Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

phuong phap day hoc bang tinh huong nham Giao duc phap luat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.24 KB, 28 trang )

TRƯỜNG THCS HOA LIÊN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm

Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học
môn Giáo dục cơng dân ở trường THCS

Giáo viên: Hồng Thị Hải Vinh


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói
chung, chất lượng giáo dục THCS nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Xuất phát từ tầm quan trọng bộ mơn Giáo dục cơng dân nói chung,
mảng kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành, phát triển nhân
cách, rèn giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho học sinh. Đặc biệt,
trong điều kiện phát triển xã hội chủ yếu dựa trên nền kinh tế tri thức, cộng với
trình độ phát triển cao của hoạt động dạy học và giáo dục trên thế giới thì việc áp
dụng các phương pháp dạy học tích cực (trong đó có phương pháp dạy học tình
huống) là việc làm cần thiết đối với giáo viên dạy môn Giáo dục công dân.
1.3. Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà
trường THCS hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến
phương pháp cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân trong
nhà trường phổ thông những năm gần dây gặt hái được nhiều thành công. Tuy
nhiên, phương pháp dạy học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo lối
truyền thống, dạy chay học chay, truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng, cho


ghi chép.
1.4. Phương pháp dạy học bằng tình huống là một phương pháp dạy học tích
cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao, làm
tăng tính thực tiễn của mơn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải quyết
các vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,… Giáo dục công dân
là mơn học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh.
Việc áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống vào giảng dạy mơn GDCD là
cấp thiết.


Xuất phát từ những lý do nêu trên, bản thân tơi chọn: “Sử dụng phương pháp
dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh qua dạy học môn
Giáo dục công dân ở trường THCS ” làm tiểu luận khoa học
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp dạy học bằng
tình huống tình huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu
nghiên cứu việc áp dụng phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức pháp luật
thuộc môn Giáo dục công dân với mục đích góp phần hình thành và phát triển
năng lực thực tiễn, thái độ, hành vi đúng đắn cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG
Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại trường
THCS Hoa Liên - Huyện Nghi Xuân- Tỉnh Hà Tĩnh.
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Nếu áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống vào giảng dạy mảng
kiến thức pháp luật ở môn Giáo dục cơng dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ
góp phần nâng cao chất lượng dạy học mơn Giáo dục công dân.
5. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THCS Hoa Liên Huyện Nghi Xuân- Tỉnh Hà Tĩnh.
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài

- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
vào dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THCS Hoa Liên - Huyện Nghi
Xuân- Tỉnh Hà Tĩnh.


- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục
công dân
5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường THCS Hoa Liên - Huyện Nghi Xuân- Tỉnh Hà Tĩnh
.- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào thực tiễn
giảng dạy môn GDCD hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và tổng kết
lý thuyết.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát điều
tra, xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp khác như tổng kết
kinh nghiệm, quan sát...
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan điểm về
phương pháp dạy học bằng tình huống trong dạy học.
7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của giáo
viên GDCD
7.3. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các GV, sinh viên, học sinh.
8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục, Tiểu luận kết cấu thành 02 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương II: Tiến trình thực hiện nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu



NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
I.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
trong dạy học mơn GDCD ở trường Trung học cơ sở.
I.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
I.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa
về phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối
hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trị tự giác, tích cực, tự
lực đạt tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của
giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm
bảo cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học địi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trị, trong
q trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả
là trị lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp
dạy học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy
và học có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học,
chúng là hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục
đích, tác động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự
thống nhất này phương pháp dạy giữ vai trị chỉ đạo, cịn phương pháp học có tính
độc lập tương đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học
có ảnh hưởng trở lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp
học cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.



Thầy truyền đạt cho trị một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng
lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra,
đánh giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này
gắn bó hữu cơ với nhau, chúng khơng thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều
giáo viên chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên
phải kết hợp hai chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp
lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc
tiếp thu ban đầu và cả việc tự học của trị. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu,
là mơ hình cơ bản cho phương pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa
phải tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp
thu nội dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên tồn bộ lơgic bài giảng của
thầy mà tự lực chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực
hiện, tự kiểm tra - đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt
được lôgic cơ bản của bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lơgic
của bản thân. Vậy, trong phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo
gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của
cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với
học, và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động
truyền đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác,
dạy học tối ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được
cùng một lúc ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp
học ứng với ba giai đoạn học tập.

Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.


Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ
bộ nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thơng tin, biến nó
thành học vấn riêng. Ở đây trị phải sử dụng tồn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là
vận dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và q trình học thì q trình dạy có vai trị chỉ đạo
trong cả ba giai đoạn của q trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ
đạt kết quả cao.
I.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hồn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án
giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hồn cảnh gắn với câu
chuyện có cốt truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết
ra để minh chứng một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống
dạy học là những tình huống thực hoặc mơ phỏng theo tình huồng thực, được cấu
trúc hóa nhằm mục đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của
bài tốn nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể
giải quyết được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là
những tình huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng
giữa cái (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này địi
hỏi phải được giải quyết”.

“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi
anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, q trình của thực tế, khi chưa
thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích


thích con người tìm tịi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề
là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu
của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong q trình nêu ra và giải
quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của
con người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu
giải quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tịi
sáng tạo tích cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương
pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là:
tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý
thức được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của
mình thì hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề
đó. Nghĩa là tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh,
đề xuất vấn đề và giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề ln chứa đựng một nội dung cần xác định, một
nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc
nghiên cứu và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc
phương thức hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng
về cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức

và kỹ năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề
khơng địi hỏi q cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó
giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn


khách quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận
và có nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tịi, tích cực, sáng
tạo, kết quả là họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho
các em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó
nhưng đồng thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần
thiết nhưng thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết
cần tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương
pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên
nhu cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp
nhận mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học
sinh. Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích
cần đạt được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những
phương pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả
về lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên khơng
đưa ra được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng khơng đúng với nội dung

hoặc khơng sát thực tế. Từ đó làm cho người học khơng định hướng được cách giải
quyết tình huống, hoặc giải quyết sai.
I.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
I.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung
tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:


Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và
dễ nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thơng qua các tình huống được phân tích, thảo luận,
người học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến
thức này một cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể
rơi vào tình trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên
thì phương pháp giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách
sâu sắc gắn liền với q trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao
khả năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống,
q trình tiếp nhận thơng tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh,
trong đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri
thức đó thì phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một mơi trường học tích
cực có sự tương tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong
đó, học sinh được đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải
quyết tình huống và họ phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình
để lập luận bảo vệ quan điểm đó. Họ khơng bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định
của giáo viên khi giải quyết một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án
giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình huống cịn giúp người học có
thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm,
thông tin từ những bạn học khác làm phong phú hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết,
vận dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học sinh có

thể phải vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn
học hoặc của nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thơng qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa
đủ kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ
khả năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa
gặp bao giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và


khơng loại trừ khả năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ
sung thêm kiến thức cho cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể
rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết
trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành cơng
trong tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu
điểm và hạn chế của bản thân khi họ ln có mơi trường thuận lợi để so sánh với
các học viên khác trong q trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học
hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác.
Phương pháp học bằng tình huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát
biểu trước đám đông một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một
cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải
quyết các tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời
có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng
nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn vốn kiến thức của
mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức,
kỹ năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt
có thể đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả

năng nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học
tập của học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thơng
qua việc phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải
quyết các vấn đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thơng tin và trở
thành người có thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được
nghiên cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với
việc học vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần


nghiên cứu, tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan
điểm của mình. Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu,
nghiên cứu vấn đề để trả lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng
thời họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ
học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ
những học sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh
nghiên cứu tình huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý
hoặc sai sót của tình huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho
phù hợp.
I.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống
cịn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy
bằng tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm
khác nhau tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và
kinh nghiệm của người học. Vì vậy, đơi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ khơng

hướng theo con đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống
mong muốn, nhất là trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến
từ những vùng miền khác nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều
phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống địi hỏi tinh thần tự học,
thái độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy
nhiên, hiện nay có khá nhiều học sinh khơng quen với phương pháp học bằng tình
huống, họ khơng có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, khơng hợp tác từ đó
làm giảm hiệu quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.


Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của
người học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất
định, giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ
thống, logic cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng
tình huống, học sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ
tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so với phương pháp học truyền thống. Phương
pháp dạy học bằng tình huống địi hỏi giảng viên phải là người tích cực, ln đổi
mới, cập nhật thơng tin, kiến thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều
kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên
“tuổi thọ” của một tình huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một
tình huống, giảng dạy được một lần đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy khơng có việc gì để làm. Đây là một
ý kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng
phức tạp hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu
hỏi, tổ chức và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận
xét, phản biện… Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá
trình ứng dụng phương pháp này.
I.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống

1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng
tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình
thuyết giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc
vào từng bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó
thành những loại như sau:


Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới
dạng các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này
thường chỉ khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài
thuyết giảng của giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo
viên vừa giảng và (2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung
kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp
hơn Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp. Các
tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề nhằm gợi mở
kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống này cần
được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các tình
huống khơng cần q khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu
và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp
nhất và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học
sinh áp dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc
trong thực tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học
sinh không những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các
bước chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để
giải quyết tình huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên là
người hướng dẫn cho học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao
nhất. Nó thường bao gồm ít nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học

và do đó yêu cầu về sự chuẩn bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao
nhất”.
Ngồi ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo
độ mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây
dựng các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà
trong đó lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất
tốt trong việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi
học sinh xử lý các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt khơng phải là bản


thân kết luận mà là cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là
các tình huống dẫn tới một kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý
tình huống xong giáo viên sẽ định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống.
Loại tình huống này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội
dung.
I.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề
nào đó và qua q trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây
dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình
giải quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng
các bước sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống ln bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt
tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên
muốn học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay
cũng có thể là một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và
áp dụng được vào thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên

những vấn đề mà thơng thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến
thức cần học sinh tiếp thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải
giải quyết một số vấn đề nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được
xác định. Trên cơ sở các vấn đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết
sự kiện để hình thành một tình huống hồn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên
có thể có hai cách để xây dựng tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên
những vụ việc đã xảy ra và đã được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có những vụ
việc liên quan tới những nội dung kiến thức mà giáo viên đang muốn học sinh tìm


hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện
cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ hai, nếu khơng tìm được vụ việc thực tế
thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình huống giả định. Trong trường hợp
này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân tích trên đây phải được tuân
thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một cơng đoạn quan trọng trong quá
trình dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn
GDCD ở trường Trung học cơ sở Hoa Liên:
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát:
Hai xã Cổ Đạm, Xuân Liên là khu vực thuộc vùng bãi ngang của huyện
Nghi Xuân - Hà Tĩnh. Đây là nơi đời sống của người dân cịn khó khăn, chật vật.
một số nơi còn tồn tại các tập quán, tư tưởng lạc hậu. Ỏ đây có vài thơn có theo tơn
giáo (Thiên Chúa Giáo). Vì thế tâm sinh lí HS nơi đây sẽ phức tạp hơn ở những
nơi khác. Hơn nữa, do cuộc sống khó khăn nên đời sống về tinh thần cũng chưa
phong phú, việc tiếp cận những thông tin mới cịn chưa kịp thời, nhất là những
thơng tin về pháp luật.
I.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học
sinh trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học cơ sở Hoa Liên:
Môn GDCD có vị trí hết sức quan trọng, nhưng trong thực tế mơn GDCD

chưa có được vị trí xứng đáng như nó vốn có. Trong quan niệm của nhiều người
coi môn GDCD là môn phụ, ai dạy cũng được. Nên đã dẫn đến hiện tượng cho GV
môn khác dạy kiêm nhiệm điều đó làm ảnh hưỏng đến tâm lý của trị…Hơn nữa
việc dạy cũng khơng có sự đầu tư, chuẩn bị chu đáo mà chỉ mang tính cung cấp
kiến thức đơn thuần, rao giảng lý thuyết khô khan, chưa biết cách tạo ra sự hứng
thú của người học vì thế càng làm cho HS lơ là hơn với môn học. Do đó kết quả
dạy và học khơng đựơc như mong muốn. GV dạy chưa có đầu tư về chun mơn, ít
sáng tạo trong sử dụng các phương pháp dạy học:
Cụ thể:


Mức độ vận
Các PPDH cụ
thể
1. PP thuyết

dụng
Thường
xun (%)
x

trình

Thỉnh thoảng

Khơng bao

(%)

giờ (%)


x
x

2. PP vấn đáp
3. PP trực
quan
4. PP phân vai

x
x
x

5. PP hợp tác
làm việc

x

theo nhóm
6. PP dạy học
bằng
tình
huống
7.

Các
phương
pháp
khác


I.2.3. Ngun nhân:
* Khách quan:
- Sự thiếu quan tâm và coi nhẹ môn học của học sinh, của phụ huynh học sinh
và của cả xã hội (Giáo dục công dân bị coi là một môn “phụ”).
- Học sinh chưa đầu tư công sức, chưa giành thời gian cho môn học Giáo dục
công dân.
- Kênh hình ở sách giáo khoa thì nghèo nàn, khơng thu hút học sinh.


- Thông tin, sự kiện, chuyện đọc ở sách giáo khoa thì q cũ, khơng cập nhật.
- Sách tham khảo lại khan hiếm.
*Chủ quan:
Đa số giáo viên chưa đầu tư xứng đáng cho mơn học như vẫn cịn chú trọng
truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình xen kẽ hỏi đáp, giảng giải kiến thức, ít
phát huy tính tích cực và phát triển tư duy.
Ở trường THCS giáo viên dạy GDCD chủ yếu là kiêm nhiệm, họ chủ yếu lo
đầu tư vào mơn chính mình đảm nhận như Văn, Sử...nên ít đầu tư cho monn
GDCD.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương I đã đi sâu phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sở lý luận cho đề
tài nghiên cứu như giải thích những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. Đặc
biệt, tác giả đã trình bày làm nổi bật các nội dung liên quan đến PPDHBTH trong
dạy học như khái niệm, cấu trúc tiến trình thực hiện, ưu nhược điểm của phương
pháp và khả năng vận dụng vào giảng dạy môn Giáo dục công dân trong các nhà
trường phổ thơng hiện nay.

Chương II. VẬN DỤNG CÁC LOẠI TÌNH HUỐNG PHÙ HỢP ĐỂ GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRƯỜNG THCS
II.1: Một số tình hng:
Như chương 1 đã trình bày có 3 dạnh tình huống cơ bản để giáo dục pháp luật

cho học sinh là: Tình huống đơn giản, Tình huống phức tạp, Tình huống đầy đủ.
nhưng với khn khổ bài tiểu luận đồng thời với đối tượng là học sinh THCS nên
tơi chỉ xây dựng một số tình huống của dạng 1: Tình huống đơn giản.
II.1.1. Khái niệm
II.1.1.1 Khái niệm tình huống:
Hiện nay, trong khoa học giáo dục có nhiều cách định nghĩa khác nhau
về tình huống:


+ Tình huống là những câu chuyện thực tế với những thơng điệp nhằm
mục đích giáo dục.
+ Tình huống là những thơng tin trong đó có chứa đựng mâu thuẫn nhận
thức (muốn biết mà chưa biết) không thể giải quyết chỉ bằng sự tái hiện.
+ Một tình huống tốt và hay không dừng lại ở sự mô tả chung chung. Đó
là sự sắp xếp thơng tin để người đọc có cảm thấy mình đang phải đối mặt với
mọi thứ như chính tác giả. Trong khi đó, sự sắp xếp khéo léo sẽ gói ghém mọi
thứ theo một trật tự. Nó cho người đọc biết mọi thứ, kể cả biết trước kết cục. Vì
thế, người đọc chẳng phải động não bao nhiêu cả.
II.1.1.2. Khái niệm về tình huống đơn giản:
“Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng các ví dụ minh họa với tình
tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ khoảng 4 - 5 câu. Các tình
huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng của giáo viên nhằm hai
mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và (2) kích thích học
sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
II.2. Ví dụ:
Ví dụ 1:
Bài 18: QUYỀN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
(GDCD8 - đây là một bài khó dạy nhất trong chương trình GDCD ở THCS)
+ Để khai thác nội dung quyền khiếu nại, tố cáo theo chuẩn kiến thức tôi đã
xây dựng những tình huống trên cơ sở những câu chuyện, vụ án có thật, có tính

thời sự.
- GV cho HS theo dõi đoạn phim có nội dung sau:
Bác Tam là người tàn tật nhưng phịng thuế của phường lại định mức đóng thuế
cho cửa hàng của bác bằng mức thuế của những người bình thường khác. Bác Bình


khuyên bác Tam làm đơn khiếu nại vì người tàn tật là đối tượng được xét miễn
giảm thuế.
Hỏi: - Em hãy cho biết nội dung đoạn phim nói điều gì?
- Theo em, bác Bình khuyên bác Tam như vậy là đúng hay sai? Vì sao?
- HS: trả lời cá nhân
GV kết luận: bác Bình khuyên bác Tam như vậy là đúng vì người khuyết tật được
quyền đề nghị xem xét miễn giảm thuế kinh doanh đối với mình.
Ví dụ 2:
Bài 15 “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí”(GDCD 9)
Ví dụ: khi dạy bài “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí của cơng
dân”, GV dù có kinh nghiệm đến đâu khi giúp HS hiểu rõ thế nào là một hành
vi vi phạm pháp luật cũng mất rất nhiều thời gian, nhưng với hệ thống bài tập
tình huống sau đây thì HS dễ dàng nhận biết:

Tình huống

Có chủ ý
thực hiện


Lỗi

Khơng


Hậu
quả

Vi phạm
PL


Khơng

1/ Ơng Ân xây
nhà
cao
tầng
khơng giấy phép
và đem đổ phế thải
xây dựng xuống
cống thốt nước.

x

Xây
nhà trái
phép,
đổ phế
thải
xuống
cống
thốt
nước


Tắc cống,
ngập
nước, ơ
nhiễm
mơi
trường

x

2/ Lê cùng bạn
tham gia đua xe
máy, vượt đèn đỏ,
gây tai nạn giao
thông.

x

Đua xe,
vượt
đèn đỏ

Gây
tai
nạn, thiệt
hại
về
người và
của

x




×