Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Bước đầu khám phá về hệ giá trị nhân văn ở trẻ em Việt Nam: Khảo sát tại thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 14 trang )

BƯỚC ĐẦU KHÁM PHÁ VỀ HỆ GIÁ TRỊ NHÂN VĂN
Ở TRẺ EM VIỆT NAM: KHẢO SÁT TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bùi Thị Huệ*1, Lê Hồng Thế Huy2
Tóm tắt
Giá trị được hiểu như là một khía cạnh của nhân cách làm nền tảng để
thúc đẩy thái độ và hành vi. Tìm hiểu về giá trị nhân văn ở trẻ nhằm mục
tiêu định hướng hành vi, nhân cách, phương thức bộc lộ cảm xúc cho trẻ.
Nghiên cứu sử dụng công cụ Picture-based Value scale for children (PBVS-C,
Doring, 2010) để khảo sát trên 270 trẻ bình thường thuộc ba khối lớp 1, 2, 3
(tuổi trung bình 7,21) đang theo học các trường tiểu học cơng lập tại Thành
phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy Phổ quát là giá trị được trẻ
hướng đến nhiều nhất, trong khi kích thích là giá trị ít được ưa chuộng nhất.
Trẻ nữ coi trọng các giá trị thuộc nhóm giá trị Bảo tồn nhiều hơn trẻ nam.
So với các khối lớp nhỏ hơn, trẻ khối 3 hướng nhiều hơn đến các giá trị thuộc
nhóm Bảo tồn và ít ưa chuộng các giá trị thuộc nhóm Cởi mở để thay đổi và
tự nâng cao. Những kết quả này là gợi ý ban đầu để mở rộng nghiên cứu trên
trẻ em ở những địa phương khác trên cả nước.
Từ khóa: giá trị nhân văn, trẻ em, giới tính, khối lớp, điều kiện kinh tế

FIRST STEP TO DISCOVER THE HUMANITY
VALUE SYSTEM IN VIETNAM’S CHILDREN:
SURVEY IN HO CHI MINH CITY
Abstract
Values ​​are understood as an aspect of personality that is underlying to
promote attitudes and behaviors. Learning about human values in
​​ children
aims to orient children’s behavior, personality, and ways of expressing
Trung Tâm Phát Triển Giáo Dục & Trị Liệu Tâm Lý Alpha, TP HCM.
*Correspondence:
2


Khoa Tâm lý học, Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM.
1

396


emotions. The study used the Picture-based Value scale for children tool
(PBVS-C, Doring, 2010) to survey over 270 normal children in grades 1,
2 and 3 (average age 7,21) attending schools in public primary schools in
Ho Chi Minh City. Research results showed that Universalism is the most
favored value by children, while stimulus seeking is the least favored value.
The group of girls preferred the values ​​of the Conservation value to the group
of boys. Comparing with the younger grades, 3rd graders were more oriented
towards Conservation value and
​​
less oriented towards Openness to change
and Self-Direction value. These results can provide suggestions for further
investigations within children in other regions in Vietnam.
Keywords: human values, children, gender, grade, economic background
I.

DẪN NHẬP

Giá trị là những điều có ý nghĩa và con người luôn mong muốn hướng
tới trong cuộc sống. Từ khi ra đời, lý thuyết về các giá trị đã lấy con người
làm chủ thể, là động lực, là mục tiêu của sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Theo Rokeach (1973), giá trị bao gồm các thành phần nhận thức, tình cảm
và hành vi. Theo Schwartz (1992), giá trị là mục tiêu hướng đến của con
người trong cuộc sống đồng thời nó hướng dẫn hành vi và là tiêu chí đánh
giá thế giới xung quanh của mỗi con người. Chính vì tầm quan trọng đó,

nghiên cứu về chủ đề giá trị đã trở nên sôi động từ rất sớm. Lịch sử nghiên
cứu về giá trị nói chung trong tâm lý học ghi nhận ba mơ hình lý thuyết
lớn đã tạo ra những ảnh hưởng quan trọng cho các nghiên cứu sau này,
bao gồm lý thuyết giá trị của Allport (Allport & Vernon, 1931), Rokeach
(1973), Schwartz (1992). Trong những năm gần đây lý thuyết giá trị của
Schwartz là một trong những lý thuyết được thừa nhận, sử dụng và trích
dẫn nhiều nhất vì tính thời đại, sự chặt chẽ về mơ hình cũng như sự thuận
tiện về mặt cơng cụ đo lường. Theo Schwartz (1992), giá trị được hiểu như
những mục tiêu xuyên bối cảnh, được dùng như là các nguyên tắc dẫn
đường trong cuộc sống của một người, hoặc một nhóm. Điều tạo ra sự
khác biệt giữa các giá trị chính là bản chất động cơ của chúng. Schwartz
(1992) giả định rằng các mối liên hệ giữa các giá trị khác nhau có thể có
một cấu trúc chung mang tính phổ qt. Tác giả mơ tả cấu trúc này có
dạng một đường trịn động lực liên tục (xem Hình 1). Tính chất vịng trịn
397


thể hiện ba tính chất: (1) các giá trị liền kề có tính tương thích về mặt động
lực (ví dụ giữa An toàn, Truyền thống và Tuân thủ); (2) sự tương đồng giữa
các giá trị giảm dần theo khoảng cách giữa chúng xung quanh vòng tròn;
và (3) các giá trị đối nghịch về mặt động lực được đặt đối diện nhau trong
đường trịn (ví dụ: Truyền thống đối nghịch với Kích thích; Tự nâng cao đối
nghịch với Hưởng thụ). Theo tác giả, 10 giá trị cơ bản của con người mang
tính phổ qt xun suốt các nền văn hóa trên thế giới gồm: Nhân ái; Phổ
quát; Truyền thống; Tuân thủ; An tồn; Quyền lực; Hưởng thụ; Kích thích
và Sáng tạo. Mười giá trị cơ bản này được nhóm lại thành 4 phân nhóm
giá trị lớn, bao gồm: Tính ưu việt của bản thân/Tự siêu việt (Nhân ái, Phổ
quát); Tự nâng cao (Quyền lực, Thành đạt); Bảo tồn (An toàn, Truyền
thống, Tuân thủ) và Cởi mở để thay đổi (Sáng tạo, Kích thích, Hưởng thụ).
Các nghiên cứu về hệ giá trị nhân văn đã được triển khai ở rất nhiều nền

văn hóa và quốc gia khác nhau trên thế giới, bao gồm nhiều cơng trình ở
quy mơ xun văn hóa, cho thấy nhiều sự tương đồng cũng như khác biệt
liên văn hóa trong việc ưu tiên một số giá trị so với một số giá trị khác.
Bảng 1. Danh sách và định nghĩa ngắn gọn 10 giá trị
theo mơ hình lý thuyết của Schwartz (1992)
Các giá trị cơ bản Tóm tắt định nghĩa
Nhân ái
Thấu hiểu, trân trọng, khoan dung và bảo vệ phúc lợi cho
nhân loại và tự nhiên.
Phổ quát
Giữ gìn và gia tăng phúc lợi cho mọi người, nhất là với
những người gần gũi, thân cận với mình.
Truyền thống
Tơn trọng, cam kết, chấp nhận các suy nghĩ, tập tục của một
văn hóa hoặc tơn giáo áp đặt lên cá nhân đó.
Tuân thủ
Kiềm chế hành động, sự nghiêng, và các xung động như
buồn bã hay đe dọa người khác và vi phạm các chuẩn mực
hay kỳ vọng xã hội.
An toàn
An toàn, hài hòa và ổn định trong xã hội, trong mối quan
hệ, và trong bản thân.
Quyền lực
Địa vị xã hội và danh vọng, kiểm soát hoặc điều khiển người
khác, hoặc các nguồn lực.
Thành đạt
Thành công cá nhân thông qua việc chứng minh năng lực so
với tiêu chuẩn xã hội.

398



Các giá trị cơ bản
Hưởng thụ
Kích thích
Sáng tạo

Tóm tắt định nghĩa
Thụ hưởng, sự hài lòng về cảm giác.
Hứng thú, mới lạ và thử thách trong cuộc sống.
Tư duy độc lập và hành động mang tính tạo tác, khám phá,
lựa chọn.

Tại Việt Nam, một số cơng trình nghiên cứu về hệ giá trị của Schwartz
(1992) đã được thực hiện, công bố và có giá trị to lớn về mặt lý luận trên
người trưởng thành và vị thành niên tại nhiều địa phương trên cả nước
(Trương và cộng sự, 2015; Rozycka-Tran và cộng sự, 2017); Bên cạnh đó,
một số tài liệu về giáo dục, định hướng giá trị cho trẻ em, thanh thiếu niên
tại Việt Nam cũng đã được nghiên cứu và biên soạn (Nguyễn Tuấn Anh,
2018, 2021; Trương Thị Khánh Hà và cộng sự, 2015). Đa số các kết quả
nghiên cứu trên các nhóm đối tượng này cho thấy các giá trị thuộc nhóm
Bảo tồn và Tự siêu việt được đánh giá cao hơn những giá trị thuộc nhóm
Tự nâng cao hay Cởi mở để thay đổi.

Hình 1. Cấu trúc giá trị cơ bản của Schwartz (1992)
Đối với hệ giá trị nhân văn ở trẻ em, các cơng trình nghiên cứu trên
thế giới chỉ mới bắt đầu trong vòng 10 năm trở lại đây. Lý do cho sự chậm
trễ này chủ yếu do vấn đề thích ứng cơng cụ phù hợp với trẻ nhỏ. Doring
399



(2018) là tác giả đầu tiên đưa ra công cụ đo lường hệ giá trị của trẻ em và
công cụ hữu ích này đã nhanh chóng được thích ứng trong nhiều ngơn
ngữ và nền văn hóa khác nhau (Ba Lan, Đức, Pháp, Brazil…). Tương tự
như đối với người trưởng thành, kết quả của các nghiên cứu đa văn hóa
vừa cho thấy sự phổ quát của đa số các giá trị, vừa gợi ý những khác biệt
về ưu tiên giá trị giữa các nền văn hóa cộng đồng và cá nhân. Ví dụ, trẻ em
tại Đức, Pháp, Bồ Đào Nha và Chile đều ưa chuộng nhất giá trị Hưởng thụ,
trong khi giá trị Quyền lực và Thành đạt ít được ưa chuộng nhất (Blisky,
& Doring, 2013). Khi so sánh hệ giá trị giữa trẻ nam và trẻ nữ, các nghiên
cứu liên văn hóa cho thấy tại châu Âu, trẻ nam ưa chuộng các giá trị thuộc
nhóm Tự nâng cao hay Cởi mở để thay đổi hơn trẻ nữ, còn trẻ nữ ưa chuộng
các giá trị thuộc nhóm Tự siêu việt và Bảo tồn hơn trẻ nam (Schwartz, &
Rubel, 2005). Tại Việt Nam cũng như các nước Á Đông, nghiên cứu về hệ
giá trị của Schwartz (1992) trên đối tượng trẻ em vẫn còn là một chủ đề rất
mới mẻ và hiện chưa có cơng bố nào có sẵn về chủ đề này. Vì thế, bước đầu
tìm hiểu về hệ giá trị ở trẻ em Việt Nam là một bước đi cần thiết, hữu ích
cho cả lĩnh vực nghiên cứu lẫn thực hành đa ngành có liên quan đến trẻ.
Do đó, bài nghiên cứu này nhắm đến việc bước đầu tìm hiểu về cơ cấu ưu
tiên các giá trị nhân văn theo mơ hình của Schwartz (1992) ở nhóm các trẻ
đầu tiểu học (6-9 tuổi) ở một địa phương tại Việt Nam. Ảnh hưởng của các
biến số như giới tính và khối lớp lên cơ cấu các giá trị cũng được xem xét.
Đối chiếu với những kết quả nghiên cứu trên thế giới và đặc điểm của nền
văn hóa Việt Nam, nghiên cứu đặt ra giả thuyết rằng các giá trị thuộc các
nhóm Tự siêu việt (Siêu nghiệm) và Bảo tồn sẽ được các trẻ em Việt Nam
ưu tiên hơn các giá trị thuộc các nhóm Tự nâng cao hay Cởi mở để thay đổi.
Ngoài ra, giả thuyết về khác biệt giữa hai giới tính của trẻ trong các nhóm
giá trị lớn cũng có những điểm khác biệt, ví dụ trẻ em nam sẽ ưu tiên các
các giá trị thuộc các nhóm Tự nâng cao hay Cởi mở để thay đổi hơn trẻ nữ.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành khảo sát trên 270 trẻ em đang theo học các khối
lớp 1, 2 và 3 tại 4 trường tiểu học cơng lập trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh. Độ tuổi trung bình của các trẻ là 7,21 và độ lệch chuẩn là 0,85.
400


Trong đó bao gồm: 117 trẻ nam (43,3%) và 153 trẻ nữ (56,7%). Xét theo
phân bố khối lớp, mẫu khối lớp 1 gồm 76 trẻ, khối lớp 2 là 97 trẻ và khối
lớp 3 là 97 trẻ. Lớp và các trẻ được lựa chọn ngẫu nhiên trong các trường.
Các trẻ có rối loạn phát triển hoặc đang điều trị một rối loạn tâm thần nào
khác bị loại ra khỏi mẫu khảo sát.
2.2. Quy trình nghiên cứu
Trước khi tiến hành nghiên cứu, kế hoạch nghiên cứu cụ thể của
nhóm tác giả được Ban giám hiệu các trường tiểu học phê duyệt và đồng
ý hỗ trợ. Việc chọn lớp và các trẻ được các tác giả thực hiện ngẫu nhiên,
cùng với sự thông qua của Ban giám hiệu cũng như giáo viên chủ nhiệm
của các lớp được chọn. Phiếu thông tin về nghiên cứu và thu thập ý kiến
đồng thuận được nhóm tác giả gửi đến cho các phụ huynh của các trẻ được
chọn. Chỉ những trẻ nào có sự đồng ý của bố mẹ cho phép tham gia nghiên
cứu mới được nhận vào mẫu khảo sát. Việc khảo sát được thực hiện với
hình thức trao đổi cá nhân với từng trẻ. Trước khi thực hiện, điều tra viên
cùng trẻ đọc qua nội dung từng tranh để đảm bảo trẻ hiểu đúng về ý nghĩa
mà từng tranh gợi lên. Sau đó, trẻ sẽ được hướng dẫn để thực hiện từng
bước chọn tranh theo suy nghĩ, sở thích của mình.
2.3. Cơng cụ nghiên cứu
Trong phạm vi của nghiên cứu này, nhóm tác giả sử dụng Bảng khảo
sát giá trị dựa vào hình ảnh dành cho trẻ (Picture-based Value Scale for
Children, Doring, 2010). Đây là công cụ lượng giá được phát triển trên
khung khái niệm của lý thuyết các giá trị phổ quát của con người theo

Schwartz (1992) và được thiết kế dành riêng cho trẻ em từ 6 đến 12 tuổi.
Cơng cụ này có nguyên bản là tiếng Đức và đã được chuyển ngữ và sử
dụng trong nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới như Anh, Pháp, Bồ
Đào Nha,... Bộ công cụ được sử dụng trong nghiên cứu này được chuyển
ngữ từ bản tiếng Anh. Công cụ gồm 20 bức tranh diễn tả một hoạt động
quen thuộc của trẻ em (ví dụ: chăm sóc cây cối, đi chơi, phát biểu trong
lớp,…). Mỗi bức tranh có đi kèm theo một dịng mơ tả ngắn về hoạt động
của đứa trẻ trong tranh. Hai mươi bức tranh được chia đều cho 10 giá trị,
nghĩa là mỗi giá trị tương ứng với 2 tranh. Các bức tranh được dán theo
thứ tự trong một tấm bìa và trẻ có thể dùng tay gỡ bức tranh ra khỏi tấm
bìa một cách dễ dàng. Sau khi đã xem và đọc nội dung của toàn bộ các
401


bức tranh, trẻ sẽ được hướng dẫn chọn ra lần lượt 2 bức tranh trẻ muốn
trở thành nhất (được nhóm nghiên cứu mã hóa thành 4 điểm), tiếp theo
là 2 bức tranh mà trẻ không muốn trở thành nhất (mã hóa thành 0 điểm),
rồi lần lượt là 4 bức tranh trẻ muốn trở thành (mã hóa thành 3 điểm) và
khơng muốn trở thành (mã hóa thành 1 điểm) trong nhóm tranh cịn lại.
Có 8 bức tranh sẽ khơng được trẻ lựa chọn (mã hóa thành 2 điểm). Điểm
tương ứng của từng giá trị cơ bản sẽ được tính bằng trung bình cộng điểm
mã hóa của hai tranh thành phần. Nói cách khác là thang đo được thiết
kế dạng Likert 5 bậc từ 1- Không giống tôi chút nào đến 5- Rất giống tơi.
Điểm trung bình các các giá trị càng cao thể hiện mức độ ưu tiên các giá trị
của trẻ em càng lớn (giá trị quan trọng đối với trẻ em và ngược lại).

Quyền lực
Khám phá những điều mới lạ
Hình 2. Mơ phỏng hai tranh trong cơng cụ PBVS-C
đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt

2.4. Xử lý số liệu
Dữ liệu sau khi thu về được xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 25.0.
Các phép phân tích so sánh sử dụng t-test để thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa về mặt thống kê giữa trẻ nam và trẻ nữ, sử dụng các phép phân tích
ANOVA để thấy một số khác biệt thống kê về trung bình giá trị giữa các
khối lớp.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Phân bố về 10 giá trị nhân văn trên tổng mẫu
Xét trên bình diện tổng mẫu khảo sát, kết quả cho thấy Phổ quát là giá
trị nhận được giá trị trung bình cao nhất, tiếp theo đó là các giá trị Truyền
402


thống, Nhân ái, Tuân thủ và Thành đạt. Ngược lại, giá trị Quyền lực và
Kích thích là hai giá trị có giá trị trung bình thấp nhất ở trẻ đầu tiểu học.
Khi xét theo phân nhóm giá trị, nhóm giá trị Tự siêu việt đạt được giá trị
trung bình cao nhất, tiếp đến là các nhóm Bảo tồn và Tự nâng cao. Phân
nhóm Cởi mở để thay đổi có giá trị trung bình thấp nhất trên tổng mẫu.
Kết quả trong nghiên cứu này có một số tương đồng với những tài liệu đã
công bố trước đây ở trẻ em trên thế giới, ví dụ như việc đánh giá cao các
giá trị thuộc nhóm Tự siêu việt hoặc khơng ưu tiên các giá trị như Quyền
lực (Schwartz, & Rubel, 2005). Bên cạnh đó, kết quả cũng cho thấy một số
khác biệt đáng kể với kết quả thu được ở trẻ em châu Âu và châu Mỹ. Ví
dụ, giá trị Hưởng thụ ở trẻ em Việt Nam chỉ được đứng thứ 8 trong cơ cấu
các giá trị, trong khi ở các nước như Đức, Bồ Đào Nha hay Chile, giá trị
này luôn được lựa chọn đứng đầu tiên (Blisky, & Doring, 2013). Giả thuyết
nghiên cứu ban đầu đặt ra được khẳng định một phần. Chi tiết về các chỉ
số thống kê mô tả trên tổng mẫu được trình bày trong Bảng 2.
Bảng 2. Định hướng giá trị nhân văn ở trẻ em xếp theo thứ tự giảm dần
về mức độ quan trọng của các giá trị

Giá trị
Phổ quát
Truyền thống
Nhân ái
Tuân thủ

Trung bình
3,51
3,43
3,32
3,28

Độ lệch chuẩn
0,61
0,70
0,61
0,61

Thành đạt

3,27

0,70

An tồn

3,18

0,64


Sáng tạo

3,06

0,78

Hưởng thụ

2,82

0,64

Quyền lực

2,30

0,85

Kích thích
Nhóm giá trị
Tự siêu việt
Bảo tồn

2,23
Trung bình
3,41
3,30

0,83
Độ lệch chuẩn

0,51
0,40

Tự nâng cao

2,80

0,50

Cởi mở để thay đổi

2,70

0,39

403


3.2. So sánh các giá trị nhân văn theo giới tính
Phân tích so sánh sử dụng t-test giữa hai nhóm trẻ nam và nữ cho
thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê giữa trẻ nam và trẻ nữ
ở 3 giá trị nhân văn là Quyền lực, Tuân thủ và Phổ quát. Cụ thể hơn, giá
trị trung bình của giá trị Tuân thủ và Phổ quát ở trẻ nữ cao hơn trẻ nam
(p < 0,05), còn trung bình của giá trị Quyền lực của trẻ nam cao hơn trẻ nữ
(p < 0,05). Ở bảy giá trị nhân văn cịn lại, khơng có khác biệt về mặt thống
kê nào được ghi nhận giữa hai giới tính. Khi xét đến 4 nhóm giá trị lớn, kết
quả cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê giữa trẻ nam và
nữ ở duy nhất nhóm giá trị Bảo tồn: trung bình ở nhóm trẻ nữ cao hơn ở
nhóm trẻ nam (p < 0,05). Như vậy, kết quả này khẳng định một phần giả
thuyết nghiên cứu đã nêu. Chi tiết về so sánh giữa hai giới tính trên các giá

trị được trình bày cụ thể trong Bảng 3.
Bảng 3. Định hướng giá trị nhân văn ở trẻ phân theo giới tính
Giá trị

Nữ

Nam

Quyền lực

2,45 (0,94)

2,19 (0,77)*

Tuân thủ

3,18 (0,61)

3,35 (0,61)*

Phổ quát
Thành đạt

3,40 (0,65)
3,27 (0,69)

3,59 (0,57)*
3,28 (0,71)

Hưởng thụ


2,81 (0,65)

2,82 (0,63)

Kích thích

2,34 (0,89)

2,15 (0,77)

Sáng tạo

2,98 (0,79)

3,12 (0,77)

An toàn

3,17 (0,71)

3,20 (0,59)

Truyền thống

3,39 (0,71)

3.46 (0,70)

Nhân ái


3,31 (0,67)

3,32 (0,56)

Nhóm giá trị

Nam

Nữ

Bảo tồn

3,24 (0,40)

3,34 (0,40)*

Tự nâng cao
Cởi mở để thay đổi

2,84 (0,50)
2,71 (0,40)

2,76 (0,50)
2,70 (0,39)

Tự siêu việt

3,35 (0,56)


3,46 (0,47)

Ghi chú: *: p < 0,05
404


3.3. So sánh các giá trị nhân văn theo khối lớp
Kết quả của các phép phân tích ANOVA cho thấy có một số khác biệt
về mặt thống kê về trung bình giá trị giữa 3 khối lớp. Ví dụ, đối với Thành
đạt và Quyền lực, trung bình ở trẻ khối 1 và khối 2 cao hơn trẻ khối 3
(p < 0,01). Ngược lại, ở trẻ khối 3 lại ghi nhận trung bình của giá trị Truyền
thống và Tuân thủ cao hơn trẻ khối 1 lẫn khối 2 (lần lượt p < 0,01 và < 0,05).
Đối với trung bình của giá trị An toàn, trẻ khối 1 thấp hơn so với trẻ khối 2
và 3 (p < 0,05). Đối với giá trị Kích thích, khác biệt về mặt thống kê chỉ tồn
tại giữa trẻ khối 1 và 2 (p < 0,05). Ở 4 giá trị cịn lại, khơng có bất cứ khác
biệt có ý nghĩa nào về mặt thống kê giữa các khối lớp.
Bảng 4. Định hướng giá trị nhân văn ở trẻ em theo khối lớp
Giá trị
Quyền lực
Thành cơng
Hưởng thụ
Kích thích
Sáng tạo
An tồn
Tn thủ
Truyền thống
Phổ qt
Nhân ái
Nhóm giá trị
Tự nâng cao

Cởi mở để thay đổi
Tự siêu việt
Bảo tồn

Lớp 1
2,57 (0,88)*
3,38 (0,71)*
2,79 (0,66)
2,40 (0,88)**
3,16 (0,78)
3,02 (0,66))**
3,13 (0,62)**
3,33 (0,66)*
3,42 (0,74)
3,27 (0,60)
Lớp 1
2,91 (0,51)*
2,78 (0,42)**
3,35 (0,55)
3,16 (0,39)*

Lớp 2
2,36 (0,88)*
3,39 (0,62)*
2,90 (0,68)
2,15 (0,83)**
2,98 (0,74)
3,24 (0,65)**
3,23 (0,61)**
3,34 (0,66)*

3,53 (0,57)
3,29 (0,62)
Lớp 2
2,88 (0,50)*
2,68 (0,40)
3,41 (0,49)
3,27 (0,39) **

Lớp 3
2,05 (0,74)*
3,07 (0,73)*
2,75 (0,58)
2,18 (0,77)
3,06 (0,82)
3,25 (0,61)**
3,44 (0,58)**
3,59 (0,74)*
3,55 (0,55)
3,38 (0,60)
Lớp 3
2,62 (0,44)*
2,67 (0,36)**
3,46 (0,50)
3,43 (0,39) **

Ghi chú: *: p < 0,05; **: p <0,01
Khi xét trên bình diện phân nhóm giá trị, kết quả cho thấy sự khác
biệt của khối lớp lên các nhóm giá trị Tự nâng cao (F = 9,84; p < 0,01) và
Bảo tồn (F = 9,039; p < 0,01). Những khác biệt này được tìm thấy giữa trẻ
khối lớp 3 và hai khối lớp còn lại, trong khi trẻ khối lớp 1 và khối lớp 2 lại

405


khơng có khác biệt nào về mặt thống kê giữa các nhóm giá trị. Cụ thể hơn,
trẻ khối lớp 3 có ưu tiên về nhóm giá trị Tự nâng cao thấp hơn trẻ khối 1
lẫn khối 2 (p < 0,01). Trái lại, trẻ khối 3 có ưu tiên về nhóm giá trị Bảo tồn
cao hơn trẻ khối lớp 1 lẫn khối lớp 2 (p < 0,01). Điểm trung bình của trẻ
khối 3 ở nhóm giá trị Cởi mở để thay đổi thấp hơn trẻ khối 1 (p < 0,05),
nhưng không khác so với trẻ khối 2. Về nhóm giá trị Tự siêu việt, khơng
có khác biệt nào về mặt thống kê giữa 3 khối lớp. Khi ta xét tập hợp cả 10
giá trị nhân văn, các mối quan hệ tương tác Giới tính x Khối lớp chỉ có ý
nghĩa thống kê duy nhất với giá trị Quyền lực (F = 3,044; p < 0,05). Đối với
4 phân nhóm giá trị, tương tác Giới tính x Khối lớp khơng có ý nghĩa thống
kê cho bất cứ nhóm giá trị nào.
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong số 10 giá trị nhân văn cơ bản, trẻ
em tại Thành phố Hồ Chí Minh có xu hướng ưa chuộng những giá trị
thuộc nhóm giá trị Tự siêu việt (Phổ quát, Nhân ái) và Bảo tồn (Truyền
thống và Tuân thủ). Ngược lại, trẻ ít có xu hướng chọn lựa ưu tiên những
giá trị trong các nhóm giá trị Tự nâng cao (Thành đạt, Quyền lực) hoặc giá
trị Cởi mở để thay đổi (Sáng tạo, Kích thích). Một số khác biệt về giới tính
và khối lớp, cũng như trong ưu tiên khi so sánh với các quốc gia phương
Tây cũng được tìm thấy.
Ưu tiên giá trị như trên có thể xuất phát từ nhiều đặc điểm tâm lý lứa
tuổi và điều kiện văn hóa-xã hội. Wiener (1988) cho rằng sự ưu tiên về sự
lựa chọn các giá trị trong hệ giá trị nhân văn của con người thường bắt
nguồn từ các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa đặc thù trong
q khứ. Các điều kiện đó ảnh hưởng tới mơi trường sinh sống, sản xuất và
sinh hoạt của một cộng đồng người, chi phối cách thức họ định giá về các
mối quan hệ và quyết định thứ bậc ưu tiên giữa các giá trị khác nhau. Các

giá trị này được lưu truyền giữa các thế hệ, thông qua tương tác xã hội và
giáo dục, xét cả ở cấp độ gia đình, cộng đồng hay xã hội, thể hiện sợi dây
liên hệ liên tục giữa quá khứ và hiện tại. Trong khuôn khổ lý thuyết này,
một số giả thuyết lý giải cho kết quả thu được có thể được đề xuất. Thứ
nhất, xét về cơ cấu ưu tiên giá trị trên tổng mẫu, kết quả trong nghiên cứu
này dù có vài khác biệt với các công bố ở những nước phương Tây, vẫn có
406


thể phù hợp với lý thuyết và thực tiễn văn hóa-giáo dục tại Việt Nam. Theo
Trương Thị Khánh Hà (2016), trong gia đình Việt Nam truyền thống, trẻ
em được giáo dục các giá trị và hành vi ứng xử từ bé dưới ảnh hưởng của
tinh thần Nho giáo. Một nếp gia đình truyền thống quan tâm trước hết
đến việc giáo dục tinh thần nhân ái, tình yêu thương, bổn phận, trách
nhiệm của người con đối với người thân trong gia đình, sự kính trọng,
chăm sóc đấng sinh thành hay đấng dưỡng dục, sống vì mọi người… Do
các giá trị Tự siêu Việt trong lý thuyết của Schwartz rất phù hợp với truyền
thống, quy tắc ứng xử liên cá nhân đã tồn tại trong xã hội, việc trẻ em Việt
Nam đề cao các giá trị trong nhóm này là điều có thể dự đốn và giải thích
được. Ngược lại, các giá trị quá thiên về đầu tư cá nhân (Quyền lực, Thành
đạt,…) khơng được ưu tiên do có thể đi ngược lại hoặc va chạm với các giá
trị cộng đồng đã và đang được lưu hành (Trương và cộng sự, 2015).
Thứ hai, khi bàn luận về sự khác biệt ưu tiên giá trị có thể liên quan
đến biến giới tính, những khác biệt này có thể xuất phát từ văn hóa và tư
tưởng của người Việt hiện đại đi theo chế độ phụ hệ và hình ảnh người
đàn ơng đóng vai trị trụ cột trong gia đình và ngồi xã hội. Theo nhiều tác
giả như Trương Thị Khánh Hà (2016) hay Trần Thị Minh Đức (2018), vẫn
còn tồn tại những hạn chế trong hình dung của xã hội về cách ứng xử và
trách nhiệm có liên quan đến giới, cụ thể là tư tưởng trọng nam khinh nữ,
những giá trị mang nặng định kiến giới áp đặt bởi xã hội (ví dụ con trai

nên có chí tiến thủ, học hành thành tài, dũng cảm, gánh vác việc lớn trong
gia đình, cịn con gái được mong đợi sẽ tỏ ra chăm chỉ, khéo léo, đảm đang,
trách nhiệm, có đủ “cơng, dung, ngơn, hạnh”… Ảnh hưởng này từ phía xã
hội có thể bắt đầu từ sớm và kết quả về một số khác biệt giữa hai giới tính
về ưu tiên giá trị có thể phản ánh hiện tượng này.
Thứ ba, sự khác biệt về ưu tiên các giá trị có thể phụ thuộc vào sự phát
triển nhận thức theo lứa tuổi/giai đoạn phát triển của trẻ. Dương Thị Diệu
Hoa (2012) chỉ ra rằng việc lĩnh hội giá trị ở trẻ chính là quá trình tác động
có mục đích, có phương pháp của người lớn. Trẻ học giá trị thông qua việc
tham gia vào các hoạt động có định hướng của gia đình và nhà trường,
nhất là vai trò quyết định của cha mẹ đối với việc hình thành giá trị ở trẻ
trong những năm đầu đời. Để quá trình giáo dục giá trị cho trẻ em thành
cơng, địi hỏi người lớn khơng chỉ dạy luân lý mà phải kết hợp với những

407


hành vi ứng xử có đạo đức. Sự học tập thông qua trải nghiệm mang lại cho
trẻ nhiều kinh nghiệm quý, giúp trẻ củng cố những luân lý đã tiếp thu hoặc
có thể từ bỏ các giá trị khơng phù hợp đã được hình thành. Ngồi ra, theo
thời gian, sự phát triển về nhận thức và đạo đức xã hội của trẻ cũng dần
có thay đổi, mang tính xã hội hóa hơn và dần ít đi tính bộc phát (Doring,
2010). Do đó, trong một xã hội cộng đồng như tại Việt Nam, việc trẻ lớn
dần ưu tiên hơn các giá trị hướng về cộng đồng (Tự siêu việt và Bảo tồn) và
giảm mức độ ưu tiên với các giá trị hướng về cá nhân (Cởi mở để thay đổi,
Tự nâng cao) có thể tìm được cách giải thích phù hợp.
Nghiên cứu về hệ giá trị nói chung và các giá trị nhân văn nói riêng
ở trẻ em là một lĩnh vực nghiên cứu còn khá mới tại Việt Nam. Dù vậy, ý
nghĩa của nghiên cứu ban đầu này là quan trọng và thiết thực. Tính cần
thiết của nghiên cứu về giá trị nhân văn ở trẻ em nằm ở mục tiêu vừa tìm

hiểu, vừa đưa ra chất liệu đủ để suy tư về định hướng hành vi, nhân cách,
phương thức đáp ứng các nhu cầu riêng của trẻ. Nghiên cứu cũng giúp nhà
giáo dục, các bậc phụ huynh có cái nhìn đúng đắn hơn về trẻ, hiểu rõ hơn
quan điểm và cách nhìn nhận của bản thân trẻ cũng như mong đợi của
phụ huynh đối với con cái mình. Thơng qua nghiên cứu này, nhóm tác giả
mong muốn có thể áp dụng thêm những cơ sở lý thuyết về giá trị nhân văn
và công cụ Picture-based Value scale for children (PBVS-C, Doring, 2010)
để tìm hiểu sâu hơn về động cơ thúc đẩy hành động của trẻ em trong học
tập, hướng xử lý tình huống – hướng hành động của trẻ trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Nguyễn Tuấn Anh (2021). Hệ giá trị và hành vi ủng hộ xã hội ở thanh niên (Sách
chuyên khảo). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Tuấn Anh (2018). Hệ giá trị của thanh niên theo lý thuyết của Schwartz.
Tạp chí Tâm lý học, số 4/2018, tr.73-84.
Trần Thị Minh Đức (2008). Các thực nghiệm trong tâm lý học xã hội. NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Trương Thị Khánh Hà (chủ biên) (2016). Giáo dục giá trị cho trẻ em trong gia
đình. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Dương Thị Diệu Hoa (chủ biên) (2012). Giáo trình Tâm lý học phát triển. NXB
Đại học Sư phạm Hà Nội.
408


Tiếng nước ngoài
Allport, G. W., & Vernon, P. (1931). A test for personal values. The Journal of
Abnormal and Social Psychology, 26(3), 231-248.
Blisky, W, & Doring, A. (2013). Assessment of children’s value structures and
value preferences. Swiss Journal of Psychology, 72(3), 123-136.
Doring, A. K. (2010). Assessing children’s values: an exploratory study. Journal of

Psychoeducational Assessment, 28, 564-577.
Doring, A. K. (2018). Measuring children’s values from around the world: Crosscultural adaptations of the Picture-Based Value Survey for Children
(PBVS-C). Studia Psychologica, 1(18), 49-59.
Rokeach, M. (1973). The nature of human values. Free Press.
Rozycka-Tran, J., Khanh Ha, T. T., Cieciuch, J., & Schwartz, S. H. (2017).
Universals and specifics of the structure and hierarchy of basic human
values in Vietnam. Health Psychology Report, 5(3), 193-204.
Schwartz, S. H. (2006). Basic human values: Theory, measurement, and
applications. Revue Franỗaise de Sociologie, 47.
Schwartz, S. H. (1992). Universals in the content and structure of values: Theory
and empirical tests in 20 countries. In M. Zanna, M. (Ed.), Advances in
experimental social psychology, 25, 1-65. Academic Press.
Schwartz, S. H., & Rubel, T. (2005). Sex differences in value priorities: Crosscultural and multimethod studies. Journal of Personality and Social
Psychology, 89(6), 1010-1028.
Truong, T. K. H., Nguyen, V. L., & Różycka-Tran, J. (2015). Similarities and
differences in values between Vietnamese parents and adolescents. Health
Psychology Report, 3(4).
Wiener, Y. (1988). Forms of value systems: A focus on organizational effectiveness
and cultural change and maintenance. The Academy of Management
Review, 13(4), 534-545.

409



×