Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật về quyền tự do ngôn luận trên internet ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ HƢƠNG GIANG

PH¸P LUËT VÒ QUYÒN Tù DO NG¤N LUËN TR£N INTERNET
ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ HƢƠNG GIANG

PH¸P LUËT VÒ QUYÒN Tù DO NG¤N LUËN TR£N INTERNET
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380101.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, trích dẫn trong Luận văn
bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ngô Hƣơng Giang


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng, hình vẽ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN
LUẬN TRÊN INTERNET Ở VIỆT NAM ........................................... 7
1.1.

Internet trong cuộc sống .................................................................... 7

1.2.


Vai trò của quyền tự do ngôn luận trên Internet .......................... 12

1.3.

Quyền tự do ngôn luận trên Internet theo luật nhân quyền
quốc tế................................................................................................ 16

1.4.

Pháp luật về quyền tự do ngôn luận trên Internet ở một số
quốc gia .............................................................................................. 19

1.4.1. Pháp luật của Hoa Kỳ về quyền tự do ngôn luận trên Internet .......... 19
1.4.2. Pháp luật của Pháp về quyền tự do ngôn luận trên Internet............... 22
1.4.3. Pháp luật ở Nhật Bản về quyền tự do ngôn luận trên Internet ........... 25
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRÊN
INTERNET Ở VIỆT NAM .......................................................................30
2.1.

Tình hình pháp luật về quyền tự do ngôn luận trên Internet ...... 30

2.1.1. Thành tựu về quyền tự do ngôn luận trên Internet ở Việt Nam ......... 30
2.1.2. Hạn chế của việc đảm bảo quyền tự do ngôn luận trên Internet ........ 35
2.2.

Thực trạng pháp luật về quyền tự do ngôn luận trên Internet
ở Việt Nam ........................................................................................ 41

Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 53



Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRÊN INTERNET
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................ 54
3.1.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quyền tự do ngôn luận
trên Internet ở Việt Nam ................................................................. 54

3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tự do ngôn luận
trên Internet ở Việt Nam ................................................................. 59

3.2.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật ........................................................ 59
3.2.2. Tăng cường biện pháp giáo dục, tuyên truyền ................................... 70
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 75


DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ

Số hiệu

Tên bảng, hình vẽ

Trang


Bảng 1.1

Số người dùng Internet trên thế giới, châu Á và Việt
Nam (tính đến ngày 30-9-2019)

9

Hình 2.1

Thời lượng truy cập Internet

30

Hình 2.2

Tần suất truy cập Internet

31

Hình 2.3

Bảng xếp hạng website hàng đầu

31


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền tự do ngôn luận được ghi nhận trong pháp luật quốc tế, như
Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 quy định: Mọi người đều

có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà
không bị can thiệp; cũng như có quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, truyền bá
các ý tưởng và thông tin qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào mà không
bị giới hạn về biên giới quốc gia. Theo quy định trên của Tuyên ngôn quốc tế
nhân quyền năm 1948, tự do ngôn luận bao gồm tự do bày tỏ ý kiến, phổ biến
thông tin và truy cập vào thông tin trên không gian mạng, vì internet cũng
được xem là một kênh (phương tiện) truyền thông.
Điều 19 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy
định: Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm
kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực,
hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in hoặc dưới hình thức
nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự
lựa chọn của họ.
Ở Việt Nam, quyền tự do ngôn luận được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều
thứ 10 Hiến pháp năm 1946: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận;
tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại
trong nước và ra nước ngoài”. Đến Hiến pháp năm 2013 quy định: Công dân
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội,
biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định (Điều 25). Vì
vậy, quyền tự do ngôn luận là một trong các quyền cơ bản đóng vai trò quan
trọng trong hệ thống các quyền con người và có ý nghĩa to lớn về kinh tế,
chính trị và xã hội.

1


Quyền tự do ngôn luận trên internet được bảo đảm trên các phương tiện
truyền thông, bao gồm tự do ngôn luận trên internet. Internet là phương tiện
công nghệ và truyền thông mới, đặt ra nhiều thách thức cho việc bảo đảm
quyền tự do ngôn luận trên internet. Internet mang lại nhiều lợi ích, nhưng

cũng có mặt tiêu cực đe dọa đến đời sống của cá nhân hay cộng đồng.
Tự do ngôn luận là một điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các
nguyên tắc minh bạch và trách nhiệm giải trình, đây là các nguyên tắc cần
thiết cho việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền. Quyền này thừa nhận mọi
người tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến, tự do tìm kiếm, tiếp nhận, truyền bá
các ý tưởng, thông tin không phân biệt lĩnh vực trên internet mà không bị giới
hạn về biên giới. Để thực hiện quyền này, sẽ có những nghĩa vụ và trách
nhiệm đặc biệt kèm theo, đặt trong tương quan với việc tôn trọng các quyền
và lợi ích nhất định.
Trách nhiệm của mọi quốc gia là tôn trọng đầy đủ quyền tự do tìm
kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, đồng thời thúc đẩy và tạo điều kiện
tiếp cận với internet, hợp tác quốc tế nhằm phát triển các phương tiện truyền
thông, thông tin và công nghệ truyền thông nhằm quảng bá, bảo vệ và tạo
điều kiện để con người hưởng thụ các quyền cơ bản, trong đó có quyền tự do
ngôn luận trên internet. Do vậy, mọi biện pháp nhằm mục đích củng cố, ngăn
chặn làm gián đoạn việc truy cập hoặc phổ biến thông tin trực tuyến đều phải
được cân nhắc, quan tâm sâu sắc.
Ở Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm mục
đích bảo đảm các quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn
luận, hiện là vấn đề cấp thiết nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự nghiệp
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực thi Hiến
pháp năm 2013. Xuất phát từ thực tế đó, với mong muốn đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả, thúc đẩy sự bảo đảm quyền tự do

2


ngôn luận ở nước ta trong thời gian tới, nên tôi chọn đề tài “Pháp luật về
quyền tự do ngôn luận trên Internet ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu

Bàn về quyền tự do ngôn luận trên Internet, đến nay đã có một số công
trình khoa học nghiên cứu ở những phạm vi khác nhau, được đề cập trong
nhiều đề tài, sách chuyên khảo, một số luận văn thạc sĩ và các bài báo. Tiêu
biểu trong đó là cuốn sách “Phạm vi và giới hạn của tự do Internet”,
PGS.TS. Nguyễn Thị Quế Anh, PGS.TS. Vũ Công Giao (đồng chủ biên), Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, 2018; “Lý luận và pháp luật về quyền con người”,
Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012; “Giới hạn chính đáng đối với các quyền con
người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”, Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Hồng Đức, 2015; bài viết “Việt Nam với
việc nội luật hóa quy định của pháp luật quốc tế về quyền tự do ngôn luận”,
Chu Thị Thúy Hằng, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015, tập
31, số 3, luận văn thạc sĩ “Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã hội ở
Việt Nam hiện nay”, Hoàng Đức Nhã, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, Học viện Khoa học xã hội, 2016; luận văn thạc sĩ “Pháp luật về quyền
tự do ngôn luận ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Đình Nghĩa, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2018…
Trong các công trình nêu trên, hầu hết mới tập trung đề cập cơ sở lý luận
chung về quyền tự do ngôn luận, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống và đầy đủ về quyền tự do ngôn luận trên Internet. Vì vậy, việc nghiên cứu
đề tài này vẫn có tính cấp thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của đề tài là bước đầu nghiên cứu một cách có hệ thống

3


những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật về quyền tự do ngôn luận trên
Internet trên thế giới và ở Việt Nam, từ đó đề ra phương hướng và giải pháp

để nâng cao hiệu quả pháp luật quyền tự do ngôn luận trên Internet ở nước ta
trong thời gian tới.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau:
- Làm sáng tỏ thêm và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận cơ bản về
hoạt động pháp luật quyền tự do ngôn luận trên Internet như: khái niệm, đặc
điểm của quyền tự do ngôn luận, phân tích khuôn khổ pháp luật hiện hành
liên quan đến quyền tự do ngôn luận trên Internet ở Việt Nam, từ đó đánh giá
về tính tương thích với các tiêu chuẩn của luật nhân quyền quốc tế.
- Đánh giá thực trạng hoạt động pháp luật quyền tự do ngôn luận trên
internet của người dân ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp đẩy mạnh và hoàn thiện pháp luật
quyền tự do ngôn luận trên internet ở nước ta trong thời gian tới.
3.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận văn có một số điểm mới
sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề pháp luật quyền tự do
ngôn luận trên internet, phân tích và làm rõ nội hàm của các khái niệm, chức
năng của pháp luật quyền tự do ngôn luận trên internet.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo đối với
các vấn đề liên quan đến pháp luật quyền tự do ngôn luận trên Internet tại
Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung trong điều kiện hội nhập và đổi
mới quốc tế.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về pháp

luật quyền tự do ngôn luận trên internet ở nước ta hiện nay, từ đó đưa ra
những giải pháp thích hợp để hoàn thiện pháp luật quyền tự do ngôn luận trên
internet ở nước ta.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng
pháp luật quyền tự do ngôn luận trên Internet ở Việt Nam hiện nay.
5. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền tự do ngôn luận trên Internet
ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng về quyền tự do ngôn luận trên Internet ở Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tự do
ngôn luận trên Internet ở Việt Nam hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Mác – Lênin và các phương pháp chuyên ngành khoa học để giải quyết những
vấn đề lý luận và thực tiễn của quyền tự do ngôn luận trên internet. Trong đó,
chủ yếu sử dụng phương pháp logic pháp lý để làm sáng tỏ vấn đề nghiên
cứu. Trong những trường hợp cụ thể, tôi kết hợp sử dụng các phương pháp
nghiên cứu phù hợp như thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích… nhằm kết
hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức lý luận và thực tiễn để góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề cần nghiên cứu.

5


5.3. Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu đề tài bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên
internet tôi chọn phạm vi ở pháp luật và thực tiễn tại Việt Nam.

6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền tự do ngôn luận trên Interet
ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng về quyền tự do ngôn luận trên Internet ở Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tự do
ngôn luận trên Internet ở Việt Nam hiện nay.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRÊN
INTERNET Ở VIỆT NAM
1.1. Internet trong cuộc sống
Để cuộc sống của con người ngày càng phát triển tốt đẹp hơn thì con
người đã không ngừng sáng tạo, phát minh ra những công cụ, thành tựu, phải
kể đó là phát minh ra internet. Internet đã làm thay đổi cơ bản cuộc sống của
mọi người trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Mạng Internet ra đời vào khoảng năm 1974, tiền thân là mạng ARPANET.
Cơ quan quản lý dự án nghiên cứu phát triển mạng ARPANET thuộc Bộ
Quốc phòng Mỹ liên kết bốn địa điểm đầu tiên vào tháng 7/1969 là Viện
nghiên cứu Stanford, Đại học California, Los Angeles, Đại học Utah và Đại
học California, Santa Barbara. Đó chính là mạng liên khu vực (Wide Area
Network – WAN) đầu tiên được xây dựng. Đến năm 1983, tất cả máy tính nối
với ARPANET phải sử dụng giao thức TCP/IP, giao thức này cũng được coi
như một chuẩn mực đối với ngành quân sự Mỹ. Năm 1980, mạng Internet
chính thức ra đời được xác lập và liên kết các máy tính lớn với nhau gọi là

NSFNET. Sự hình thành mạng xương sống của NSFNET và những mạng
vùng khác đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Internet.
Đến năm 1995, NSFNET thu lại thành một mạng nghiên cứu còn Internet thì
vẫn tiếp tục phát triển cho đến ngày hôm nay.
Với khả năng kết nối mở như vậy, Internet đã trở thành một mạng lớn
nhất trên thế giới, mạng của các mạng, xuất hiện trong mọi lĩnh vực như
thương mại, chính trị, quân sự, nghiên cứu khoa học, giáo dục, văn hóa, xã
hội… Cũng từ đó, các dịch vụ trên Internet không ngừng phát triển tạo ra một
kỷ nguyên thương mại trên Internet cho nhân loại [22].

7


Ở Việt Nam, ngày 19/11/1997, sau rất nhiều bàn thảo, băn khoăn và
thuyết phục, Ban điều phối quốc gia mạng Internet trao giấy phép cho các nhà
cung cấp dịch vụ kết nối, truy nhập Internet. “Internet Việt Nam” từ đó ra đời.
Đến ngày 01/12/1997, Internet được cung cấp cho đông đảo người sử dụng [24].
Sau hơn 20 năm, Internet chính thức vào Việt Nam đã tạo ra rất nhiều thay
đổi ở quy mô xã hội cũng như cá nhân con người.
Vậy, khái niệm Internet có thể hiểu:
Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập
công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này
bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các
viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân và các
chính phủ trên toàn cầu [29].
Khái niệm Internet còn được giải thích chính thức trong khoản 14 Điều
3 Luật Viễn thông năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2018 như sau:
internet là hệ thống thông tin toàn cầu sử dụng giao thức internet và tài
nguyên internet để cung cấp các dịch vụ và ứng dụng khác nhau cho người sử
dụng dịch vụ viễn thông.

Internet cho phép cá nhân truyền tải thông tin, tư tưởng với tốc độ
nhanh chóng, dung lượng lớn và thuận tiện. Internet có vai trò tích cực đối với
quyền con người như hỗ trợ quyền giáo dục, tự do biểu đạt, hội họp, lập hội,
tôn giáo, quyền tham gia chính trị, tăng cường bình đẳng giới, hỗ trợ các
nhóm yếu thế (người dân tộc thiểu số, người khuyết tật…), thúc đẩy phát triển
kinh tế, xã hội. Internet có thể bị sử dụng để xâm phạm quyền tự do ngôn
luận, quyền biểu đạt, quyền riêng tư, sở hữu trí tuệ, xâm phạm quyền của trẻ
em và các nhóm yếu thế.
Internet đã từng được ca ngợi như là “công nghệ giải phóng”, vì nó

8


được xem là một công cụ quan trọng giúp người dân phá bỏ xiềng xích của
nhiều chế độ chuyên chế. Internet đã trở thành một phần không thể thiếu trong
cuộc sống của con người hiện đại.
Internet quan trọng đối với cuộc sống hiện nay trong việc liên lạc kết
nối toàn cầu, nhờ vào Internet người dùng có thể kết nối với nhau, tìm kiếm,
trao đổi thông tin, đọc báo online, mua bán. Internet mang lại nhiều lợi ích
cho con người, Internet giúp ích cho việc học tập, làm việc và kinh doanh trở
nên thuận tiện dễ dàng hơn, phục vụ đời sống con người.
Bảng 1.1: Số người dùng Internet trên thế giới, châu Á và Việt Nam (tính
đến ngày 30-6-2019)

Tổng dân số

So với
dân số
thế giới
%


Số người
dùng internet

Tỷ lệ so
với dân
số

Số người
dùng
internet
so với
thế giới

Thế giới

7.716.223.209

100%

4.536.248.808

58.8%

100%

Châu Á

4.241.972.790


55%

2.300.469.859

54,2%

50,7%

97.429.061

1,26%

68.541.344

70,3%

1,51%

Khu vực
địa lý

Việt Nam

(Nguồn: />
Nhìn lại chặng đường hơn 20 năm qua, có thể thấy, Internet Việt Nam
đạt được nhiều thành tựu, thể hiện qua những chỉ số đáng khích lệ. Nếu như
thời đầu của Internet quay số qua mạng điện thoại công cộng, số người sử
dụng Internet chỉ đạt đến 200.000 người (năm 2000). Sau gần 20 năm sau,
theo số liệu người dùng Internet ở châu Á tính đến ngày 30/6/2019, thì Việt
Nam đạt trên 68 triệu người dùng Internet, chiếm 70,3% dân số, Việt Nam

nằm trong tốp những quốc gia và vùng lãnh thổ có tỷ lệ người dùng Internet

9


cao nhất tại châu Á, hiện đứng vị trí thứ 8/35 quốc gia thuộc khu vực châu Á
có số người dùng internet nhiều nhất châu Á.
Hiện nay, Internet đã phủ rộng khắp lãnh thổ từ thành thị đến nông
thôn, miền núi, hải đảo. Internet trở thành công cụ rất quen thuộc với đa số
người dân Việt Nam trong cuộc sống hằng ngày, trong giao tiếp, giải trí kể cả
trong làm kinh tế cũng như các vấn đề khác liên quan như giáo dục, văn hóa,
y tế… Từ các tầng lớp thấp như nông dân, công nhân, rồi đến tầng lớp học
sinh, sinh viên, kỹ sư đều có thể tìm kiếm được những thông tin cần thiết trên
Internet và chính Internet đã dần làm thay đổi thói quen, cuộc sống của người
dân Việt Nam hiện nay, đặc biệt là giới trẻ.
Mạng internet mang lại rất nhiều tiện ích hữu dụng cho người sử dụng,
một trong các tiện ích phổ thông của internet là hệ thống thư điện tử (email),
trò chuyện trực tuyến (chat), máy truy tìm dữ liệu (search engine), các dịch vụ
thương mại và chuyển ngân, và các dịch vụ về y tế, giáo dục như là chữa bệnh
từ xa hoặc tổ chức các lớp học ảo.
Ví dụ, trong lĩnh vực giáo dục, hầu hết các trường học hiện nay đều
được trang bị Internet để phục vụ hoạt động dạy và học. Ngoài phát triển các
phương thức học trực tuyến song song với phương thức giảng dạy truyền
thống thì Internet còn đang góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý, liên
lạc với phụ huynh, học sinh thông qua các ứng dụng công nghệ thông tin.
Internet và các ứng dụng trên nền Internet cũng đang tạo ra một cuộc
cách mạng trong lĩnh vực y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Từ phát
triển hình thức khám chữa bệnh từ xa đến việc quản lý bệnh nhân, liên
thông dữ liệu giữa các tuyến, liên thông với bảo hiểm xã hội để thanh toán
bảo hiểm y tế… [33].

Internet đóng vai trò quyết định trong việc xác định lại không gian công

10


và tư, các quan hệ giữa con người với nhau và giữa con người với các thiết
chế. Internet đã xóa bỏ các đường biên giới và đưa những cách thức mới
của việc tạo ra và sử dụng kiến thức, góp phần thay đổi cách suy nghĩ, mở
rộng phạm vi tham gia trực tiếp của con người vào đời sống chính trị công
của xã hội ngày càng rộng mở hơn và trở thành nguồn tài nguyên quý giá
hơn bao giờ hết.
Internet ra đời và phát triển với các đặc trưng như tính kết nối, tính mở,
tính tìm kiếm, tiếp nhận, truyền đạt đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cơ sở hạ
tầng thông tin trên thế giới. Internet mở ra phương thức mới cho từng cá nhân
trong việc tiếp cận nhanh chóng với kiến thức cũng như đem tới cho họ một
kênh thông tin mới để bày tỏ, chia sẻ những ý tưởng của mình với toàn thể
nhân loại. Internet đã tạo cơ hội cho con người có sức mạnh tìm kiếm thông
tin và hợp tác.
Internet là một công cụ truyền tin và tiếp nhận thông tin trên mạng rất
phổ biến trên thế giới. Do đó, có thể hiểu Internet là một kênh tiếp cận thông
tin và tự do internet là một hình thức của tự do tiếp cận thông tin được quy
định trong Hiến pháp.
Dưới góc độ đó, Internet đã thúc đẩy những cơ hội và phương tiện để
thực hiện các quyền con người cơ bản, trong đó tiêu biểu là quyền tự do ngôn
luận. Tuy nhiên, ở góc độ khác, Internet cũng có thể được sử dụng như công
cụ nguy hiểm để xâm phạm đến các quyền tự do khác của con người.
Một nghiên cứu gần đây của Hội đồng Hiệp sỹ Mỹ (một nhóm gồm 17
chuyên gia về chính sách công), về Internet và tin tức đã kết luận rằng: Thời
đại kỹ thuật số đang tạo ra một sự phục hưng cho truyền thông và thông tin thời của những tư duy mới và táo bạo để thúc đẩy mạnh mẽ cơ hội tiếp cận
thông tin cho người dân Mỹ, thông tin y tế cho các cộng đồng trong nước và


11


giá trị của nền dân chủ Mỹ. Các mạng mở đóng vai trò rất quan trọng trong
việc đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng. Tiềm năng sử dụng công
nghệ nhằm tạo ra một nền dân chủ minh bạch và liên thông dường như chưa
bao giờ sáng lạn hơn [38].
Ngày nay, internet đã trở thành một công cụ truyền tin và tiếp nhận
thông tin trên mạng rất phổ biến trên thế giới, mà Việt Nam cũng không ngoại
lệ. Có thể nói internet đã trở thành công cụ kết nối thông tin cuốn hút con
người sử dụng nhiều nhất bởi sự nhanh chóng, thuận tiện, phong phú và “san
phẳng” sự ngăn cách của không gian. Những lợi ích to lớn mà internet mang
lại chủ yếu là việc truyền tải thông tin và ứng dụng các mạng xã hội vào hoạt
động kinh doanh và giao tiếp. Tuy nhiên, Internet là nơi chứa nhiều thông tin
nhưng không phải thông tin nào cũng có ích, thậm chí còn nguy hại cho nhận
thức của con người.
1.2. Vai trò của quyền tự do ngôn luận trên Internet
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “Tự do là một phạm trù triết học chỉ khả
năng thể hiện ý chí, hành động theo ý muốn của mình trên cơ sở nhận thức
quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội”. Như vậy, khi nói đến tự do là nói
đến khả năng hoặc quyền của con người lựa chọn và hành động theo đúng ý
chí của mình. Qua đó có thể hiểu, tự do ngôn luận trên Internet là quyền được
tự do thể hiện ý kiến, quan điểm trên Internet mà không trái pháp luật quốc
gia và quốc tế [18].
Tự do ngôn luận là quyền thiết yếu và là mục tiêu đấu tranh của các lực
lượng tiến bộ tại nhiều quốc gia từ nhiều thế kỷ qua. Những quyền này được
gọi là “quyền bảo vệ quyền”, vì nếu không có chúng là thiếu đi một phương
tiện quan trọng để bảo vệ các quyền khác [8, tr.307].
Tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người.


12


Quyền tự do ngôn luận là một trong bốn quyền chính trị cơ bản luôn được coi
trọng, đó là: tự do ngôn luận (freedom of speech), tự do biểu đạt (freedom of
expression), tự do thông tin (freedom of information) và tự do lập hội và hội
họp hòa bình (freedom of association and peaceful assembly). Xét về bản
chất, tự do ngôn luận chính là quyền của mỗi cá nhân được biểu đạt, thể hiện
và trình bày những ý tưởng, quan điểm và chính kiến của mình mà không có
bất cứ sự can thiệp, chối bỏ hay tước đi một cách tùy tiện và trái luật.
Khái niệm tự do ngôn luận có thể được tìm thấy trong các văn kiện
chính trị - pháp lý quốc tế từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. Bộ luật về quyền
(Bill of Rights) của Vương quốc Anh ngay từ năm 1680 đã quy định quyền
hiến định về tự do ngôn luận và còn nguyên giá trị tới ngày nay. Tuyên ngôn
dân quyền và nhân quyền của Pháp năm 1789 cũng khẳng định tự do ngôn
luận như là một quyền cố hữu của con người. Điều 11 Tuyên ngôn dân quyền
và nhân quyền của Pháp năm 1789 khẳng định: “Trao đổi tự do các ý tưởng
và quan điểm là một trong những quyền quý giá nhất của con người. Mọi
người đều có quyền được nói, viết, in ấn tự do; đồng thời chịu trách nhiệm
trước pháp luật đối với những hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận”.
Một số nhà lập pháp và học giả cho rằng, tự do ngô luận là một quyền
đa diện và đa chiều (a multi-faceted right), vốn không chỉ bao gồm quyền
biểu đạt, hay được phổ biến, chia sẻ thông tin và ý tưởng mà còn bao gồm ba
khía cạnh đặc trưng sau đây: 1) Quyền tìm kiếm thông tin và ý tưởng; 2)
Quyền tiếp nhận thông tin và ý tưởng; 3) Quyền được phổ biến thông tin và ý
tưởng. Như vậy, tự do ngôn luận và quyền tự do ngôn luận có mối liên hệ mật
thiết với các quyền như quyền tự do biểu đạt, quyền tự do thông tin… Thuật
ngữ tự do biểu đạt (freedom of expression) đôi khi còn được dùng để đề cập
đến cả hành động tìm kiếm, tiếp nhận, và chia sẻ thông tin hoặc quan niệm,

bất kể bằng cách sử dụng phương tiện truyền thông nào [5].

13


Tự do ngôn luận trên Internet có vai trò đặc biệt quan trọng trong xã
hội ngày nay. Internet với nguồn thông tin đa dạng, phong phú, đa chiều và sự
kết nối, tương tác giữa các chủ thể trong môi trường Internet đã góp phần thúc
đẩy các tiến trình dân chủ hóa, bảo đảm tốt hơn quyền tự do ngôn luận, quyền
tiếp cận thông tin, quyền tự do hội họp và lập hội, tăng cường sự trao đổi,
tương tác giữa chính quyền và người dân, thúc đẩy các hoạt động văn hóa,
giáo dục, khoa học, đổi mới sáng tạo [44].
Tuy nhiên, thực chất “tự do internet” không phải là một quyền con
người độc lập, mà là một tập hợp các quyền, bao gồm quyền được “vào”
mạng internet, tức là quyền tự do tiếp cận, kết nối với mạng internet (access
to the internet) và các quyền tự do “trên mạng internet”, tức là các quyền con
người đã được thừa nhận phổ biến trong môi trường ngoại tuyến, như quyền
tự do ngôn luận, tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội,
quyền tiếp cận thông tin…, trong đó trọng tâm là quyền tự do ngôn luận, vì
đây là quyền dễ bị xâm phạm nhất và cũng dễ bị lạm dụng nhất trong môi
trường internet.
Không có quốc gia nào có tự do internet tuyệt đối, kể cả những nước
phát triển nhất, có nền dân chủ ở mức cao nhất cũng đều xác định giới hạn
của tự do internet. Sở dĩ có những giới hạn này là bởi bên cạnh những lợi ích
to lớn mà tự do internet mang lại, các quốc gia còn phải theo đuổi các mục
tiêu khác về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và phải đảm bảo cân bằng giữa
tự do internet với các lợi ích khác có khả năng xung đột với nó.
Nhà lập pháp và học giả hàng đầu của Hoa Kỳ Melvin Urofsky cũng đã
khẳng định: “Nếu chỉ có một quyền có giá trị hơn tất cả các quyền khác trong
một xã hội dân chủ, thì đó chính là quyền tự do ngôn luận” [5].

Tự do ngôn luận là quyền cơ bản không phân biệt về văn hóa, chính trị,

14


tôn giáo, dân tộc, là nền tảng mà không có nó, nhiều quyền con người cũng
không thực hiện được. Quyền được giữ quan điểm và tự do ngôn luận là cơ
sở để thực hiện đầy đủ nhiều quyền con người khác, ví dụ: để hưởng quyền
tự do hội họp, lập hội, quyền bầu cử, ứng cử thì quyền tự do ngôn luận là
cơ sở để con người thực hiện đầy đủ các quyền này. Mặt khác, cũng như
các quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận, báo chí có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau.
Quyền tự do ngôn luận được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật quan trọng nhất ở mỗi quốc gia. Quyền tự do ngôn luận được khẳng
định lần đầu tiên tại Điều thứ 10 Hiến pháp năm 1946 (Hiến pháp đầu tiên của
Nhà nước Việt Nam), sau đó được ghi nhận tại Điều 25 Hiến pháp năm 1959,
Điều 67 Hiến pháp năm 1980. Đặc biệt, Điều 69 Hiến pháp năm 1992, sửa
đổi, bổ sung năm 2001 một lần nữa quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, có quyền đươc thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu
tình theo quy định của pháp luật”.
Đến Hiến pháp năm 2013 tự do ngôn luận là quyền hiến định được ghi
nhận: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin,
hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định” [13, Điều 25]. Quyền tự do ngôn luận trên Internet được bảo đảm trên
các phương tiện truyền thông, bao gồm tự do ngôn luận trên internet.
Như vậy, có thể thấy quyền tự do ngôn luận đã được quy định ngay từ
bản Hiến pháp đầu tiên và được cụ thể hóa trong tất cả các bản Hiến pháp sau
này. Hiến pháp là văn bản pháp lý có giá trị cao nhất, còn quy định rõ trách
nhiệm của Nhà nước trong việc phải tạo điều kiện vật chất cần thiết để công
dân thực hiện các quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn

luận. Đối với mỗi cá nhân, không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ
để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của Nhân dân.

15


1.3. Quyền tự do ngôn luận trên Internet theo luật nhân quyền
quốc tế
Quyền tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người được thừa nhận
tại Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 quy định:
Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự
do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như tự do tìm
kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ
phương tiện truyền thông nào, và không có giới hạn về biên giới.
Theo quy định nêu trên của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, tự
do ngôn luận bao gồm tự do bày tỏ ý kiến, phổ biến thông tin và truy cập vào
thông tin trên không gian mạng, vì internet cũng được xem là một kênh
(phương tiện) truyền thông.
Khoản 1 Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 bảo vệ quyền tự do quan điểm mà không bị ai can thiệp. Khoản 2
Điều này quy định:
Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền tự
do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi loại thông tin và ý tưởng,
không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền bằng miệng, viết
hoặc in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương
tiện truyền thông nào khác tuỳ theo sự lựa chọn của họ.
Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á cũng khẳng định:
Mỗi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm, bao
gồm quyền giữ quan điểm mà không bị cản trở và quyền tìm kiếm,

tiếp nhận và truyền đạt thông tin, thông qua hình thức truyền miệng,
hay bằng văn bản hoặc thông qua mọi hình thức biểu đạt mà mỗi
người có thể lựa chọn [39].

16


Theo luật nhân quyền quốc tế, tự do ngôn luận không phải là một
quyền tuyệt đối. Quyền này có thể bị hạn chế bởi các nhà nước, song việc hạn
chế phải tuân thủ những điều kiện chặt chẽ để tránh sự lạm dụng. Các quốc
gia có quyền tự quyết định những vấn đề liên quan đến những hạn chế mà
quốc gia đó áp dụng đối với quyền tự do ngôn luận (bao gồm việc xác định
nội dung nào bị cấm xuất hiện trên internet); tuy nhiên, những hạn chế đó
phải tương thích với những quy định quốc tế về quyền tự do ngôn luận theo
các nguyên tắc về tính hợp pháp, tính cần thiết và tính thích hợp.
Quy định trên tuy không nêu ra những hạn chế cụ thể về quyền tự do
ngôn luận, song cũng giống như các quyền khác, tự do ngôn luận cần được
xem xét dưới góc độ của Điều 29 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948:
1. Mọi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất mà
nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ.
2. Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải
tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công
nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người
khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức,
trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.
3. Trong mọi trường hợp, việc thực hiện các quyền tự do này cũng
không được trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Liên hợp quốc.
Điều 10 Công ước châu Âu về nhân quyền năm 1950 cũng ghi nhận sự
hạn chế tự do ngôn luận, gồm: các lợi ích an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ
hay an toàn công cộng; ngăn ngừa rối loạn, tội phạm, bảo vệ sức khỏe hay

đạo đức; bảo vệ danh dự và quyền của người khác; ngăn ngừa tiết lộ thông tin
mật, hay duy trì quyền lực và tính công bằng của tư pháp. Điều 10 Công ước
châu Âu về nhân quyền năm 1950 quy định:

17


1. Tất cả mọi người đều có quyền tự do bày tỏ ý kiến. Quyền này
bao gồm việc được tự do bày tỏ ý kiến và tự do trao đổi các thông
tin mà không cần phải nhận được bất kỳ việc cho phép nào từ phía
cơ quan công quyền và không phân biệt biên giới. 2. Việc thực hiện
quyền tự do ngôn luận, bởi lẽ nó luôn phải đi kèm với những nhiệm
vụ và trách nhiệm, có thể phải tuân theo các thủ tục, điều kiện, hạn
chế hoặc hình phạt như được luật pháp quy định và cần thiết trong
xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ hoặc
an toàn công cộng, để ngăn ngừa rối loạn hoặc tội phạm, bảo vệ sức
khỏe hoặc đạo đức, để bảo vệ danh tiếng hoặc quyền của người
khác, nhằm ngăn chặn việc tiết lộ thông tin nhận được một cách tự
tin hoặc duy trì thẩm quyền và công bằng của tòa án.
Quyền tự do ngôn luận có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của từng cá
nhân cũng như của cả cộng đồng xã hội. Quyền tự do ngôn luận liên quan chặt chẽ
đến việc thực thi quyền tham gia chính trị của người dân. Trong Bình luận chung
số 34, Ủy ban nhân quyền dành riêng đoạn 20 đề cập mối quan hệ này:
Ủy ban, trong Bình luận chung số 25 về sự tham gia vào các hoạt
động xã hội và quyền bầu cử, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tự
do biểu đạt trong thực hành các hoạt động xã hội và việc thực thi
hiệu quả quyền bầu cử. Tự do truyền bá thông tin và ý tưởng về các
vấn đề công cộng và vấn đề chính trị giữa các công dân, các ứng cử
viên và đại biểu dân cử là cần thiết. Điều này có nghĩa là báo chí
hay phương tiện truyền thông khác có thể bình luận về một vấn đề

công cộng và để thông tin về quan điểm của công chúng mà không
có kiểm duyệt hay hạn chế. Quốc gia thành viên cần chú ý đến
những chỉ dẫn trong bình luận chung số 25 về việc thúc đẩy và bảo
vệ tự do biểu đạt trong bối cảnh này [8, tr.326].

18


Liên quan trực tiếp đến tự do ngôn luận trên internet, vào năm 2012,
Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc đã thông qua một Nghị quyết quan trọng,
trong đó khẳng định rằng: “Mọi người đều được bảo vệ như nhau dù là tham gia
hay không tham gia vào không gian mạng”. Nghị quyết này được ban hành dựa
trên kết quả của hai bản báo cáo năm 2011 về “quyền tự do biểu đạt ý kiến và
được thực hiện thông qua internet” của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc
(Frank La Rue) về xúc tiến và bảo vệ quyền tự do ngôn luận và biểu đạt. Trong
báo cáo thứ nhất, Frank La Rue đã nêu bật lên một thực tế là tự do ngôn luận có
thể phát triển, đồng thời cũng có thể bị vi phạm thông qua internet. Trong báo cáo
thứ hai, La Rue cảnh báo về “các hạn chế gia tăng trên internet thông qua việc sử
dụng các công nghệ ngày càng tinh vi để chặn nội dung, theo dõi và nhận diện
các nhà hoạt động và phê bình, hình sự hóa hành vi biểu đạt và áp dụng pháp
luật hạn chế các biện pháp như vậy” [1, tr. 182].
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng quyền tự do ngôn luận trên
Internet là tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi tin tức, ý kiến, biểu đạt
trạng thái, thảo luận với mọi người trên thế giới qua Internet. Các nội dung
đăng tải lên Internet không gây ảnh hưởng đến lợi ích an ninh quốc gia, toàn
vẹn lãnh thổ hay an toàn công cộng, ngăn ngừa rối loạn, tội phạm, bảo vệ sức
khỏe hay đạo đức, bảo vệ danh dự và quyền của người khác, ngăn ngừa tiết lộ
thông tin mật, hay duy trì quyền lực và tính công bằng của tư pháp.
1.4. Pháp luật về quyền tự do ngôn luận trên Internet ở một số
quốc gia

1.4.1. Pháp luật của Hoa Kỳ về quyền tự do ngôn luận trên Internet
Theo pháp luật của Hoa Kỳ thì không có đạo luật nào riêng về tự do
báo chí, tự do ngôn luận. Tự do ngôn luận được xem là một trong những giá
trị truyền thống của nền dân chủ Hoa Kỳ, vì vậy, tại Hoa Kỳ nó được bảo vệ

19


×