lệnh, nghị
quyết, các văn bản thuộc hệ thống pháp luật Nhà nước.
Như vậy, sự ra đời Luật Báo chí năm 2016 (cũng như các Luật Báo chí
ban hành trước đó) đều dựa trên một nội dung quan trọng của Hiến pháp. Nội
dung này hồn tồn tương thích với các điều ước quốc tế mà Nhà nước Việt
Nam tham gia ký kết. Như: Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền Liên hợp
quốc (Tuyên ngôn) khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do ngơn luận và
bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm sự tự do giữ quan điểm khơng có sự can
thiệp và sự tự do tìm kiếm, tiếp nhận, chia sẻ những ý tưởng và thông tin bằng
bất kỳ phương tiện truyền thơng nào và khơng có biên giới”.
Đồng thời khoản 2 Điều 29 Tuyên ngôn cũng khẳng định: “Trong khi
thực hiện các quyền và quyền tự do cho cá nhân mọi người chỉ phải tuân thủ
các hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận,
tôn trọng đối với các quyền và quyền tự do của những người khác, đáp ứng
được những địi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng, phúc lợi chung
trong một xã hội dân chủ”; hoặc khoản 2 Điều 19 Công ước Quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc (Cơng ước) khẳng định: “Mọi
người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự
do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu,
bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện
truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia”, đồng thời khoản 3 Điều 19
8



Công ước cũng khẳng định: “Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm
(ghi ở khoản 2 nói trên) địi hỏi đương sự phải có các bổn phận, trách nhiệm
đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a. Tơn
trọng các quyền tự do và thanh danh của người khác; b. Bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý”.
Như vậy, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam cùng Tuyên ngôn, Công
ước đều khẳng định quyền tự do ngôn luận của công dân, đồng thời thống
nhất nguyên tắc coi thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân phải do
“pháp luật quy định”, “phải tuân thủ những hạn chế do luật định”, “có thể bị
giới hạn bởi pháp luật”. Vì thế tự do ngơn luận là một quyền hiến định, do
Hiến pháp đặt ra và khơng thể thay đổi. Trong lĩnh vực báo chí, khẳng định
quyền tự do báo chí và quyền tự do ngơn luận trên báo chí là một mặt của vấn
đề, mặt khác là phải xây dựng, ban hành các điều luật bảo đảm những quyền
này được thực hiện một cách dân chủ, phù hợp với yêu cầu ổn định và phát
triển xã hội, có tác động tích cực đến sự phát triển của con người.
Chương II Luật Báo chí năm 2016 đưa ra những quy định cụ thể. Điều
11 của Luật quy định cơng dân có quyền tự do ngơn luận trên báo chí, thể
hiện qua nội dung chủ yếu: phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới;
tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố
cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác.
Tuy nhiên, quyền tự do ngơn luận nói chung, quyền tự do báo chí và
quyền tự do ngơn luận trên báo chí nói riêng, khơng phải là các quyền khơng
có giới hạn, mà như đã trình bày ở phần trên, Hiến pháp nước CHXHCN Việt
Nam và các văn bản liên quan của Liên hợp quốc đều đặt các quyền này trong
khuôn khổ pháp luật, và bị giới hạn trong các nguyên tắc không được gây hại,
không được xúc phạm, không được xung đột với các quyền khác của Nhà

nước, của công dân,...
9


Ví dụ, trong khi thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận
trên báo chí nói riêng, công dân phải tuân thủ Điều 15 Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam, trong đó khoản 2 khẳng định: “Mọi người có nghĩa vụ
tơn trọng quyền của người khác” và khoản 4 khẳng định: “Việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân khơng được xâm phạm lợi ích quốc gia,
dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Và đó là cơ sở để Điều
9 Luật Báo chí năm 2016 có quy định cụ thể về các hành vi bị nghiêm cấm
trong hoạt động báo chí để hạn chế các hành vi lạm quyền của báo chí, sử
dụng báo chí đăng tải nội dung xấu độc, tiêu cực, làm phương hại đến Nhà
nước, nhân dân, tổ chức xã hội, lịch sử dân tộc, chủ quyền của đất nước,
quan hệ quốc tế, tín ngưỡng - tơn giáo, quyền trẻ em, danh dự và uy tín của
cơng dân,...
Từ các nội dung trên, có thể nói Luật Báo chí năm 2016 đã tạo khung
pháp lý rộng nhưng nghiêm khắc, bảo hộ mạnh mẽ bằng các định chế cần và
đủ để công dân thực hiện quyền tự do báo chí và quyền tự do ngơn luận trên
báo chí; để các cơ quan báo chí và nhà báo có thể tự do tác nghiệp trong
khuôn khổ luật định... Đây là một phương diện quan trọng thể hiện tính chất
dân chủ, cơng bằng, văn minh trong tổ chức, quản lý xã hội của Nhà nước
Việt Nam, đồng thời cũng là một bằng chứng chứng minh hệ thống pháp luật
ở Việt Nam đã và đang ngày càng hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với trình độ phát triển của thế
giới hiện đại. Đồng thời đây cũng là cơ sở để bác bỏ luận điệu mà các thế lực
thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí vẫn thường sử dụng để vu
cáo, vu khống, bịa đặt về vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam.
Tự do ngơn luận trên báo chí thuộc các quyền cơ bản của con người
trong một xã hội phát triển. Song thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do

ngơn luận trên báo chí như thế nào lại là vấn đề cần đề cập một cách cụ thể,
căn cứ vào sự lựa chọn con đường phát triển của mỗi quốc gia và hệ thống
luật pháp của quốc gia ấy, cùng với các tiêu chí của nền văn hóa mà trực tiếp
10


là đạo đức. Nên dù thực hiện các quyền này, trong khuôn khổ pháp luật, để
phù hợp với truyền thống văn hóa, phục vụ lợi ích của đất nước, của dân tộc,
của cộng đồng, báo chí khơng thể lợi dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do
ngơn luận trên báo chí được quan niệm một cách cực đoan mà xâm phạm tới
quyền và lợi ích của mọi tổ chức, cá nhân, của đất nước. Đó là những vấn đề
tất yếu mà chỉ từ nhận thức đầy đủ, nghiêm túc thì mỗi cơng dân, mỗi cơ quan
báo chí, mỗi người làm báo mới có thể sử dụng quyền tự do báo chí và quyền
tự do ngơn luận trên báo chí một cách thiết thực, hiệu quả, có ý nghĩa tích cực
với xã hội và con người, qua đó thể hiện tinh thần “Sống và làm việc theo
Hiến pháp, pháp luật”.
Ví dụ: Trên thực tế, ở Việt Nam quyền tự do ngôn luận đã được thực
hiện một cách trung thực, bài bản và đúng theo những quy định của pháp luật.
Quyền tự do ngơn luận đã giúp cho nền báo chí Việt Nam ngày càng phát
triển mạnh hơn và có chất lượng hơn, đa chiều hơn nhưng luôn được thực
hiện theo đúng Hiến pháp và pháp luật. Đặc biệt quyền tự do ngôn luận ở Việt
Nam cũng như các nước khác không bao hàm việc tự do ngôn luận nhằm
chống phá chính quyền nhà nước. Và khơng chỉ ở Việt Nam mới có một số
chế tài đối với hành vi lợi dụng tự do ngơn luận, tự do báo chí để vi phạm
pháp luật, mà ở Hoa Kỳ, CHLB Ðức, Pháp, Hàn Quốc, Singapore,... đều có
luật và điều khoản luật xử lý nghiêm khắc hành vi lợi dụng tự do ngôn luận,
tự do báo chí.
Hiện nay, việc thực hiện quyền tự do ngơn luận và tự do báo chí ở Việt
Nam cịn gặp khó khăn khi nhận thức về pháp luật của toàn dân chưa trở
thành ý thức thường trực, tự giác, hệ thống truyền thơng tuy phát triển song

cịn thiếu chuyên nghiệp, nhất là các thế lực thù địch, một số cá nhân thiếu
thiện chí lợi dụng truyền thơng để tác động xấu tới xã hội, công chúng, lợi
dụng việc chính quyền thực thi pháp luật để vu cáo Nhà nước Việt Nam.
Nhưng chúng ta tin tưởng rằng, từ quan điểm, chính sách đúng đắn của Nhà
nước Việt Nam về tự do ngơn luận và tự do báo chí, cả trước mắt và lâu dài,
11


mọi người dân Việt Nam sẽ được hưởng các quyền này ngày càng đầy đủ hơn,
được tạo các điều kiện để phát triển tồn diện và hài hịa, từ đó có những đóng
góp thiết thực vào sự phát triển chung của xã hội.

12


KẾT LUẬN
Luật Báo chí mới sẽ là hành lang pháp lý quan trọng, với nhiều quy
định mới tiến bộ, phù hợp với thực tiễn đời sống của báo chí và cơng tác báo
chí, mang tính thời đại, xây dựng một nền tảng pháp lý vững chắc và cụ thể
cho việc phát triển báo chí trong giai đoạn tới.
Cùng với việc mở rộng đối tượng được phép thành lập cơ quan báo chí,
đưa ra quy định mới về liên kết trong hoạt động báo chí, với các quy định về
quyền tự do báo chí và quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân, Luật
Báo chí năm 2016 thật sự là bước tiến rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam
trong khi vừa bảo đảm quyền tự do ngôn luận trong xã hội, vừa hoàn thiện hệ
thống luật pháp để bảo đảm các quyền này.
Khơng có bất cứ chế độ xã hội hiện đại nào ngày nay lại không bảo vệ
quyền tự do ngơn luận báo chí. Vì đây là một điều kiện cho sự phát triển của
xã hội. Đối với Đảng và Nhà nước ta thì quyền tự do ngơn luận, báo chí
khơng chỉ là quyền cần phải bảo đảm hơn nữa còn được xem là một động lực

cho sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, cũng giống như các nước khác trên thế giới, Việt Nam cũng
đề ra những quy định pháp luật để hạn chế và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng
các quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí để xâm hại lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Rõ ràng, quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí tại Việt Nam là khơng thể phủ nhận, xuyên tạc. Và những
tổ chức, cá nhân cố tình lợi dụng dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí để
xâm hại đến lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cơng dân
cần phải bị lên án và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Đây là
lẽ đương nhiên, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Báo Công an nhân dân Online, Cần hiểu đúng về quyền tự do ngôn luận - báo

2.

chí ở Việt Nam hiện nay, , truy cập ngày 3/12/2017.
Báo Nhân dân điện tử, Luật Báo chí năm 2016 và quyền tự do ngôn luận,

3.

, truy cập ngày 3/12/2017
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật báo chí,
Luật số 103/2016/QH13, Thư viện pháp luật, truy cập ngày 3/12/2017.


14


MỤC LỤC

15



×